← Quay lại trang sách

Tâm sự một nhà văn ký giả

Sơn Nam

(Giai phẩm Xuân Bách Khoa Tết Ất Tỵ 1965)

Sở trường của tôi là viết truyện ngắn từ bảy tám năm qua, tôi hi vọng dùng công việc sáng tác truyện ngắn là một cái nghề để kiếm cơm; như vậy, tôi vui sướng và được những tự do hơn các bạn làm tư chức, giáo viên. Tôi viết sẵn từng loạt truyện ngắn (viết theo đề tài do tôi chọn lựa) đem đến các tòa soạn báo hằng ngày để “bán bài”, nghĩa là đăng báo bài nào thì lãnh tiền bài nấy, không đăng thì mất luôn bản thảo. Người bán bài phải có nhiệm vụ tới lui thường xuyên các tòa soạn để ngoại giao, dò xem tình hình để tiên đoán truyện ngắn của mình chừng bao lâu nữa sẽ đăng. Khổ cực quá! Nói chung, hễ viết mười truyện, được đăng ba truyện còn bảy truyện kia thì để đó chờ xem.

Mấy anh bạn phụ trách trang trong thường tỏ bày thiện cảm, an ủi tôi bằng một câu đại khái:

– Bài của anh thì hay nhưng ngặt vì đăng không hợp. Nên chọn lựa cốt truyện, viết hấp dẫn hơn.

– Hấp dẫn là làm sao?

– Là ly kỳ, gay cấn.

– Ly kỳ gay cấn nghĩa là sao?

– Là… độc giả ngửi được.

– Độc giả thích ngửi mùi gì?

Mấy anh bạn phụ trách trang trong lại trợn mắt:

– Bộ anh muốn ăn cắp bí mật nhà nghề sao chớ. Trong làng báo, ai đánh hơi giỏi hơn, đoán trúng nhu cầu của độc giả là người có cơ làm giàu. Phải cung cấp nhu cầu hiện tại và chuẩn bị trong tương lai, tạo thành một thứ thời trang; người sành điệu phải cầm trong tay tờ báo đó, chớ không phải tờ báo khác. Sống như tiệm phở, tiệm uốn tóc, tiệm may áo. Tuy hai tiệm giống nhau nhưng khách hàng thích ra nơi nào hợp thời trang nhứt.

Tôi lại hỏi:

- Theo ý các anh, hiện giờ và trong vài tháng tới, độc giả thích những truyện ngắn thuộc về loại gì?

- Nếu biết trước, tôi sẽ trở thành triệu phú. Chẳng có ai biết trước cả. Đó là việc cầu may. Mỗi ông chủ báo đều hưng thịnh hoặc suy vong tùy theo số… tử vi của họ.

Kể từ đó, qua những chập chững trên đường sanh kế, tôi bắt đầu tìm tòi suy nghĩ, thấy rằng báo chí ở Sài Gòn cũng giống như báo chí Âu Mỹ.

Hồi thời báo Đuốc Nhà Nam, Nông Cổ Mín Đàm, bài báo được viết kỹ lưỡng như bài khảo cứu, in thành sách ngày nay. Độc giả thời xưa rất ít, gồm giới thượng lưu hoặc trung lưu.

Ngày nay khác xa.

Nhựt báo là món ăn tinh thần của toàn dân, mọi giới, mọi ngành như lời nêu trên báo. Trong thời đại dân chủ, máy in, kỹ nghệ giấy, phương tiện giao thông phát triển, tờ báo đã tới tay giới bình dân, từ thành thị tới thôn quê. Giới bình dân tiêu thụ báo rất mạnh. Hễ bám được giới bình dân, chủ báo mỗi ngày mỗi thâu tiền lời.

- Giới bình dân gồm những ai?

Xin trả lời: Gồm nhiều từng lớp mà hơn phân nửa số người bình dân là đàn bà, con gái. Thời xưa, báo chí luôn cả văn nghệ đều sản xuất nhắm vào cảm quan của bọn đàn ông. Bây giờ, báo chí, văn nghệ đã biết nhắm vào đối tượng đàn bà, con gái và bọn trẻ vị thành niên.

Đó là một sự tiến bộ, tại sao có người lại bi quan thế? Bi quan vì ưu thời mẫn thế hay vì ganh tị với ông chủ báo bất tài nhưng giàu quá mau hơn mình?

Ngày nay, chẳng riêng gì bên Âu Mỹ, chúng ta sống trong thời đại phổ biến mà báo chí, phim ảnh, máy thâu thanh đóng vai trò quan trọng. Đọc báo, xem xi-nê, nghe radio chẳng còn là ưu quyền của một số người thành thị như hồi ba chục năm về trước. Các phương tiện nói trên có tác dụng mạnh, lẽ dĩ nhiên chủ báo, chủ hãng phim và ban giám đốc đài phát thanh đều muốn thu hút khán giả, độc giả, càng nhiều càng tốt. Sự hiểu biết của quần chúng ngày càng rộng (tuy không sâu), trình độ thưởng thức nghệ thuật ngày càng đồng đều nhau (tuy không cao).

Đàn bà, con gái đã ra đường, tham gia sinh hoạt kinh tế, xã hội. Họ đòi được giải phóng khỏi sự áp bức của bọn đàn ông nhưng lần hồi họ thất vọng âm thầm vì đi làm ngày hai buổi với đồng lương hơi thấp thật là cực nhọc hơn nấu bếp giữ con. Họ muốn giải trí, muốn tìm một chân trời hạnh phúc mơ hồ, nửa hư nửa thực! Hoàng hậu Saroya, công chúa Magaret, cô đào Thanh Nga, Tây Thi, Hoa Mộc Lan… đã trở thành những người bạn quen thuộc. Trong khi đó, đa số bọn đàn ông cảm thấy thất bại trước trào lưu xuống đường của phái yếu! Họ dùng uy quyền, tiền bạc để nhử phái yếu, nhưng hỡi ôi, rốt cuộc họ bị phái yếu làm khổ, thợ câu đã trở thành con cá và con cá lại hiên ngang lôi kéo ông thợ câu xuống nước.

Đối với cuộc sống, bọn đàn ông tỏ ra thái độ hùng hổ, dùng lý luận để phân tách, cãi vã. Phái yếu thì giữ thái độ dường như hợp lý hơn: xây dựng hạnh phúc, hưởng hạnh phúc… Viễn ảnh một cuộc chiến tranh nguyên tử, sự phi lý, sự cô độc… đã chứng minh rằng bọn đàn ông dường như thất bại. Nhiều người đàn ông đã ngoan ngoãn ôm ấp cái nhân sinh quan của đàn bà để mà sống. Bởi vậy nhiều bài báo, nhiều tiểu thuyết nhằm vào nữ độc giả nhưng rất ăn khách đối với nam độc giả.

Sự phát triển của khoa học và võ khí nguyên tử đã khôi phục ngành tiểu thuyết dự tưởng, tiểu thuyết rùng rợn toát mồ hôi lạnh. Trong nhựt báo ở nước ta, hai loại tiểu thuyết này vẫn có mặt, mang màu sắc Á Đông, đó là loại kiếm hiệp đánh chưởng và chuyện ma quỷ. Kiếm hiệp đánh chưởng đưa độc giả vào khung cảnh trung cổ, những nhân vật trung cổ dùng khí giới tự động, điện tử của tương lai.

Một điều đáng chú ý là muốn gây cảm giác rùng rợn, những văn sĩ Tây phương dùng phương pháp phân tích tâm hồn con người: Nào vô thức, tiềm thức, bản năng; đối với độc giả bình dân ở xứ ta phương pháp phân tách ấy không có hiệu quả. Họ thích đọc những chuyện luân hồi quả báo, oan gia nghiệp chướng, dính dấp tới số mạng, tiền định hoặc những cổ tục.

Trong thời đại giao thông dễ dàng nhanh chóng (nào xe hơi, máy bay, máy radio) đã xảy ra hiện tượng con người cô độc, ít tha thiết đến vấn đề chánh trị vì chánh trị được xem như một ngành chuyên môn với kỹ thuật riêng. Mỗi người sống theo kiểu đóng khung trong phạm vi nghề nghiệp của mình. Cô gái gánh hồ, khiêng gạch thì cần biết đến anh cặp rằng, người phát tiền hoặc làm thầu khoán, ai làm bộ trưởng bộ Kiến thiết, chủ trương của bộ Kiến thiết như thế nào, cô gái chẳng cần biết. Đừng nói chuyện xa vời, cứ nhìn vào làng văn nghệ, mà xem mỗi ngành đều biến hóa, người viết văn chưa thông cảm hoặc chưa hiểu sơ qua sanh kế, hoặc thắc mắc về đường lối của người phổ nhạc, người họa sĩ.

