SÀI GÒN _ NHỮNG DẤU LẶNG SÀI GÒN - NHỮNG QUÁN CÓC
Người ta yêu quê hương vì chùm khế ngọt, con sông sau hè…Tôi yêu Sài Gòn vì tôi sinh ra và lớn lên nơi mà người ta gọi là thành phố công nghiệp, thương mại. Tôi yêu Sài Gòn vì nơi đây tôi có biết bao kỷ niệm. Sân nhà thờ Chợ Quán đầy bóng mát với truyền thuyết ông Huyện Sĩ chết và được quàn xác sau nhà thờ trước khi được chôn tại Nhà Thờ Chợ Đủi, thỉnh thoảng ông mang xiềng xích về thăm lại nhà thờ. Mỗi lần đi tập hát về muộn, chúng tôi chạy thụt mạng khi đi ngang cửa sau nhà thờ. Trước nhà thờ có xe đậu đỏ bánh lọt của ông người Hoa, hương vị đặc trưng để rồi bây giờ ăn rất nhiều loại chè, tôi vẫn không tìm thấy được sự độc đáo của món ngon xưa. Sau này chuyển chỗ ở, trở về Nhà thờ, ngang qua Núi Đức Mẹ, tôi như thấy bố mình, người đàn ông ngoan đạo, mẫu mực tốt nhứt tôi từng biết, quỳ trên tam cấp, cầu nguyện thành kính.
Những lúc đen tối của cuộc đời mình, tôi đến Nhà Thờ Đức Bà. Tôi luôn nghĩ cô gái “từng ngón tay buồn, em mang em mang đi về giáo đường.” là tôi chứ không ai khác cho dù hôm nay tôi đã qua tuổi Biết Mệnh Trời Cảm giác yên lành khi đi một vòng nhà thờ, qua những bàn thờ nhỏ của những vị thánh để thấy dường như mình đang dạo quanh một cổ thành La Mã. Người đến nhà thờ như quen biết nhau, nhìn nhau cười hay nhắc nhau mở nón để tỏ lòng tôn kính những đấng Thánh. Có khi không vào nhà thờ, tôi chạy xe vòng qua đường Lê Duẩn, vào Tôn Đức Thắng, đi chầm chậm ngang những tu viện để lắng nghe sự trầm lắng, an bình giữa những xe cộ ồn ào chung quanh. Chuyến về, tôi vào đường Nguyễn Đình Chiểu, thẳng tòa Tổng Giám Mục để thưởng thức tiếng ve, tiếng dế nỉ non. Bọc bên hông tòa nhà, một nhà nguyện bằng gỗ trên trăm năm tuổi. Đứng trước nguyện đường mặc cho tâm hồn bay bỗng đưa tôi về Sài Gòn với những năm tháng cũ cùng những người di dân đến vùng đất mới, xây dựng niềm tin của riêng mình.
Thánh đường nào cũng có Núi Đức Mẹ Thật thư thả khi đi vào khuôn viên Nhà thờ Chợ Đủi. Rất nhiều người đứng quanh cầu nguyện, trời nắng hay mưa… Phía sau nhà thờ là hai ngôi mộ của ông bà Huyện Sĩ. Tôi thường đứng thật lâu để suy ngẫm về sự phù du của tiền tài, danh vọng cũng như ý nghĩa của cuộc sống và cái chết.
Thi thoảng nhớ một khoảng trời xanh, tôi vào vườn Tao Đàn…Tôi thường tự hỏi ai nằm dưới ngôi mộ cổ kia. Họ có biết nhờ công viên này, ngôi mộ đã không bị phá bỏ để phóng đường chăng. Tôi ngồi và nhớ lại những lần cấm trại cùng bạn bè, những trò chơi, những tiếng cười….Giờ đây tất cả đều chạy theo vòng xoay cơm áo.
Có lúc tôi chạy vòng quanh con đường Hàn Thuyên và Alexandre de Rhode nhiều lần rồi đến bên Hồ Con Rùa, nơi ngày xưa bé xíu chúng tôi đi quanh hồ để tìm chú rùa cũng bé xíu bơi cô đơn trong hồ. Sau này, tôi trở lại hồ với vài người bạn, ngồi trên ghế đá chia sẻ nhau về cuộc sống, về những nỗi buồn và những lo toan trong đời…
Ừ, Sài Gòn của tôi đó. Không phải là những bờ biển, đồi thông…Mà là nơi thân quen từng nhận bao tiếng cười cũng như giọt nước mắt của tôi và bạn bè với những thăng trầm trong cuộc sống. Một nơi náo nhiệt, ồn ào, là đất hứa cho những người muốn làm một cuộc đổi đời. Vậy mà khi buồn phiền, tôi vẫn có thể tìm cho mình những dấu lặng ở những nơi từng là kỷ niệm của một thời áo trắng.
