CHỢ DI ĐỘNG
Trai khôn tìm vợ chợ đông
Gái khôn tìm chồng giữa đám ba quân
Không cần giải thích ai cũng hiểu người phụ nữ vén khéo là người biết khôn ngoan mua bán nơi chợ đông, biết tằn tiện trả giá từng đồng, biết lựa món ngon mà rẻ cho gia đình. Nói chung phụ nữ sống được ở chợ đông là người biết vun quén cho chồng con.
Chợ thường nhóm ngay trung tâm dân cư. Mua nhà người ta luôn tìm địa điểm gần chợ, trường học và bệnh viện. Ngày trước mỗi sáng bà nội trợ nào xách giỏ đi chợ xem như còn có tiền. Hãnh diện lắm đó! Tuy nhiên giờ đây, hình như người nội trợ không thích sáng sáng xách giỏ đi chợ xa nữa, mà thường “tấp” vào những chợ “chồm hổm”. Một khoảng trống trong hẻm, vài người ngồi bày ra dăm bó rau, mất ký thịt…Thế là thành cái chợ chồm hổm, người mua và người bán đều ngồi chồm hổm để khi công an đến hoặc mưa gió ào tới dễ cho người bán gom hàng, người mua xách giỏ…chạy.
Thế rồi đến chợ chồm hổm các bà nội trợ cũng lười đi. Chợ di động ra đời. Chợ di động trên chiếc gắn máy cũ xì thường được gọi xe “cào cào”, hoặc xe đạp. Xe gì đi nữa thì khoảng giữa ghi đông và yên người cầm lái là một cái giỏ đủ các loại rau. Yên sau là các loại thịt cá. …Có thêm cái rờ mót nhỏ ở yên sau nữa là đậu hủ, chả cá…Hai bên ghi đông là hai giỏ thồ có thể đựng bất cứ thứ gì. Có người còn đặt cây nằm ngang giữa yên sau để có thể treo thêm hai cái giỏ nữa.
Tôi không biết chợ di động có mặt trên đất Sài Gòn từ bao giờ. Chỉ biết lúc còn công tác tại nông trường, tầm 7 giờ sáng, thằng bé đi xe đạp, phía sau là giỏ cần xé lớn mang những món hàng cần thiết như rau xanh thịt cá cho đầu bếp nông trường, những gia đình nông trường viên, gia đình kinh tế mới…Ngoài những món cần thiết cho bữa ăn, ai cần mua món gì hoặc dụng cụ gì ngày mai sẽ được đáp ứng ngay. Hai bên ghi đông thằng bé treo lủng lẳng những xâu bánh tét. Có lần từ nông trường ra bến đò để về Sài Gòn, tôi nhặt được một đòn bánh tét nhỏ. Đòn bánh còn y nguyên. Đang đói tôi định ăn nhưng mặc cảm lượm “mót” tôi đành bỏ lại đòn bánh. Sau này tôi luôn trách hành động của mình: đói mà còn…chảnh.
Có lần thấy tôi lầm lủi đi bộ, thằng bé ngừng xe lại bảo tôi ngồi lên cây đòn ngang để nó cho có giang. Tôi lại từ chối. Ai lại tăng thêm trọng lượng cho một người đang “cộ” quá nhiều đồ đạc như thế chỉ để đỡ mỏi chân mình.
Về lại Sài Gòn, bận rộn việc mưu sinh. Bản thân tôi lại không “dính” đến bếp núc. Ở cơ quan thì ăn tại bếp ăn tập thể. Ở nhà các chị, các cháu nấu ăn. Cho đến một ngày nghỉ hưu, tôi nhận ra xóm mình ít bà nội trợ đi chợ. Sáng họ chờ những người nhập cư mang thức ăn tươi sống, rau quả cây trái …đến từ những chiếc xe đạp. Giá cả không mắc hơn ngoài chợ nhưng theo chị tôi, người mỗi ngày chịu khó đi chợ cho biết thịt, cá, tép của những “ngôi chợ di động” này không tươi, rau cải thì héo queo.