Thôi thì cơm ai nấy ăn, nhà ai nấy ở. Ngày Chúa nhật, ta đi thăm viếng quanh quẩn đôi ba người bạn thân. Trưa hoặc chiều, ta về nhà mà ăn cơm, nghỉ dưỡng sức, trong khung cảnh gia đình, với sách, nhựt báo, tuần báo, máy thu thanh. Ta vui sống trong đời tư với cái bàn, cái ghế, chiếc xe gắn máy. Nếu cần tìm hiểu những ngành khác, ta cứ tìm những loại sách bách khoa phổ thông. Nếu muốn thông cảm với dân tộc, với nhân loại, ta nghe tin tức, nghe nhạc ngoại quốc hoặc tranh ảnh…

Đời ta lên voi hay xuống chó là do số tử vi. Nhiều khi bạn bè ta thất nghiệp nhưng ta có thể kiếm tiền khá nhiều, hoặc ngược lại.

Có người đọc báo hằng ngày để tìm hiểu sinh hoạt văn nghệ căn cứ vào truyện ngắn, tiểu thuyết đăng từng kỳ để kết luận:

– Văn nghệ Việt Nam đang xuống dốc!

Những bạn ấy muốn hoài niệm thời kỳ báo Phong Hóa, Ngày Nay chăng? Không thể được.

Muốn hiểu văn nghệ đã lên hay xuống dốc, ta nên tìm sách hoặc tạp chí. Tôi tưởng rằng bên Pháp, bên Mỹ, tình hình nhựt báo cũng giống như ở nước ta. Điều khổ tâm nhất là thỉnh thoảng lại nghe vài bạn phàn nàn:

– Bà X, cô Y, viết tiểu thuyết, truyện ngắn thuộc hàng hạ cấp, dành cho con Sen. Thế mà dám xưng là nữ sĩ. Bên Pháp, báo chí… tiến bộ lắm.

Sự thật như thế nào? Nữ sĩ nói trên đã làm cái công việc phóng tác, chọn những chuyện trong các tuần san Pháp, thêm thắt vài chi tiết, sửa đổi phần kết luận cho có hậu hơn.

Tại sao một “bà đầm” cầm báo Marie-Claire, nằm trước biệt thự lại có vẻ sang trọng? Con Sen, cô gái gánh nước ở xứ ta đã đọc một chuyện ngắn phóng tác của báo Marie-Claire, chuyện phóng tác lại lành mạnh hơn nguyên bản.

Báo hàng ngày là một ngành kinh doanh, cần bỏ ra vốn to, cần thâu lợi (ở đây tôi không đề cập đến trường hợp những người làm báo vì mục đích chánh trị, cần ra báo cho có mặt trong giai đoạn nào đó).

Nếu làm báo hàng ngày theo đường lối khô khan mà bán chạy thì các ông chủ báo đã làm rồi. Nhiều người chủ trương làm báo đứng đắn khô khan, bỏ những mục nhảm nhí, phục vụ văn nghệ thuần túy… Nhưng báo sống được chẳng bao lâu! Chủ báo ấy đâm thất vọng, xoay qua làm báo… Thương mãi đi từ thái cực này đến thái cực khác: cũng diễm huyền, cũng ướt át, cũng kiếm hiệp, tử vi. Rốt cuộc, báo lỗ vốn nặng.

Độc giả báo hàng ngày đâu phải là hạng người dễ câu; “ướt át, đánh chưởng” ngay đến cả tử vi là những nghệ thuật riêng đâu phải viết bừa bãi ra là thiên hạ chọn đọc.

Báo hàng ngày ở xứ ta khó vượt qua báo chí Âu Mỹ về hình thức cũng như về nội dung. Cách thức trình bày kỹ thuật ấn loát của ta đều mô phỏng. Các ký giả Việt Nam đã nghiên cứu, theo dõi báo chí Tây Phương, rút những kinh nghiệm để kịp thời cải tiến. Nhưng số độc giả ở xứ ta, tiền bạc của chủ báo đều có giới hạn. Tâm lý của độc giả ở xứ ta vẫn theo đuôi độc giả Âu Mỹ. Dễ hiểu quá: Chúng ta bước vào cuộc sống trưởng giả sau người Âu Mỹ. Chúng ta chưa có vô tuyến truyền hình. Rồi đây, báo hằng ngày ở nước ta sẽ đến giai đoạn có thêm mục mốt quần áo, thêm nhiều trương đăng quảng cáo.

Tóm lại, tình trạng chưa đến nỗi bi quan. Đó là kết luận tạm thời do tôi nêu ra. Lẽ dĩ nhiên, tôi đã chủ quan. Tôi mang ơn báo hàng ngày. Nó giúp cho tôi vài công ăn việc làm. Và bạn trẻ nào yêu văn nghệ (mà chưa có huê lợi nào khác) thì hãy theo “sách lược” bán văn nuôi miệng như sau:

– Mỗi tờ nhựt báo đều có công thức riêng. Nhập gia tùy tục đừng tự ái lặt vặt. Hãy xem mình như người kép hát, ai biểu ca bản nào thì ca bản nấy.

– Đừng mong chiếm đoạt những mục dễ ăn. Đã có những người khác chiếm trước rồi. Viết tiểu thuyết đăng báo đâu phải chuyện dễ. Viết thì ai cũng viết được, nhưng độc giả chịu theo dõi hay không? Những mục “Hộp thơ”, “Giải đáp tâm sự” đã lọt vào những cây bút thân cận của chủ báo, hoặc chủ bút.

– Mỗi chuyện phải có cốt chuyện đầu đuôi mạch lạc, tránh lối phân tích hiện sinh. Những chuyện gọi là “cao” nên đăng ở tạp chí hoặc in thành sách cho xong.

– Nên gia nhập vào một “ê-kíp” để dễ bề làm ăn. Anh em đi đâu cũng kéo mình theo. Nếu mình thất nghiệp, những bạn thân ấy sẽ nhớ tới.

– Viết bài ít tốn thời giờ hơn là… chờ lãnh tiền. Phải theo dõi tình hình lương phạn, ngày giờ trả tiền, cách thức mượn tiền.

Nhưng điều quan trọng nhứt vẫn là dành riêng thời giờ để sáng tác – những sáng tác mà mình đắc ý nhứt. Nhiều bạn trẻ viết truyện ngắn, làm thơ rất khá nhưng sau khi viết báo hằng ngày thì lần hồi quên chuyện sáng tác. Thế là hỏng! Phải chủ động, lúc vùi đầu vào sanh kế. Nếu nổi danh thì đừng chủ quan cho rằng: “Tờ báo ấy bán mỗi ngày 30 ngàn số, tức là ta đây có 30 ngàn người ái mộ”. Lúc nào làm ra tiền, nên ăn xài lai rai, đừng trụy lạc làm bạn với nàng tiên nâu mà nguy hại về sau. Nếu thất nghiệp, nên kiên nhẫn chạy chọt, chờ đôi ba tháng là sẽ gặp cơ hội. “Trong trần ai, ai dễ biết ai? Thế Chiến quốc, thế Xuân thu, gặp thời thế thế thời phải thế!”. Báo hằng ngày đã tạo ra nhiều nhà văn, đồng thời cũng giết chết sự nghiệp tinh thần của nhiều kẻ có khiếu viết văn. Sau năm bảy năm viết báo, ta còn lại bài nào hay? Thảm hại cho những ai chỉ còn hai bàn tay trắng, ương ương gàn gàn, văn sĩ không ra văn sĩ, ký giả không ra ký giả với một bầy con đông, một bà vợ bé và một thú tiêu khiển đi mây về khói.

Người đẹp xứ Đồng Nai qua các thời đại

Tô Mỹ Hạnh

(Giai phẩm Xuân Tin Sớm Tết Bính Ngọ 1966)

Các sáng tác phẩm miền Nam thời cụ Đồ Chiểu không nói rõ mỹ nhơn đất Đồng Nai ra sao cả, thành thử ta cũng khó lòng mà hình dung ra họ.

Chỉ biết là họ đeo nữ trang quá nhiều, đeo đầy cổ, đầy ngực, đầy cườm tay, đầy cả cườm chơn nữa, qua mấy bài ca dao dưới đây mà có người còn nhớ.

Văn thơ truyền khẩu thiệt là hữu ích về phương diện khảo cứu đời sống của nhân dân thời trước.

Và đây, một thiếu nữ mười ba tuổi, con nhà giàu, người có thật, có tên có họ hẳn hòi, bà mẹ cũng được người làm ca dao biết rõ, tóm lại đây là một bài ca dao có tánh cách địa phương triệt để, nói đến một gia đình trong một xóm nhỏ ở miền Nam.