SÀI GÒN - NHỮNG QUÁN CÓC
Xin đừng hiểu lầm đây là những quán bán thịt cóc. Quán cóc là danh từ chung chỉ những quán ăn bình dân, rẻ tiền nhưng không kém phần ngon bổ, là một nét thật đặc trưng của người dân Sài Gòn Tại sao gọi là “quán cóc”? Tôi không phải là nhà ngôn ngữ học hay Sài Gòn …học, tôi chỉ là người dân nhiều đời ông bà, ba mẹ sinh ra và lớn lên tại đây. Bản thân tôi đã sống tại nơi này hơn năm mươi mùa mưa nắng. Tôi chỉ có thể giải thích quán cóc là nơi mà người bán và người mua, gọi cho sang là “thực khách”, ngồi như…con cóc.
Hồi nhỏ, đối diện nhà tôi có cô Năm bán hột vịt lộn. “Quán” của cô là chiếc bàn cao không quá năm tấc, hình chữ nhật, ghế ngồi cao không quá một tấc, gọi là ghế “chồm hổm” do ba miếng cây đóng lại, hai miếng nhỏ làm chân, một miếng lớn hơn là bàn ngồi. Có khi bàn ngồi cũng là hai khúc cây. Thế mà thực khách vui vẻ ngồi lên chén hết hột vịt lộn đến ốc gạo, ốc len xào dừa chung quanh chiếc bàn duy nhất đó.
Quán cóc có thể “mọc” ở bất cứ nơi đâu. Và bán bất cứ …món gì. Từ mặt tiền đường lớn đến sâu trong hẻm. Ngày trước, quanh các Ngã Sáu, Ngã Bảy (ngã sáu Lê Văn Duyệt, giờ là công trường Dân Chủ, ngã sáu Phù Đổng…) đều có những quán cóc bán ốc…Bọn học trò đầu tháng thường hỏi trong tháng có lễ nào để được nghỉ. Chắc chắn có đứa bực mình:_ “Muốn lể ra ngã sáu mà lể…”, tức là lể ốc gạo ấy. Ngoài món ốc gạo, hột vịt lộn, còn có bánh xèo, bánh tráng nướng, mía róc, bò bía…Người bán ngồi chồm hổm, có thể cao hơn thực khách một tí, giữa hai chân là hộp đựng tiền. Nhận tiền, bỏ vào hộp và lấy tiền lẻ ra thối. Thực khác thường là học sinh, sinh viên, công nhân, công chức…Nói chung là những kẻ ít tiền, thường đưa đủ tiền hoặc tiền lẻ, chủ nhân ít phải gặp “giấy lớn” mà thối.
Ngày đó, con chó Beo nhà tôi rất khôn, chú có bộ lông vàng nhạt, mượt mà. Mỗi chiều, chú bò xuống bàn vịt lộn của cô Năm kê mõm, hất cái dĩa đậy lon tiền, hốt ngay đống bạc cắc rồi chạy về nhà đổ xuống gầm giường. Một ngày dọn dẹp chúng tôi phát hiện cả một gia tài “bạc cắc”, cùng lúc cô Năm “mắng vốn hành vi trộm cấp” của con chó nhà tôi. Thế là chú bị “cấm cửa” không được bò “xuống quán” cho dù chúng tôi nhiệt tình trả lại cô Năm số tiền trên.
Thời gian qua đi, kinh tế ngày một phát triển, nhu cầu ăn uống tăng cao, quán cóc cũng “biến dạng”. Không chỉ là những “quán” thuần về ăn, còn có chè vỉa hè, cà phê, nước mía lề đường….Thực khách và chủ nhân không còn ngồi như những con cóc quây quần bên một chiếc bàn, trên những chiếc ghế cây đóng đơn sơ, chắc chắn nữa. Tất cả thay bằng những chiếc bàn ván ép, ghế nhựa cao hơn tấc đến hai tấc. Chủ quán thường đứng sau chiếc xe thô sơ, phía trên cơ man là ly tách hay tô chén, tùy món quán bán. Phía bụng xe là lò hay xô nước được rửa suốt …một ngày. Sau khi dọn quán, bụng xe chứa luôn những chiếc bàn, chiếc ghế đã được xếp gọn gàng ngay ngắn Xe có hai càng, bốn bánh xe nhỏ để tiện đẩy đi loanh quanh hoặc trốn công an trong các ngõ hẻm.
Tại Sài Gòn, các bạn không sợ thiếu thức ăn hay nước uống. Đi trên đường, dưới gốc phương già, bạn dễ dàng gọi cho mình một ly càphê đá, nước mía hay trà đá, chè đá, một dĩa trái cây….Đói bụng, bạn có thể “tấp” đại vào vỉa hè gọi cho mình một tô mì…gõ hay tô bún bò ngon thơm, bổ rẻ…không thua bất cứ quán bún bò, mì, hủ tíu...bề thế trên đường. Chỉ sợ bạn nhìn người bán rửa tô, đủa…mà không dám ăn thôi…Chẳng sao! Ông bà ta nói “ở dơ sống lâu” mà. Có ai vừa ăn xong lăn ra chết đâu. Mà chuyện chết chóc còn ở thì tương lai. Hiện tại hãy giải quyết cho cái bao tử đã. Và chưa chắc những quán ăn lớn lại vệ sinh hơn các quán cóc.
