← Quay lại trang sách

Các tín niệm về âm hồn – cô hồn Huỳnh Ngọc Trảng

“Ngựa cửa sổ, kiến đầu cành, xem ngày tháng dễ qua thoăn thoắt;

“Bọt ghềnh sông, vờ mặt nước, tựa thân người kíp biến mơ mơ.

“Cổ tới nhẫn nay,

“Sinh thì có hóa.

“Ấy vậy:

“Hồn là thần,

“Phách là quỷ”.

• Lê Thánh Tông: Thập giới cô hồn quốc ngữ văn

Là ông vua xiển dương Nho giáo, với quan điểm cốt lõi “Quỷ thần kính nhi viễn chi”, hướng mọi sự quan tâm của Nho gia vào các vấn đề xã hội, song Lê Thánh Tông (1460 - 1497) cũng thừa nhận “Thập giới cô hồn” ở thế giới bên kia. Việc thừa nhận thập loại cô hồn có màu sắc Phật giáo đó là nhằm mục đích giáo hóa (Thánh nhân dĩ thần đạo thiết giáo nhi thiên hạ phục hỉ/Thoán truyện/Quẻ quan/Kinh Dịch) chứ không hẳn coi thế giới bên kia như các tôn giáo - tín ngưỡng khác.

1.

Nói chung, thế giới bên kia là điều quan tâm của mọi người; ngay cả những người phủ định điều này cũng phải tìm cách lý giải về sự không tồn tại của thế giới bên kia và việc tại sao lại có nhiều người tin vào điều đó. Những người duy vật cho rằng, tín niệm về thế giới bên kia là do trình độ về nhận thức và mặt khác, đó là thứ do tầng lớp thống trị bày đặt ra để phục vụ cho việc thống trị của chúng. Theo đó, chừng nào các quy luật chi phối tự nhiên vẫn còn nằm ngoài tầm hiểu biết của con người thì họ vẫn còn coi thế giới được điều hành bởi các sức mạnh siêu nhiên. Dưới cái nhìn của người duy vật, lòng tin vào thế giới bên kia chẳng qua chỉ là sự bù đắp cho sự hụt hẫng trong cuộc sống trần gian này. Nó chuộc lại cuộc sống cùng khổ, dốt nát và sợ hãi vì chẳng được một chút an toàn nào bằng sự hứa hẹn được đền bù tất cả sau khi chết. Thế giới bên kia là một hảo vọng cần thiết.

Đối với các tôn giáo, dù không hoàn toàn giống nhau, nhưng hảo vọng này là một thực tại tối thượng. Phổ biến và cổ xưa nhất, thuyết vạn vật hữu linh (animism) coi thế giới bên kia là bộ mặt khác của cuộc sống trần gian vì sự sống là nguyên lý của vũ trụ: tất cả mọi vật (đất, đá, cây cỏ, sinh vật) đều có linh hồn; mọi thứ quanh ta đều hàm chứa sự linh thính, điều mà thế nhân thường gọi là “tứ tung linh tàng”.

Tín niệm của các tôn giáo độc thần cho rằng thế giới bên kia là nơi phán xử cuối cùng - hoặc được lên thiên đàng hoặc bị đọa xuống địa ngục - dành cho những con người mà linh hồn gắn liền với chuyến đi qua trần thế một lần duy nhất.

Đối với thuyết hóa kiếp/đầu thai, thế giới bên kia là một thực tại duy nhất vĩnh hằng và những biểu hiện của cuộc sống chỉ là những phản chiếu khúc xạ của thực tại đó, là hệ quả tất nhiên của một chuỗi quy luật nhân quả diễn ra trong dòng chảy miên tục của thời gian. Cụ thể, cuộc sống là một chuỗi tiếp nối những sự sinh ra và tái sinh; tức sau khi chết, con người sẽ được tái sinh ở thế giới này dưới một dạng khác - tùy theo công tội mà họ đã làm ở kiếp trước, thậm chí ở các kiếp trước.

Nói chung, trong diễn trình lịch sử, xứ ta là nơi hội tụ hầu như đầy đủ các giáo thuyết và học thuyết triết học. Tuy nhiên, đến nay, cái sàn văn hóa chung nhất vẫn là thuyết vạn vật hữu linh. Chính vì vậy, các tín niệm về thế giới bên kia ít khi được xác định một cách thuần nhất theo một giáo thuyết nào. Điều đó dẫn đến tình trạng “hỗn dung tam giáo” trong tín niệm về thế giới bên kia.

Nói chung, phổ biến là quan niệm vũ trụ luận hai bên (cõi người sống và cõi người chết) của tâm thức vạn vật hữu linh (animism) dân gian về sau đã gặp thuyết nhị nguyên chính thống về vũ trụ được xây dựng trên cơ sở đối lập của hai nguyên lý âm - dương đã tạo nên tín niệm về cõi âm - cõi dương, tương thích với điều đó là các biện sự về phách - hồn, quỷ - thần.