Đây là một cô gái đẹp miền Nam, lối năm 1880:

Có người lịch sự trong trời đất/ Tuổi mới mười ba/ Cha mẹ đặt là/ Họ Dương tên Thích/ Ta xem hình tích,/ Diện mạo tợ tiên/ Cái miệng có duyên/ Má núm đồng tiền,/ Dợn xây bốn cái/ Trăm người đều ái/ Muôn kẻ ước ao/ Lịch sự làm sao/ Duyên này cha chả!/ Cha mẹ đành gả/ Mấy trăm mấy ngàn/ Gả cho những chàng/ Hạp dươn cầm sắt,/ Để coi duyên nợ/ Cô ấy về ai,/ Con trai ngày ngày/ Luôn luôn ao ước/ Đứa nào có phước/ Được chữ Ngưu Lang/ Sức đáng vợ quan/ Cùng là công nữ/ Cha mẹ gìn giữ/ Cửa đóng then gài/ Trâm giắt lược cài/ Quần hồng áo tím/ Nhiễu điều may yếm/ Thợ bắt bông thêu/ Bông vàng bông đỏ/ Năm đôi vòng nhỏ/ Thợ chạm Tứ linh/ Cà rá trong mình/ Biết bao nhiêu bộ!/ Hoa tai kiềng cổ/ Dưới chân đi giày/ Bắt bông lưỡng diện/ Cô cười mỉm miệng/ Cũng đáng một trăm/ Khá khen thím Năm/ Khéo sanh con nhỏ/ Má hồng ửng đỏ/ Hình tích vuông tròn/ Dáng bộ quá ngon/ Ai ai cũng muốn.

Và đây, một cô gái đẹp khác nữa, cũng cứ qua ca dao. Cô này có lẽ là một gái giang hồ, chớ không phải gái nhà lành như cô trước, thứ gái giang hồ làm thiếp cho một công tử nào và cứ đòi hỏi này nọ mãi, và còn cuốn gói bỏ rơi cậu công tử là khác:

Anh thương em/ Mua cho em/ Cái quần nhiễu đỏ/ Cái áo màu nu/ Một đầu tóc mượn/ Một lượng kiềng vàng/ Hột xoàn cà rá/ Nón lá lông chiên/ Một trăm chuỗi huyền/ Một thiên chuỗi hổ/ Một bộ rổ may/ Một đôi giày nhung/ Thêu bươm bướm bạc/ Bây giờ thất lạc/ Em đành bỏ anh.

Đó là những hạng gái có tiền, tiểu tư sản hay kỹ nữ thì không rõ lắm.

Còn nông dân mà đẹp thì giản dị hơn. Đây là một ông chồng khuyên vợ:

Bậu có thương qua thì:/ Khăn bà ba đừng đội/ Phường hát bội đừng mê/ Bài cắc tê đừng mắc/ Bài tứ sắc đừng ham.

Ngày nay, ta biết áo bà ba mà không hề thấy khăn bà ba.

Bà ba là tên xưa của dân Mã Lai, họ dệt một thứ khăn màu sặc sỡ mà nông dân ta cho là đĩ thỏa, cấm phụ nữ đội, nhưng phụ nữ bình dân lại rất mê loại khăn ấy. Âu cũng là một cách làm dáng y như ngày nay phụ nữ bình dân mặc áo bà ba ny lon rằn ri xanh đỏ vậy.

Và đây y phục của một cô gái bình dân đẹp:

Áo vá vai, vợ ai chẳng biết,

Áo vá quàng, chí quyết vợ anh.

Đây là một bài hát ghẹo, trai gái ghẹo nhau trong đám đông.

Áo vá quàng, theo cái nghĩa nguyên thủy của nó là áo vá sơ sịa.

Nhưng phụ nữ bình dân miền Nam vào cuối thế kỷ trước lại lăng xê ra cái mốt áo vá quàng. Áo mới may xong, họ cắt bỏ thân trên thay vào đó bằng một thân khác, may bằng vải khác loại, khác màu.

Và âu cũng là một lối làm dáng của người nghèo, họ chỉ được phép mặc đen hay mặc những màu u tối buồn bực. Áo vá quàng của họ cũng chỉ hai màu u tối mà thôi. Nhưng hai màu, vẫn linh hoạt hơn là một màu.

Áo vá rất công phu, chớ không còn sơ sịa, và đó cũng là một công trình mỹ thuật của phụ nữ bình dân miền Nam vào cuối thế kỷ trước.

Về sắc đẹp của phụ nữ quý phái miền Nam vào cuối thế kỷ trước, ta có tài liệu chính xác, mà là tài liệu quốc tế nữa, chớ không riêng gì ở Việt Nam đâu.

Cô Ba đẹp tuyệt trần, đẹp theo thuở ấy, cố nhiên, và chơn dung của cô được in hình lên con tem gởi thơ đầu tiên ở xứ nầy.

Quốc tế là ở chỗ đó, vì hiện nay các tay sưu tầm tem trên thế giới đều có tem cô Ba, mà hay còn chưa có người được thấy lần nào.

Cô Ba lại còn nổi danh thế giới vì một việc khác nữa. Một hãng xà bông ở Mạt xây (Pháp) đã xin phép dùng hình và tên của cô Ba để làm nhãn hiện cho một loại xà bông thơm, xà bông nầy không phải chỉ bán riêng qua Đông Dương mà còn bán ở khắp các thuộc địa khác của Pháp trên thế giới.

Ai không có diễm phúc thấy con tem cô Ba xin xem hình trong bài thì rõ. Đó là hình bìa của một ấn bản truyện Kiều ở Saigon vào đầu thế kỷ.

Ông họa sĩ vẽ cô Kiều ở cái hình bìa ấy rất là ngây ngô, nhưng đúng y sự thật: đó là hình ảnh rất trung thành của một thiếu phụ miền Nam cách đây bảy tám mươi năm.

Cô Ba cũng giống y hệt như thế.

Lẽ cố nhiên là chơn dung của cô Ba, trong con cò gởi thơ, chỉ chụp bản thân mà thôi, tuy nhiên cô Ba ở đó và ở đây đều trình bày chiều nghiêng của mặt, cho ta thấy rõ cái búi tóc của cô, búi theo thời bấy giờ, gọi là lối búi “ba vòng một ngọn có thả bánh lái”.

Từ nãy giờ ta thấy quan niệm về sắc đẹp phụ nữ của miền Nam thời trước chỉ quanh quẩn ở y phục nữ trang và mái tóc. Qua ca dao và hình ảnh thì như vậy. Còn qua miệng người?

Chúng tôi còn nhớ ông nội chúng tôi, năm nay đã gần chín mươi rồi mà hôm nào vui miệng ông kể rằng thuở ông đi coi mắt bà nội chúng tôi, ông rất vừa ý cái lối đánh đồng xa dịu nhỉu của bà.

Vậy đánh đồng xa (tức để cho hai cánh tay đánh đồng đưa tự nhiên lúc đi) là một yếu tố đẹp.

Đó là trong thế hệ của ông nội chúng tôi.

Đến thế hệ của thân phụ chúng tôi thì cái đẹp đòi hỏi thêm một yếu tố nữa. Hôm nào vui miệng, thân phụ tôi ca một bài Hành vân có lẽ đã có sẵn hồi đầu thế kỷ. Thân phụ tôi lớn lên thì bài Hành vân này đã bắt đầu “xưa” rồi.

Là cô đội cái khăn bông hường

Xúc động cái lòng tôi thương

Yếu tố mới ấy là cái khăn đội đầu, nhưng đó là khăn của đầu thế kỷ, khăn vuông xếp lại thành ba góc, bằng lụa Cachemire, màu hường lợt.

Vài mươi năm sau đó, đối với người đẹp của xứ Đồng Nai cái khăn vẫn là yếu tố đẹp, nhưng nó được hiện đại hóa khác đi.

Thân phụ chúng tôi có kể một tai nạn suýt chết người xảy ra trong làng người, thuở người còn trẻ thơ.

Số là trong làng có một cậu công tử ăn chơi “vàng trời”. Cậu công tử có một chiếc xe Ford, kiểu thời đó, nghĩa là bánh xe không có đĩa như bây giờ mà có căm.

Một hôm cậu công tử rước một kỹ nữ danh tiếng ở Sài Gòn về làng quê nghỉ mát. Người kỹ nữ ấy đội khăn “sạt” (écharpe) vì khăn bông hường đã hết mốt rồi. Khăn sạt bằng vải voan, đội đầu rồi quấn cổ, rồi để thòng xuống dưới gót.

Ô tô thuở ấy toàn mui trần. Người kỹ nữ ấy về tới làng, dựa sông Đồng Nai, gió nhiều quá thổi cái đuôi của khăn sạt của cô bay ra ngoài. Đuôi khăn càn trên mặt đường rồi kẹt vào căm xe. Xe chạy, cuốn đuôi khăn lại và thắt cổ người kỹ nữ ấy. Nhưng người công tử hay kịp, kêu thắng xe lại gấp, nên người ấy thoát chết.