Thực ra, không phải các bà nội trợ lười đi chợ. Giá cả tăng, vợ chồng cùng đi làm, bữa cơm đôi khi chỉ cần một tô canh có ít thịt là đủ. Vừa có canh để dễ nuốt, vừa có chút chất bổ dưỡng từ trong thịt hay tôm khô. Bữa cơm hôm nay không còn cầu kỳ với ba món: món mặn (cá kho, thịt kho, tôm rim…) món xào và món canh như ngày xưa. Chỉ cần chút thức ăn để “lua” cơm là đủ. Vì vậy cần gì phải đi chợ cho mất thời gian. Chợ di động ngừng trước nhà, một trái bí, vài cọng hành, một ít thịt…Thế là đủ! Không có bí thì vài nắm rau, dăm con cá hấp…cũng đủ hai bữa ăn cho cả nhà rồi.
Chị dâu tôi tuần ba ngày từ Đồng Nai lên Sài Gòn phụ cháu tôi và chăm sóc mẹ tôi phụ với tôi. Ngày về, trước khi ra xe, chị thức sớm, chạy ra đầu hẻm mua nhúm rau. Thế là chúng tôi có nồi canh rau tôm khô cho nguyên ngày thêm với nồi thịt chị kho hôm qua. Sau đó chị an tâm trở về Đồng Nai.
Chợ di động quen mặt cũng như quen hết tính ý của khách hàng. Người nào thích loại cá gì, loại rau cải gì…, họ đều “thuộc” hết. Hễ có loại cá, loại rau phù hợp, họ đến ngay nhà khách hàng mời chào. Đôi lúc họ với khách như người nhà, bớt vài ngàn hay thêm cọng rau, tép hành trái ớt…chẳng là gì cả.. Tất cả tạo nên hình ảnh thân quen trong mọi ngóc ngách của Sài Gòn. Và cũng là nét văn hóa đáng yêu của người Việt Nam. Ở đây không có các khẩu hiệu như “khách hàng là thượng đế”, hoặc “vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi”. Thế nhưng xem ra, quan hệ giữa khách và chợ di động hơn hẳn khách và người bán, bởi đôi lúc họ như một người thân quen khi hỏi thăm nhau.
- Sao lâu quá không thấy chị ghé bán?
- Con em đau
- Rồi khỏe lại chưa?
Hoặc chợ di động thắc mắc:
- Lâu quá không thấy cô ra mua?
- À, đi du lịch…
Hễ biết chợ di động có con hay bịnh, thỉnh thoảng khách hàng lại hỏi thăm. Chợ di động cũng hỏi han khách hàng năm nay có đi đâu chơi không. Đôi khi khách hàng và chợ di động là nơi “trút bỏ tâm sự” mà nhiều nhứt là vật giá, tiền học, tiền trường của con cái.
Có chợ di động bán thức ăn cũng có chợ chỉ bán một thứ trái cây như đu đủ, bưởi…hoặc một loại hàng như chiếu, chổi, cây lau nhà…Chủ các chợ di động thường là người nhập cư. Nếu muốn biết sự quan trọng của họ, những ngày tết, nếu không du lịch, sẽ thấy trống vắng khi tầm giờ đó thiếu vắng tiếng rao hàng quen thuộc vì chợ di động đã “di động” về quê. Hoặc mất hẳn hình bóng thân quen khi chợ di động đã có một cuộc sống ổn định nơi quê nhà.
Tôi vẫn luôn nhớ chú bán dừa, quê Long An thường ngang nhà tôi tầm 10 giờ sáng gần 20 năm trước đây. Sau đó tôi bận công việc và rồi hôm nay tự hỏi chú ấy đâu rồi. Hay chú bé bán đu đủ, sầu riêng quê Cần Đước, xuất hiện cùng thời gian với chú bán dừa chỉ khác chú bán vào buổi chiều. Rồi chú cũng biến mất!
Chợ di động là thế! Chỉ xuất hiện một thời gian rồi thay vào đó khuôn mặt mới khi người cũ đã già, không còn đi lại được nữa. Chỉ những khách hàng lâu lâu nhớ về họ như một một mảnh ghép nhỏ, một dấu ký ức bé xíu trong cuộc đời mình.