Thác là thể phách, còn là tinh anh. Thể phách là (vía) là thứ “trọng ám” nên trầm hạ, còn tinh anh (hồn) là thứ “khinh quang” nên thăng thượng. Đó là cách biện giải theo quan niệm âm - dương của Dịch lý. Còn trong thực tế là những biện sự đậm chất thực dụng. Các tòa án xét xử các vong hồn dưới Diêm phủ, tuy có nguồn gốc Phật giáo, nhưng về mặt tổ chức lại rập theo khuôn mẫu của tòa án thế tục của nhà nước quân chủ. Tùy theo công tội lúc sinh tiền, các vong hồn hoặc được siêu sinh lên cõi Tịnh độ, tiêu dao miền Cực lạc hoặc được tái sinh, trôi lăn lục đạo luân hồi ( Thiên /tiên, người, Atula, súc sanh /cầm thú, ngạ quỷ /quỷ đói, hay bị giam cầm trong địa ngục) .

2.

Tuy có sự hỗn dung tam giáo trong tín lý song trong thực tế với cái nhìn nghiêm ngặt, chúng ta có thể khu biệt các quan niệm ứng xử khác nhau trong tập tục thờ cúng các vong hồn, đặc biệt là các vong hồn cô độc (cô hồn).

Nhìn chung, chất lượng của mối quan hệ giữa người sống với vong hồn người chết được quy vào việc thực hành tế tự/thờ cúng. Theo đó, vong hồn cô độc, do không có người tế tự, cúng kiếng nên bị đói khát, lạnh lẽo phải thường lang thang vơ vẩn gieo rắc tai họa cho con người trần thế, đặc biệt các vong hồn uổng tử (bất đắc kỳ tử: tai nạn, chiến tranh, dịch bệnh...) vốn còn nhiều sân hận nên trở thành đám “ôn hoàng dịch lệ” hại đời. Đó là các đối tượng mà pháp sư, phù thủy Đạo giáo phải giải trừ bằng bùa, chú, pháp thuật. Tín lý này thấy phổ biến trong lễ Tống ôn/ Tống gió/Tống tiễn cô hồn “xuống tàu” bằng bè chuối thả trôi sông sau lễ Kỳ yên của đình làng Nam bộ.

Cách ứng xử thứ hai, theo quan điểm thượng tôn nhân nghĩa của Nho gia, gọi là “Tế Nghĩa Trủng” thấy phổ biến ở thôn làng Trung bộ. Đối với Nho giáo, việc thờ cúng tổ tiên là một chuẩn mực quan yếu của đạo hiếu. Các vong hồn cô độc, tức các người quá vãng không có con cháu nối dõi thờ tự (mồ mả không được tu bồi, hàng năm không được cúng giỗ) là những trường hợp bất hạnh vô phúc. Do đó, để thể hiện lòng nhân nghĩa, làng thôn phải lập Đàn Nghĩa Trủng (am cô hồn, miếu âm linh) để thờ cúng các đối tượng đó như một thiết chế văn hóa địa phương và hàng năm, vào trước dịp cúng thần ở đình làng, hoặc vào rằm tháng giêng, hoặc phổ biến nhất là sau khi các tộc họ trong làng đã tiến hành xong lễ Chạp mả (từ sau ngày 23 hoặc 25, tháng Chạp âm lịch) dân làng tiến hành lễ Tế Nghĩa Trủng (dẫy cỏ, đắp nấm tất cả mộ hoang và bày lễ vật cúng tế theo nghi thức tế lễ của Nho gia: trống, chiêng, dâng lễ vật, đọc văn tế...). Ngoài ý nghĩa đạo đức, việc cúng lễ cho các vong hồn cô độc cũng nhằm hướng tính chất hung hoang của chúng vào việc phục vụ lợi ích cộng đồng, biến chúng thành lực lượng bảo hộ trật tự siêu nhiên của thôn xóm, khu vực làm ăn sinh sống.

Mộ nghĩa, kỉnh dâng lễ bạc: lưng xôi, chén rượu, ba nén hương xông đến chín từng;

Hồn linh giúp đỡ dân đen: người mạnh, của nhiều, sinh cội phước nối liền một mối.

• Văn tế Nghĩa Trủng - thôn Đại Phú,

Đại Lộc, Quảng Nam

Bắt nguồn từ tín lý Nho gia này, việc cúng cô hồn cũng được tiến hành ở gia đình, nhà thờ tộc họ vào các dịp cúng tế tổ tiên. Ở đó, trong mỗi cuộc cúng tế, người ta luôn bày một mâm lễ vật ở ngoài hiên hay ngoài sân để cúng cô hồn, phối tự với thần đất nên gọi là mâm lễ vật cúng đất đai, chiến sĩ, người “khuất mày khuất mặt”... Tất thảy các vong hồn cô độc này cấu thành một lực lượng thuộc cảnh giới trung gian giữa trần thế và thế giới bên kia. Sau này, giới tiểu thương và đặc biệt giới làm nghề vận tải lại có lệ cúng cô hồn vào ngày mồng 2 và ngày 16 âm lịch hàng tháng để cầu an, cầu được thuận lợi cho công việc, mua bán. Việc chọn ngày mồng 2 và ngày 16 bắt nguồn từ nếp nghĩ cúng cô hồn phải được tiến hành sau ngày sóc vọng (mồng 1 và rằm), hai ngày cúng lễ Thần Phật hằng tháng.