Câu chuyện người kỹ nữ không ăn nhằm gì với bài này, nhưng nó chứng tỏ được người đẹp thuở thân phụ tôi lên bảy, làm đỏm bằng khăn sạt.

Tới đây ta vẫn chưa biết mặt mũi người đẹp Đồng Nai ra sao.

Sách vở miền Bắc xưa, còn nói đến “gương mặt trái xoan”, “đôi mắt bồ câu”, “hàm răng hột na”, “cái mũi dọc dừa”. Ở đây thì ta mù tịt.

Tuy nhiên, đọc kỹ mấy câu ca dao trên kia, ta được biết rằng người đẹp Đồng Nai gò má phải núm (lúm) đồng tiền.

Cái cô bé mười ba, họ Dương tên Thích hơn người đẹp thường vì người đẹp thường má chỉ núm có hai đồng tiền còn cô thì má “dợn xây” đến bốn cái.

Từ năm 1920 mãi tới năm 1935, phụ nữ miền Nam được điển hình bằng người có ảnh chụp trong bài này.

Họ bớt đeo nữ trang đầy mình, nhưng áo vẫn rộng thùng thình như xưa.

Ấy, trước đó, cái đẹp là ở cả cái góc gương mặt, ở cả cái bề dài của tóc, và ở cả nữ trang, còn vóc dáng, y phục không đáng kể.

Năm 1935, kiểu áo Cát Tường do báo Phong Hóa ở Hà Nội lăng xê được miền Nam hoan nghinh ngay. Tuy nhiên, họ chỉ hoan nghinh lối chít eo mà thôi, nhứt là ráp, chớ những chi tiết rườm rà khác không được ai theo.

Rất lạ là áo tay ráp đẹp hơn áo tay thường, nhưng phụ nữ ngày nay lại bỏ hẳn tay ráp.

Từ ấy những nay, áo có thay đổi nhưng chỉ thay đổi ở chi tiết vụn vặt, khi dài khi ngắn, khi bâu cao khi bâu thấp, khi hở cổ khi cổ kín, nhưng đường nét lớn vẫn là theo lối Cát Tường, nghĩa là ôm sát thân thể.

Có thể bảo rằng áo phụ nữ ta từ 1935 tới 1956 là áo Cát Tường. Họa sĩ Cát Tường đã làm chúa được 30 năm rồi.

Ta có thể nhờ khoa nhơn chủng mà vẽ ra chơn dung tổng quát của người đẹp Đồng Nai thuở ấy để biết họ ra sao, mà có thể cả đến bây giờ họ cũng mang dấu vết cũ.

Thường thì những người tiên phong đi khai hoang đất mới, như người Huê Kỳ chẳng hạn, đều là những người nghèo khổ, và rất xấu xí. Cuộc khai hoang khó nhọc và nguy hiểm càng làm cho họ thô hơn. Con cháu họ cũng thế, tuy rất vạm vỡ, nở nang, nhưng không nhã lịch (không élégant). Phải qua ít lắm là hai mươi thế hệ người, thời gian mới mài dũa thân thể họ cho hết thô.

Người Huê Kỳ thô hơn người Âu châu, thì ta cũng kém élégant hơn người miền Bắc. Ta sẽ nhã lịch y như họ, hơn họ nữa, nhưng chưa đến lúc.

Ngày nay thì khuynh hướng thống nhứt và đại đồng đã lấn mạnh địa phương tính. Về trang phục, người Nam, người Trung, người Bắc ở các thành phố giống hệt nhau. Đó là sự tan rã của sắc thái địa phương. Sắc thái quốc gia cũng đang lâm nguy. Hiện nay trong một trăm cô gái tiểu tư sản ở thành phố, có đến 80 cô mặc đầm.

Độ mười năm nữa, ta không còn nói đến người Đồng Nai được nữa rồi. Chỉ sẽ có người Việt Nam mà thôi.

* Ghi chú của báo Tin Sớm: Cô Tô Mỹ Hạnh là giáo sư Cử nhơn Văn khoa (Văn minh Việt Nam), chuyên nghiên cứu phong tục các dân tộc Ðông Nam Á.

Con chó xù Pékinois và nhà văn Lê Văn Trương

Hồi ký trào lộng của Trần Đồng Vọng

(Giai phẩm Xuân Tự Do Tết Kỷ Dậu 1969)

Minh hoạ: Tạ Kim

Tôi còn nhớ Tết Nguyên Đán năm ấy, một mùa Xuân đã xa xôi lắm, một mùa hoa gấm thanh bình của kinh thành Thăng Long khi xưa… có hàng liễu rủ bên hồ Hoàn Kiếm, có tháp Rùa soi bóng nước xanh lơ, có sương mù bao phủ như mảnh gương nhòa trên nền trời Hà Nội, có những bóng dáng nữ thần tha thướt, in dấu hài trên vỉa hè phố Hàng Ngang, Hàng Đào của đất thần kinh 36 phố phường, có bánh cốm Nguyên Ninh, bưởi Phủ Đoan và cam Bố Hạ, có đàn cò trắng bay phân vân về phương trời xa tít, có hàng cau gầy chi chít của hương đồng gió nội, có bài hát ru em của Nguyễn Bính, có áng thơ tình ướt át của Jean-Leiba. Chính là giai đoạn nền phong kiến cực thịnh của nhà nước bảo hộ Pháp đè nặng lên dải đất chữ “S” của chúng ta, của quê hương Việt Nam yêu dấu…

Tết năm ấy nhà văn Lê Văn Trương nghèo lắm!

Nghèo đến độ không có lấy một manh áo mới đón Xuân, nhà văn vẫn phải mặc lỳ chiếc áo tự thu tàn năm trước! Nhưng anh vẫn hách lắm, vẫn nổi tiếng trong văn giới là người xoay tiền tài ba nhất.

Anh vẫn xứng danh là Mạnh Thường Quân văn nghệ, đã từng tận tình giúp đỡ anh em những khi cơn đen vận túng, bị bà cả “Đọi” đến thăm nhà, đến nước phải treo niêu!

Năm nào cũng vậy, cứ đến dịp Tết là nhà văn Lê Văn Trương hết nhẵn tiền, mà bệnh hết tiền thì rất ư là hay lây, lây sang cả mọi anh em khác, chả cứ riêng gì một anh Lê Văn Trương!

Nhưng có cái khổ là: căn bệnh nan y tái phát cứ nhè lúc anh nhà văn họ Lê nhẵn “trơ thần cụ” thì các anh em lại vác mặt đến thăm anh Lê Văn Trương để xin hành khất!

Đã thành cái lệ truyền kiếp, anh Trương sẵn sàng cưu mang giới văn nghệ đói rách, chẳng bao giờ từ chối một ai, khi đã tìm đến vấn an anh, nhất là vấn an giữa ngày mồng Một Tết.

Xuân năm ấy giữa đêm Giao thừa tối đen như mực, tại số nhà… đường Gustave Dumoutier, tức là phố Chùa Vua Hà Nội cũ, trong một căn nhà trệt, không khí thật là ấm cúng vì trên cái sập gỗ, kê sát ngay tấm vách, ngăn phía sau căn nhà, một mâm đèn thuốc phiện, quây quần xung quanh đủ mặt giới văn nghệ sĩ của đất ngàn năm văn vật: Đoàn Phú Tứ có, Trần Huyền Trân có, lại có cả nhà tiểu thuyết kiếm hiệp: “Bát Quái Đạo, Bát Quái Giáo Chúa, Chu Diệt Chùa Thiếu Lâm, Thiếu Lâm Trường Hận” là anh Thanh Đình nữa…

Trong cái ấm cúng giả tạo của khay đèn ấy, nó vẫn pha thêm một cái gì lành lạnh nhàn nhạt, tố giác bộ mặt thật của không gian. Người ta nhìn thấy trên bàn thờ của chủ gia nguội tanh hương khói, bàn thờ ông vải mốc meo, nhện chăng từ trên trần nhà xuống. Nhìn chú nhện vàng đưa võng mà cảm hoài hoang mang đến cái nghèo vạn cố của kiếp nhà văn!

Nhìn lên bàn thờ tối Ba mươi trông càng thảm thiết, gần đến lúc cúng Giao thừa mà không có một mâm ngũ quả, không một tấm bánh chưng xanh, không một cân mứt, gọi là tượng trưng cho ngày Tết của chủ gia.

Đã thế càng về khuya, nhà văn Lê Văn Trương lại càng được nhiều anh em khất sĩ đến xông nhà và chúc tụng, chẳng khác gì người anh hùng Lương Sơn Bạc Tống Giang nổi tiếng là hay chiêu hiền đãi sĩ.