Quán cóc những món ăn chơi như hột vịt lộn, bánh xèo, ốc…thường tập trung phái nữ. Thôi thì đủ mọi lứa tuổi. Từ các cô học sinh choai choai đến những bà dì cô sồn sồn. Vừa ăn, quí bà quí cô vừa kể chuyện chồng con, chuyện giác mơ đêm qua ...để bàn …đề. Các em học sinh thì tha hồ nói xấu thầy cô, phê bình các môn học hay kể những trò nhứt quỷ nhì ma trong lớp Các quán cóc cà phê lại tập trung các ông. Thôi thì đủ mọi thành phần. Từ anh công chức, giáo viên đến chú xích lô, ba gác… vừa nhâm nhi ly cà phê mà bắp rang nhiều hơn chất cafêin, vừa “tám” đủ thứ chuyện trên đời. Từ một bản tin nóng hổi vừa “lượm” ra trên báo đến những nguồn tin chưa được kiểm chứng nơi vỉa hè.
Có những nơi, quán cóc thành “quán chạy”. Có khi bạn vừa nhấp miệng ly cà phê…bắp, nghe ngay tiếng báo động: _ “Công An” …Thế là chủ quán đẩy xe cà phê chạy, khách cầm cái ghế chay. Bốn bánh xe nhỏ dưới chiếc xe thô sơ tỏ ra rất “phát huy tác dụng” Lát sau, mọi việc “lắng đọng”, cả khách và chủ tụ họp lại cười nói vui vẻ như chẳng có gì xảy ra. Có lúc khách không quen chạy, thế là tìm chủ trả tiền Ngộ thật, quán cóc thường tập trung dân nghèo thành phố, vậy mà ít khi có ai “ăn quịt uống quịt”
Trong những con hẻm nhỏ, nhiều người ít vốn, họ gánh một bên là chiếc lò nhỏ, phía trên có khi là nồi cháo lòng, bún riêu, canh bún, bánh canh cua….Một bên phía trên là cái mâm nhôm úp chén, những món nêm đặc thù cho từng món, phía dưới là xô nước rửa. Đủa, muỗng, ghế được treo quanh những chiếc dây gánh. Có khách là một chiếc ghế nhỏ có khi bằng cây truyền thống mà bàn ngồi láng lẩy đến chiếc ghế nhựa nhỏ mặt ngồi sùi xì đen đúa. Đôi lúc tôi tự hỏi sao một phụ nữ lại có thể “gồng” từng ấy thứ trên đôi vai bé nhỏ vậy. Ăn tô bánh canh cua với những miếng thịt cua nho nhỏ, hòa với nước bánh canh vàng óng lẫn cùng màu đỏ của ớt, những sợi bánh mềm mại…Tôi nhận ra sự tần tảo phi thường, óc tổ chức, sự chu đáo, gọn ghẽ đến từng chi tiết những món ăn của người phụ nữ nghèo Việt Nam. Thiếu chanh ư? Có nè! Một cái đưa tay vào chiếc lồng bằng tre. Trái chanh tươi xanh xuất hiện, một chiếc dao sắc lẽm và một cái “cắt” nhanh nhẹn. Tô canh bún hay bún bò hoặc bánh canh cua có ngay vị chanh chua chua, dễ ăn.
Gánh đậu hủ, chè ư? Cũng là một gánh với chiếc lò, nồi chè hay đậu hủ, bên kia là đường, nước dừa...Rất nhiều lần ăn dở tô bánh canh hay ly chè, chén đậu hủ, tôi thấy nghèn nghẹn nhớ hai câu thơ của cụ Tú Xương: “Quanh năm buôn bán ở mom sông. Nuôi đủ năm con với một chồng”. Vâng, bà Tú Xương khi xưa tần tảo như những chị, những cô với “quán cóc di động” là cùng chứ gì. Thật cám ơn cụ Tú đã vẻ lên hình ảnh thật đẹp với đôi quang gánh quằn vai người phụ nữ.
Bạn đang sống ở Sài Gòn hay chưa từng đến? Hãy một lần ngồi thử quán cóc chờ ly cà phê, tô mì hoặc bên quang gánh di động…sẽ thấy mình như con cóc. Chỉ khác con cóc này không chỉ biết thưởng thức những món ăn dân dã mà còn giúp những cư dân nghèo thành phố chấp cánh cho những ước mơ học hành của những đứa con đang còn ngồi ghế nhà trường…