Khác với tín lý trên, khoa nghi thí thực chẩn tế cô hồn ngạ quỷ của nhà Phật bắt nguồn từ hai Phật thoại khác nhau.

Phật thoại thứ nhất kể rằng: khi Ananda, đại đệ tử của Phật, nhập định trong rừng thấy một ngạ quỷ, còn gọi là Diệm Khẩu (miệng có lửa) hay Diện Nhiên (thân thể gầy còm, mặt mày hung dữ, tóc rối bù, móng vuốt bén nhọn, bụng lớn như núi, cổ nhỏ như cây kim) phun lửa trước mặt. Ananda kinh hãi hỏi tông tích. Ngạ quỷ bảo vì đời trước keo kiệt, bỏn xẻn, tham lam vô độ nên sau khi chết bị đọa vào đường ngạ quỷ (quỷ đói) như thế này đã nhiều năm. Ngạ quỷ còn báo cho Ananda biết rằng ba ngày nữa ông sẽ chết và sẽ bị đọa làm ngạ quỷ. Ananda lo lắng đến xin đức Phật cứu độ. Đức Phật nhân đó nói kinh Diệm khẩu và pháp Thí thực: Nếu ai có thể bố thí thức ăn đồ uống cho hằng hà sa số ngạ quỷ thì chẳng những không bị đọa vào đường ấy mà còn kéo dài được tuổi thọ, được quỷ thần phù hộ, được an lành.

Phật thoại thứ hai là y cứ để Phật thuyết kinh Vu Lan Bồn , nói về nghi thức siêu độ lịch đại tông thân được cử hành vào rằm tháng Bảy nhằm giải cứu vong hồn tổ tiên khỏi hình phạt bị treo ngược (Vu Lan Bồn: Ullambana: đảo huyền/treo ngược). Theo kinh Vu Lan Bồn, đệ tử của Phật là Mục Kiền Liên dùng thiên nhãn thông thấy mẹ của mình bị đọa làm ngạ quỷ dưới địa ngục bị đói khổ vô hạn. Mục Kiền Liên liền đem cơm đến đó dâng cho mẹ, nhưng do ác nghiệp thọ báo nên tất thảy cơm đều biến thành lửa, bà không sao ăn được. Mục Kiền Liên cầu xin Phật giải cứu cho mẹ. Phật dạy Mục Kiền Liên: Vào ngày rằm tháng Bảy, nhân ngày chư tăng tự tứ (hiểu là tự kiểm điểm, sau ba tháng An cư kiết hạ) dùng vật phẩm, thức ăn cúng dường Tam bảo thì sẽ được chư tăng nhường vô lượng công đức mà họ có được cho cha mẹ quá vãng, nhờ đó mà vong hồn tổ tiên được siêu thoát.

Xuất phát từ hai Phật thoại trên, tín đồ Phật giáo tiến hành các nghi lễ Trai đàn thí thực ngạ quỷ/Chẩn tế cô hồn (thường gọi là lễ Xá tội vong nhân ) vào Rằm tháng Bảy. Đây là một biện sự có nguồn gốc Phật giáo, song rốt ráo mà xét thì Phật thoại thí thực ngạ quỷ chủ vào hạnh bố thí, tức thượng tôn lòng đại bi đối với chúng sanh. Ở lễ hội Vu Lan Bồn, một mặt hàm nghĩa báo ân/báo hiếu có phần tương đồng với chủ trương tế tự tổ tiên của Nho giáo, song đối tượng dâng cúng lễ vật ở đây không phải là tổ tiên quá vãng mà là cúng dường Tam bảo để qua đó vong hồn tổ tiên được sớm siêu sanh, thoát khỏi hình phạt thống khổ nơi Diêm phủ.

Tóm lại, xuất phát từ các tín niệm khác nhau về âm hồn/cô hồn, trong thực tế lịch sử xứ ta có những hình thức lễ hội cúng tế các đối tượng này đa dạng với những trình thức diễn xướng và thực hành nghi lễ phong phú. Ở đó, nếu hình thức nghi lễ Đạo giáo nhằm chức năng giải trừ thì hình thức Tế Nghĩa Trủng lại có chức năng giáo hóa, đề cao đạo lý nhân nghĩa không chỉ giới hạn trong quan hệ người với người mà còn lớn hơn: giữa người sống và người đã chết, xác lập một công ước giữa quá khứ và hiện tại. Riêng Phật giáo, các lễ hội, khoa nghi chẩn tế cô hồn, vong hồn là những biện sự tùy thuận thế gian, song từ đó luôn nhắm đến cứu cánh giải thoát: sự giác ngộ chính bản thân mình.