Dưới ánh đèn dầu lạc lù mù leo lét, nét mặt nhà văn Lê Văn Trương xám ngắt, anh ngước cặp mắt lơ đãng nhìn lên trần nhà… nhìn về phía bàn thờ, bỗng nhíu đôi lông mày lại như đang thắc mắc tìm một lối thoát giữa ngõ bí vì hết xìn… Cùng một kiểu nhìn ấy, cùng một nụ cười tủm của nhà văn họ Lê, người ta đọc được hai ý nghĩ của tác giả;

1) Năm hết Tết đến mà trong nhà không có lấy một đồng, anh cảm thương cho thân thế mình là nhà văn nổi tiếng, khi bút hoa lên có cả hàng triệu quả tim vàng rụng xuống, ba đời mê văn Lê Văn Trương.

2) Các anh em trong văn giới vẫn ca tụng anh là một quản lý văn nghệ, hôm nay đến hành khất rất đông mà chính anh lại còn đét gấp mấy, thật là đúng cảnh chó cắn áo rách, anh còn biết tính sao đây!

Bỗng dưng anh liếc mắt sáng như dao nhìn vội về phía Thanh Đình vì người thứ hai vừa tiêm xong điếu thuốc thứ 38, quay dọc tẩu mời anh. – Chú Thanh Đình, ờ, chú mày phi kiếm giỏi lắm, vậy Tết năm nay tao rách, anh em cũng rách hết, vậy chú mày có thể dùng thế võ: “di sơn đảo hải” hay “vũ đả ba tiêu” gì gì đó… đóng vai anh chàng hiệp sĩ phi thân vào Tổng Nha Ngân Khố mượn ít bạc ra phân phát cho anh em không? Anh em chỉ còn trông vào một chú mày lúc này, với tài phi kiếm thần sầu quỷ khốc của Liên Hoa Ảnh trong phái Thiếu Lâm. Nói đến đây anh Lê Văn Trương cười gần như chua chát, nhìn nhà tiểu thuyết kiếm hiệp Thanh Đình thao láo… rồi đột nhiên anh khe khẽ ngâm thơ phi lộ của Thanh Đình trong tác phẩm: “Thiếu Lâm Trường Hận”.

Ai oán tiếng thư cưu

Mang máu rửa hận cừu

Tàn phá! Ôi tàn phá!

Thiếu Lâm gió đìu hiu…

Đến đây mọi người vỗ tay hoan hô, giới hút sĩ, khất sĩ nhìn về phía Thanh Đình như chờ đợi một vị cứu tinh hộ mạng.

Như một con gà mái gầy nằm trong ổ rơm đang đau đẻ, tiểu thuyết gia kiếm hiệp của chúng ta thò dài cổ qua chiếc áo pardessus cũ rách, lú đầu lên lắc lắc, cặp mắt trim tríp xuống, tỏ dấu hiệu vô hi-vọng, cất tiếng khàn khàn đáp:

- Chẳng mấy khi anh Trương trông cậy vào tay kẻ hèn, nhưng khốn nỗi đến ngày hôm nay rồi thì đệ cũng xin chịu thúc thủ, vì sáng mai nầy đã là ngày mồng Một Tết rồi, dù có tài phi thiềm tẩu bách, dùng đến thế võ nào đi chăng nữa cũng chẳng có ma nào hưởng ứng, người ta kiêng rất kỹ nói chuyện tiền bạc khi vừa bước chân sang năm mới!

Mọi người cười rộ! Chỉ vào tiểu thuyết gia kiếm hiệp Thanh Đình châm chọc: “Thế chú mày phun kiếm ra giết chết bỏ mẹ chúng nó đi nghe!”

Chợt, bỗng nhiên nhà văn Lê Văn Trương vỗ đùi đen-đét, cập mắt sáng long lanh, nước da tái mét bỗng dưng đanh lại, anh buột miệng đắc ý nói to:

– Diệu kế! Diệu kế! Thực là diệu kế! Con chó xù Pékinois của tao đâu rồi? Đi tìm con chó xù lại đây cho tao! Hoan-hô chó xù! Diệu kế, diệu kế!

– Muôn năm chó xù!

– Vạn tuế chó xù! Vạn tuế chó! Chó! Chó!

Mọi người tưởng anh vừa lên cơn điên, nhìn chầm chập vào anh như nửa tò mò, nửa sợ-sệt!

Chợt anh giơ tay phân bua:

- Tao không điên đâu, chúng bây ơi! Tao nghĩ được cách có xìn rồi, lại nhân nghĩa nữa! Vậy đúng 12 giờ sáng mai, tao mời chúng mày lại tập trung tại nhà cô đào X… Ngã Tư Sở, tao khao một chầu hát đầu năm và luôn tiện chia tiền cho tụi bây xài Tết. Kế hoạch của tao vẫn là con chó, phải vẫn là con chó Pékinois của thằng docteur Tuân vừa cho tao, chúng mày biết chưa!...

Mọi người nhìn anh rất ngạc-nhiên, vẫn mù tịt chẳng biết kế hoạch con chó xù là thế nào tại sao anh Trương lại vạn tuế cả chó, lại muôn năm đến cả chú cẩu nữa?

Đến đây câu chuyện đã hơi dài; khi tôi kể cho các bạn nghe mẩu chuyện vui mùa Xuân, vậy xin tóm tắt đoạn kết:

Thế là buổi sáng tinh mơ ngày hôm sau, ngày mồng Một Tết nhà văn của chúng ta thi hành mưu kế đã định.

Anh đã lục tìm trong đầu óc sẵn một danh sách, có tên chừng hai mươi ông bạn thân, yêu văn nghệ mê tiểu thuyết gia Lê Văn Trương.

Anh khởi hành từ mờ sáng, đến xông nhà từng người một, giắt theo chú xù Pékinois tay phải bấm chuông, tay trái dìu chó vào tìm gia chủ để chúc Tết và trang trọng biếu con chó quý để chúc thọ năm mới.

Anh xếp đặt những câu mở màn để rào đón và xoay tiền khéo:

- Thưa anh chị! Tết này đến sớm quá! Kẻ hèn bận viết quên cả việc mua sắm, nhớ đến anh chị và các cháu là những người thân mến nhất, tôi phải lật đật đến thăm ngay, vậy tôi có con chó khôn, gia tài quý giá nhất, thành tâm mang nó lại kính biếu anh chị và mừng tuổi đón Xuân. Vừa nói nhà văn vừa cột chú chó xù vào chân bàn, cạnh ngay chú mèo mun của gia chủ.

Gia chủ vội vàng đón nhận và cảm ơn rối rít, ca ngợi hết mình ông khách quý trong làng văn nghệ!

Để rào đón thêm và đưa vào mê hồn trận, luôn miệng vờ than túng, Tết đến không có dư tiền đi hát ả đào, đi giải trí tổ tôm mừng năm mới, buồn quá! Vừa nói anh vừa chỉ vào quà biếu là con chó xù, ca ngợi nó khôn nó đẹp! Thế là động lòng trắc ẩn, hòn đất ném đi, hòn chì ném lại, gia chủ nhìn món quà biếu xem cũng đáng giá, vội vàng lục ví, lấy tiền phong bao lì xì chừng một “sín” cho nhà văn đi giải trí lành mạnh mừng Xuân.

Sau khi chủ khách đã trao đổi mọi chuyện vui năm mới, anh giả vờ là còn bận đi thăm các bạn khác, xin cáo từ ra về.

Con chó cột chân bàn, thấy chủ tự nhiên phú lỉnh một mình, vội nhảy tưng tưng lên cắn rầm rĩ, định tháo xích chạy theo chủ, rồi, bỗng thình lình chú mèo ở đâu chạy lại, hai bên chó mèo xô xát gây chiến tranh. Chờ đợi đúng lúc, phải can thiệp, nhà văn của chúng ta chạy lại xua chú mèo ra, cởi xích bồng luôn chú xù lên tay, tỏ dấu hiệu âu yếm, ghé miệng hôn nhẹ lên lưng nó và từ tốn, trang nghiêm phân vua với chủ nhà:

- Thôi, anh chị giàu có, chẳng thiếu gì giống vật quý giá, chó xù nhớ chủ, thấy tôi về nó nhớ nó khóc, tội nghiệp quá nếu tôi bỏ nó lại một mình… Vậy xin đỡ anh chị, tôi lãnh về nuôi giùm nó, xin cảm ơn anh chị tôi về…

Vừa nói nhà văn của chúng ta vừa giắt theo chó bước luôn ra cổng. Rồi bổn cũ soạn lại. Cứ thế nhà văn Lê Văn Trương lần lượt đi thăm và biếu chú xù từng ông bạn vàng một.

Đến đúng ngọ 12 giờ sáng, tiền phong bao lì xì đã đầy túi, con chó xù Pékinois vẫn lẽo đẽo theo chủ, cố kết với nhà văn nghèo như bóng với hình trở lại nhà cũ. Con chó là món quà quý đã 20 lần biếu xén, rốt cục châu lại về hợp phố!

Quả thực là mưu thâm Gia Cát!

Chuông nhà thờ vừa điểm 12 tiếng ngân nga! Giờ hẹn của nhà văn mời các bạn đến ăn khao một chầu hát ả đào tại Ngã Tư Sở mừng Xuân mới và chia tiền cho đám khất sĩ xài Tết đã đúng hẹn!

Mưu kế con chó xù Pékinois của nhà văn Lê Văn Trương đã thành công mỹ mãn. Tết năm ấy anh em đã được đón nhận một ngày Xuân vui vẻ!

Vạn tuế chó! Muôn năm chó!

Chó xù Pékinois đã đem lại cho các nhà văn Việt Nam một mùa Xuân vui tươi…

Nam Thành, Sài Đô ngày đầu Xuân

Mùa xuân mười tám

Hà Mai Lan

(Giai phẩm Xuân Chính Luận Tết Kỷ Dậu 1969)

Nhật ký của mẹ

Le 28 Janvier 1943

Hôm nay là ngày 23 tháng Chạp rồi. Sáng sớm, tôi với mẹ tôi và chú Hai gọi xe kéo đi chợ Đồng Xuân. Trời lạnh quá... Mẹ tôi co ro trong chiếc áo bông cộc. Nhưng chiếc áo không đủ ấm. Tôi thấy mẹ tôi run lên từng hồi, và hơi thở thì khói trắng bay ngào ngạt. Chú Hai đỡ tôi và mẹ tôi lên xe đi trước, chú đạp cái xe đạp cọc cạch đi sau. Tôi bảo mẹ tôi đợi trời sáng hãy đi, nhưng mẹ tôi không nghe, còn mắng tôi:

– Đi chợ mà như cô thì rồi còn mua được cái gì tươi tốt nữa?!

Tôi yên lặng. Mẹ tôi thường có lý trong vấn đề mua bán…

Từ Ô Yên Phụ này tới chợ Đồng Xuân, tuy chẳng lấy gì làm xa cho lắm, nhưng trời lạnh và mưa phùn thì rơi tơi tả làm cho mẹ tôi và tôi ngồi trên chiếc xe cao su dù đã bỏ mui che cánh gà, nhưng cũng vẫn thấy lạnh và đường thì dài làm sao…

Xe tới Hàng Than thì trời mưa lớn hơn. Cái lạnh lại càng thấm thía hơn. Lúc ở nhà đi đồng hồ chỉ 6 giờ. Bây giờ chắc hơn sáu giờ… Sáu rưỡi không chừng, mà trời vẫn còn tối lắm. Đèn đường vẫn còn bật sáng. Ánh đèn vàng ủng soi trên những vũng nước lép nhép. Đường vắng lắm… Khi xe chở mẹ con tôi tới Hàng Than thì mới thấy tàu điện Cống Vọng Yên Phụ ở mạn Hàng Cót tiến lên.

Hai mẹ con tới chợ tuy sớm, nhưng cũng đã có nhiều người tới rồi. Các bà mẹ An-nam thường giống nhau. Tất cả đều lo lắng cho những ngày giỗ Tết. Mẹ tôi cười, nhìn tôi như thầm bảo:

– Con thấy không? Mẹ nói có sai đâu! Không đi sớm thì cứ là mua tôm thối cá ươn!

Ba cỗ mũ áo cúng ông Công ông Táo mẹ tôi đã mua từ chiều hôm qua ở phố Hàng Mã. Hôm nay mẹ tôi mua cá chép về cúng rồi thả… Sau lưng nhà tôi là Hồ Tây rộng bát ngát, việc thả cá này mỗi năm xảy đến một lần vào ngày cúng ông Công ông Táo. Năm nay cũng thế… Mẹ tôi nhất định phải chọn cho “ngài” con ngựa thật đẹp, thật khỏe…

Hai mẹ con dẫn nhau tới dãy hàng cá… Những con cá chép râu vênh được rộng trong những chiếc nồi hông lớn. Râu cá vểnh lên như thách thức người mua…

Hai mẹ con và chú Hai về tới nhà thì đã hơn chín giờ. Nhân dịp này chú có công việc để làm… Chú Hai là chú họ xa, từ dưới quê ngoại lên ở với gia đình tôi. Chú có một mình, không vợ không con nên ở đâu cũng tiện. Chú Hai gói bánh chưng rất khéo, nên năm nào chú cũng gói… Hăm ba tháng Chạp chú bắt đầu sửa soạn, chẻ lạt và mua dần dần các vật dụng cần thiết. Có cái xe đạp cũ, chú đi đủng đỉnh cả ngày, xem gạo nếp tốt, đậu xanh tốt, rồi thì thịt lợn ngon. Chú tỉ mỉ lựa chọn cả từ cái ống giang chẻ lạt. Dĩ nhiên là lá dong gói bánh đối với chú thì khỏi chê ở chỗ nào. Chú gói bánh không cần khuôn mà cái nào cái nấy vuông vức ngay ngắn như viên đá hoa vậy…

Le 29 Janvier 1943

Hôm nay mới có 24 ta. Mấy đứa em tôi 28 mới được nghỉ. Năm nay chắc cũng như mọi năm, nghỉ mười ngày. Mồng 8 Tết thì đi học, tụi bạn tôi sướng thật. Chả bù cho tôi phải bỏ học sớm. Con Phượng, con Tâm, con Hoàng… chúng nó được tiếp tục học còn tôi thì ở nhà coi sóc gia đình. Nghĩ cho cùng tất cả vì hoàn cảnh cả. Mình là chị cả phải lo cho các em. Chẳng lẽ tôi để mẹ tôi lo cho tất cả thì càng khổ cho bà. Từ ngày Thầy tôi mất đi, cảnh gia đình trở nên túng thiếu. Các em tôi còn được ăn học cũng là nhờ công mẹ tôi tảo tần sớm hôm. Tôi phải ở nhà trông nom mọi việc.

Tôi để dành được hơn hai mươi đồng. Tôi quyết định hôm nay sẽ chẻ cái ống giang ra, lấy tiền. Thằng Cơ, con Qui, thằng Chính, tôi sẽ mua cho chúng nó mỗi đứa một món quà Tết. Tôi nhớ hôm qua lúc về qua Hàng Giấy thấy hiệu giày Phương Toàn bày mấy đôi trông lịch sự lắm. Thằng Cơ và thằng Chính chắc đi vừa như in. Con Qui thì phải mua cho nó cái gì khác mới được. Cái áo len chẳng hạn. Tôi đã đi hỏi giá ở Hàng Đào, 6 đồng rưỡi…

Mãi viết lăng nhăng, có một việc đáng ghi thì suýt nữa lại quên. Tôi gặp cậu Phong lúc đứng ngắm giày cho Cơ với Chính. Cậu Phong chào tôi trước và hỏi tôi đi đâu. Tôi nói tôi đi xem giày cho thằng Chính và thằng Cơ, thì cậu bảo:

– Cô cứ mãi lo cho các em, không lo cho mình hay sao?

Rồi cậu ngừng một lát, mới nói tiếp:

– Sang năm cô 18 rồi, chắc tôi được uống rượu đấy nhỉ?

Tôi thẹn đỏ cả mặt, tôi không ngờ cậu Phong nhớ tuổi của tôi như thế!

Tôi thẹn thùng đứng yên lặng trước cửa hiệu giày. Chiếc khăn tay của tôi rơi xuống đất lúc nào không hay. Tôi thấy cậu Phong cúi xuống gần tôi nhặt chiếc khăn lên, tần ngần. Tôi lại thấy cậu để chiếc khăn sát vào ngực, rồi đưa lên mũi hít mạnh. May quá, lúc đó mới sáng, và ngoài đường phố thì mưa nên ít người qua lại. Tôi thẹn quá bỏ cậu Phong mà đi nhanh về phía Hàng Đậu, là chỗ mẹ tôi và chú Hai chờ…

Le 30 Janvier 1943

Không hiểu sao từ lúc gặp cậu Phong ở Hàng Giầy về nhà tới giờ, tôi nghĩ tới cậu nhiều quá. Trước đây cậu Phong ở ngay bên cạnh nhà mà có bao giờ tôi nghĩ đến cậu như bây giờ đâu?

Chú Hai đã tìm được cây tre dài và thẳng. Chú hì hục làm cả ngày, và tối nay thì cây nêu đã gần xong. Chỉ còn thiếu khánh gỗ, mõ gỗ và những thứ cờ quạt thôi. Nhưng chú bảo năm nay chú không treo những thứ đó nữa. Chú nhớ ngày hội “cát tó” [10] vừa rồi, người ta dựng cái cột mỡ cao ngất, và trên đó có treo đủ thứ quà đẹp như ô, cặp. Năm nay chú nhất định đẽo cái tàu bay với lại cái ô tô bằng gỗ treo cho nó lạ mắt... Cả nhà không ai nói đi nói lại gì cả. Chú Hai muốn làm thế nào cho đẹp thì làm.

Chiều nay, mãi tới sẩm tối, tôi mới đưa thằng Cơ, thằng Chính và con Qui đi sắm mấy thứ đã dự tính. Chúng nó thích lắm. Tết này chúng nó không còn sợ thua kém mấy đứa hàng xóm nữa. Giày của thằng Cơ và thằng Chính đóng bằng da bốt tin, áo len của con Qui thì là len bông Pát tơ thứ hảo hạng. Tôi đã phải trả kém ba hào đầy 19 đồng tất cả... còn lại có hơn hai đồng bạc, tôi không biết sẽ mua sắm gì cho mình đây. À mà quên… Còn mẹ tôi nữa chứ. Phải đấy, bà thường buốt đầu vì chiếc khăn len quá cũ mất hết cả tuyết không đủ giữ hơi nóng. Tôi phải mua biếu mẹ tôi một cái khăn len mới. Rốt cuộc, tôi mua một cái khăn “san” màu nâu. Màu này thì mẹ tôi dùng được, chứ các màu xanh đỏ tím vàng kia thì chỉ dành cho mấy cô tân thời Hà Nội mà thôi…

Thế là hơn hai mươi đồng bạc để dành tôi đã tiêu hết, mà còn phải bù thêm nữa, mới đủ. Nhưng thôi, bọn thằng Chính, thằng Cơ, con Qui chúng còn bé, phải có quà cho nó vào lúc Tết nhất. Còn mình thì dù sao cũng lớn, mình cũng lại chẳng hay đi đâu cần gì đến mua sắm nhiều.

Le 1 Février 1943

Chỉ còn 3 hôm nữa là Tết rồi. Hôm nay mẹ tôi không cho mở cửa lớn như mọi khi nữa. Bộ cửa lùa giữ nguyên với cây đà ngang bằng lim luồn cứng trong những con bọ bằng sắt. Chỉ có cánh cửa ra vào thì mở để thỉnh thoảng bán một phong pháo, một chai rượu hay ít vòng nhang mà thôi. Tết nhất có khác, rượu Văn Điển, Vạn Vân, phông ten bán chạy lắm. Chú Hai cứ phải đáp xe xuống ty mua về luôn luôn. Pháo Mãn địa hồng của Tàu với pháo Tường Ký của ta cũng đắt hàng lắm…

Hồi còn sống thầy tôi, năm nào thầy tôi cũng đốt một tràng pháo cối từ 5 đến 10 thước. Nhưng từ ngày thầy tôi mất đi tới nay mẹ tôi không cho đốt pháo nữa. Thằng Chính thằng Cơ mỗi đứa được phát cho một phong pháo tép đốt đì đẹt cái một cho đỡ tủi mà thôi. Mẹ tôi bảo: “Thầy con mất đi, vui vẻ gì mà pháo với phiếc!”

Le 3 Février 1943

Hôm nay Hăm chín Tết rồi. Bánh chưng chú Hai đã gói xong. Tôi cũng gói nhưng không khéo bằng chú. Cũng như mọi năm, năm nay tôi gói hai chục cái bánh mụi cho tụi trẻ con. Tụi thằng Cơ, Chính, với con Qui không có bánh mụi cho chúng nó thì chúng nó khóc inh lên cho mà xem. Chúng nó đã nghỉ học, mà chẳng giúp đỡ được gì cả. Chỉ chạy nhảy cả ngày, nếu ở nhà thì chúng mang giày với áo mới ra ngắm nghía. Mẹ tôi chưa biết tôi mua biếu cái khăn san. Tôi phải đợi đúng sáng mồng Một Tết mừng tuổi mẹ, tôi mới đưa ra. Chắc mẹ tôi ngạc nhiên và thích lắm đây…

Tôi đã nhờ ông Ký Hân làm ở kho bạc đổi cho ít tiền. Đưa cho ông ấy đồng bạc nhờ đổi lấy toàn xu đồng, nhưng rốt cuộc chỉ đổi được có 5 hào tiền xu đồng, còn thì toàn đồng xanh phoong cả. Nhà không lấy gì làm dư giả, mình cũng phải tùng tiệm mới được, mừng tuổi cho lũ trẻ nhiều quá chỉ tổ làm cho chúng hư. Ăn quà lắm thì chỉ tổ làm đau bụng, ích gì.

Lúc này đã 1 giờ đêm… Nồi bánh chưng ở ngoài sân đang ầm ỉ sôi. Tôi vừa thử nhưng chưa chín. Còn phải đốt hai cây nhang nữa là ít mới chín. Cả nhà đã ngủ hết. Mẹ tôi dạo này không được khỏe lắm, vẫn phải uống thuốc ông lang ở trên Nghi Tàm. Nhà có ít sâm Cao Ly của thầy tôi mua dùng còn dư, bảo mẹ tôi uống nhưng mẹ tôi cứ chần chừ ý muốn để dành. Sang năm tôi cố đan lát thêm mua cho mẹ tôi cái gì đáng giá hơn một chút mới được.

Có nhiều nhà lúc này đã đốt pháo. Thiên hạ kể ra cũng thừa tiền thật. Tiếng pháo cối nổ tràng dài vừa rồi chắc là của ông Chánh Hiền bên Nghi Tàm. Ông Hiền mới ra làm Chánh Hội ăn khao cả vùng biết tiếng. Hôm Hăm ba tháng Chạp gặp ông khệ nệ đi một xe tay pháo từ Hàng Buồm qua chợ Đồng Xuân. Nói cho cùng ra có tiền mà không tiêu pha thì cũng buồn. Hồi thầy tôi còn sống, thầy tôi cũng tiêu pha có kém gì ai đâu. Thế mới biết có thầy tôi như là có một cây trụ cột vững chắc để con cái bấu víu… Thầy ơi! Xin thầy phù hộ cho mẹ con, cho các em con… cho con…

Nhật ký của con gái

Ngày 1-2-69

Thời gian qua mau thiệt! Mới Noel hôm nào, rồi thì tết Tây, thế mà hôm nay đã rằm tháng Chạp âm lịch, chỉ còn hai tuần nữa là Tết. Chẳng hiểu năm nay Tết có làm sao không? Năm ngoái nghĩ lại thật chán. Bao nhiêu dự tính đều bương hết. Uýnh nhau làm gì mà uýnh nhau hoài, uýnh nhau mãi thế này!

Con Liên vừa tới bảo với mình là có lẽ Hăm bốn hay Hăm lăm Tết tụi con Denise và thằng Ringo mở bum [11] chung với nhau. Chẳng hiểu tụi chúng nó tổ chức có khá không, mình nghi quá… Con Denise thì được lắm, nhưng cái thằng Ringo đó thì thật khó mà tin… Con Liên nói tụi Denise-Ringo tính mở thiệt láng cho bọn Johnny Club và Django Club biết tay. Chưa biết thế nào, nhưng lẽ dĩ nhiên là mình cứ nhận lời. Lần này nếu có đi, thì chỉ có mình con Liên, hoặc quá lắm thì thêm con Huệ nữa thôi. Hôm Noel rủ mấy con Khanh, Lan và Thu đi nữa, rút cục mấy cái bum bị xì ra chẳng ra cái đíu gì, mình ê cả mặt… Bạn gái với nhau, mà chúng nó lại còn xì nẹc cả với mình nữa, có chán không… Mấy con bà chời đó chơi hổng có được!

À, mà còn vấn đề quần áo nữa… Cái mini trắng mới may thì nhất định phải để dành hôm mồng Một mới mặc… Còn bộ đồ pát màu hường thì hôm Noel đã mặc rồi, chẳng lẽ lại mặc lại hay sao? Cái mini màu xanh với đăng ten trắng thì hôm Tết Tây mặc mất rồi… Chẳng lẽ lại giở bộ Jean đen với áo Montagut đỏ?

Không được mặc thế quê lắm! Tụi con Denise ăn mặc gồ lắm, mình không cẩn thận thì bị chúng nó cho tụt ngay. Vấn đề này mình phải bàn lại với con Liên và con Huệ mới được…

Ngày 6-2-69

Saigon đã nháo lên về Tết. Các tiệm may đông, nhưng chỉ toàn khách tới lấy hàng. Không đâu còn nhận may nữa. May quá, vào Passage Eden mua được một bộ “đồ bộ” may sẵn… Chỉ sửa lại một tí là vừa như in. Nhưng tụi ba tàu chém mạnh quá… chu choa, ba ngàn rưỡi… Thế là con bé có bao nhiêu dốc ra cho bằng hết! Nhưng kể ra thì cũng đáng lắm… bộ đồ màu vàng nhạt, nút bạc có hình hoa mai. Bộ nút đó cũng đáng tiền lắm… xem nào, hàng trước ngực sáu nút, cầu vai hai nút, cổ tay hai nút, đai lưng hai nút… Cổ chân bốn nút nữa. Tất cả 16 nút. Bộ nút đã ngót ngàn bạc rồi còn gì… Thôi đắt thì đắt, lâu lâu mới có Tết một lần, không mặc cũng uổng.

Nói cho đúng ra thì mình phải tính cái vụ đi bum Tết này sớm hơn một tý nữa mới phải… Nhưng đào đâu ra “tại”. Không có “tại” (tiền) là đố có làm được việc gì… Mà, bà già mình cù lần ghê! Nhà có mỗi mình là gái, lại con út nữa, thế mà hễ hỏi tiền mua giày dép là y như là bà ấy nhăn. Chẳng bù cho con Liên, muốn gì được nấy…

Lúc ở Passage Eden thì gặp thằng Thành vixi. Hôm nay nó chải đầu đàng hoàng trông đỡ vixi nhiều. Nó nói tụi nó với con Ngàn “Cô giáo” mượn được nhà của một cha Thiếu tá dù, và đúng 15 giờ ngày 21 Tết sẽ mở bum. Mình hỏi địa chỉ nó bảo mai nó sẽ đem lên cho mình… Thằng Thành vixi đó khôn hết mình, chứ không như cái bộ mã vixi của nó đâu. Mở ở nhà Thiếu tá dù, sức mấy các anh cắc ké, dám tới làm ẩu… cũng lại khỏi sợ bọn cớm đến giải tán nữa… Tết đi bum mà bị bắt nhốt rồi nộp phạt thì quê ơi là quê!

Cho tới giờ này vẫn chưa nhận được “các” của con Denise! Nếu trùng với bum của thằng Thành vixi thì cũng hơi mệt đó. Nhưng dù sao thì mình cũng cứ nhận đi cả hai nơi, bum nọ xì thì có bum kia xơ cua chứ! Bên nào cũng quen cả, không đi chúng nó giận cũng phiền…

Gần Tết rồi chắc cảnh sát cũng nương tay không bắt đâu. Thì đêm Noel đó, bum mở ngay bên cạnh bót cảnh sát gần đình Phú Nhuận mà có ai làm sao đâu? Chỉ có một cha ra chửi thề tục tĩu thôi, rồi đâu cũng lại êm đó luôn mà… Trước đó, thì cái bum Hoàng Hoa Thám cảnh sát cũng chỉ tới bao vây rồi cảnh cáo, xong ai về nhà nấy. Bọn trai trẻ họp nhau nhảy nhót đàn địch, chẳng hơn là hội thảo hay biểu tình chống cái này cái nọ hay sao???

Ngày 9-2-69

Hôm nay bà cụ bắt dậy sớm sửa soạn cúng ông Công ông Táo lên chầu giời. Được ngày Chủ nhật đẹp trời như hôm nay mà bà cụ bắt thế thiệt là ức. Nhưng dù sao thì mình cũng phải chiều, vì mai con Denise mời mình đi bum của nó. Chơi jusqu' à l’aube [12] nhé! Mình phải nịnh bà cụ một tí, để bà cụ ngơ cho mình đi chơi chứ.

Trưa hôm nay ông cụ đi lên ông nội mình về có vẻ cáu lắm. Mình có bức ảnh “Tứ quái Beatles” treo ở phòng ngoài, ông cụ giật xuống vứt vào trong nhà rồi bảo:

- Ảnh ông bà cha mẹ thì không treo, lại rước cái thằng mũi lõ đầu bù ấy để mà nhát ai ở cái nhà này?

Mình không dám cãi, nhưng thực tình thì mình “nực” lắm! Ông già mình thật “quê” quá cỡ! Động mở radô lên là nghe hát bội, còn bà già thì cải lương oăng oẳng cả ngày… Cái thứ hát hỏng đó mà cũng có người nghe được thì lạ thật.

Con Liên thậm thụt ngoài cửa không dám vô, mình cũng sợ cốc dám ra với nó. “Tác giăng” đang nổi giận, đừng có xía vào mà phiền…

Buổi chiều lên Bô na, gặp lão Khánh cận. Lão gặp mình thì xưng hô anh em ngon như không. Chẳng bù cho lúc dạy học, mỗi lần gọi mình lên trả bài là lão làm ra vẻ đạo mạo… Lão mời mình vô Brodard uống nước… Mình làm cho một cái kem chantilly với trái cây và một cái café ligéois… Lão trả tiền xong liền méo mặt!

Nhưng lão vẫn không nản chí, lão bảo mình:

- Thủy đã mua sắm gì chưa? Chúng mình vào Tax xem có cái hay hay không?

Mình gật đầu nhận lời. Nhưng nghĩ thương hại cho cái túi tiền của lão, mình chỉ mua có một hộp dầu thơm trong có hai ve, một ve ESSENCE và một ve EAU DE COLOGNE… Kể ra thì cũng rẻ, CHRISTIAN DIOR mà chỉ có ngàn hai bạc… Chắc là đồ PX, tụi Mỹ ăn cắp ra bán rẻ chứ gì!

Lão mời mình đi phòng trà đêm nay, nhưng mình từ chối vì còn bận về nhà có giỗ. Lão năn nỉ mình tối mai đi với lão… Mình cười nhận lời. Nhưng sức mấy mà mình đi với lão tối mai… Đi với lão già khằn đó thì hai cái bum của thằng Thành vixi và của con Denise để cho ai?

Ngày 10-2-69

Tối nay đi bum, về tới nhà đúng 12 giờ thiếu năm. Bữa nay nhảy đã đời. Ban nhạc LES CÉLIBATS không ngờ chơi được như thế. Nhất là bản SAN FRANCISCO tụi nó chơi không thua đĩa mấy… Tụi con Denise bảo mình ở lại chơi Jusqu’ à l’aube, nhưng mình thấy trong tụi dé dé (yé yé) có mấy thằng bốc hốt dữ lắm nên nhất định về… Mình bảo con Denise phải coi chừng tụi nó, chúng nó dám chơi trò “liên hiệp quốc” lắm đó, thì con Denise nói sức mấy mà nó sợ, vì nó vẫn uống LYNDIOL đều cả mấy tháng nay rồi.

Mình mệt quá, không thể viết thêm được nữa… Phải ngủ thôi.

Ngày 14-2-69

Hôm nay đã Hăm tám Tết rồi. Bắt đầu từ hôm đi bum mình cúp cua riết cho tới giờ. Tết nhất đến nơi rồi, học hành gì được nữa? Chẳng hiểu năm nay chúng nó có tổ chức Tất niên tất niếc gì không… Mà đi dự chúng nó thì cũng chán bỏ bà. Vài chai nước ngọt, vài cái bánh và những màn văn nghệ rẻ tiền… Rồi thì vài câu chúc tụng, mấy lão giáo sư kiểu Khánh cận nhân dịp lại tán tỉnh rủ đi phòng trà hay đi xa lộ hóng mát chứ đíu gì!

Con Liên bảo rằng trường sẽ cho thi Lục cá nguyệt vào ngày 3-3-69. Hôm đó ăn Tết no nê rồi… Nhưng cứ cung cách này thì chắc có thi mình cũng chẳng làm được bài… Song lo gì, ta quay phim… Ta cứ bổn cũ soạn lại biên công thức vào đùi rồi mặc mini che đi, lúc nào sểnh mắt thì ta vén jupe lên cóp, rồi lại kéo xuống… Sức mấy mà mấy lão đó biết được… Có khi mình vén lên lão còn khoái trí ấy chứ lị.

Ngày 15-2-69

Chiều nay theo bà già đi chợ Saigon mua thêm ít mứt và hạt dưa. Năm nào cũng thừa ê hề, mà năm nào bà già cũng mua thêm vào giờ chót. Chợ Tết đông quá, người nghẹt như nêm cối. Hai cây cầu sắt mới bắc cũng chi chít những người.

Mình gặp chú Đắc. Chú dạo này mập hơn trước. Gặp mình chú vẫn giữ vẻ bình thản... Chú vẫn tươi cười, nhưng nếu có khác thì khác ở bộ râu đen ngòm của chú đã cạo đi rồi… Mình hỏi bộ râu chú vứt đâu rồi, thì chú bảo hôm 1-11 nghe ông tổng thống nhà ta tuyên bố hách quá, chú phục lăn cho nên cạo hết bộ râu!

Gặp mình chú bảo:

– Chóng quá! Sang năm Thủy đã 18 rồi! Bao giờ cho chú ăn cỗ đó?

Chú cứ nói mãi cái giọng đó, chán bỏ bà… chú tưởng mình gọi chú là “chú” tức là mình công nhận chú là UNCLE của mình hay sao. Chú không hiểu “chú” đây là cách xưng hô ngụy trang c?