← Quay lại trang sách

GIẾNG NƯỚC SÀI GÒN CHÚ BÁN BƯỞI TRÊN PHỐ SÀI GÒN

Sài Gòn có “phông tên nước” thập niên 50 thế kỷ 20. Cuối thập niên 60 nước máy Đồng Nai đã vào từng nhà. Chúng tôi từ quận 5 về quận 3 đầu thập niên 70, ngôi nhà ở đây bỏ hoang nhiều năm, không có nước máy, phải câu nhờ lại của gia đình ông Kim sau nhà với giá cắt cổ. Chúng tôi hầu như trả luôn phần tiền nước của ông. Đã vậy ông làm khó làm dễ đủ điều, tháng nào cũng bắt chúng tôi ứng trước tiền nước, nếu không ông gỡ đồng hồ, cắt nguồn nước…

Sau năm 1975, tình hình tồi tệ hơn khi hệ thống nước trong khu vực chúng tôi bị hư. Chúng tôi hoàn toàn không có nước vào buổi sáng, khuya ông Kim mới mở nước để chúng tôi hứng xài. Có nhiều đêm cả nhà hứng nước tới sáng. Thế mà tới tháng chúng tôi vẫn phải đóng tiền với giá trên trời, trong khi cả nhà chúng tôi do thời cuộc, cuộc sống bấp bênh, bữa đói bữa no. Chịu không nỗi, chúng tôi đành ngưng câu nước của ông. Mỗi sáng các cháu phải xách nước nhờ nhà hàng xóm.

Chị Hai tôi sang Đa kao chơi, thấy người ta đóng giếng. Thế rồi chị về bàn với gia đình chị Tư hùn tiền đóng giếng. Giếng đóng giá cao mà toàn nước vàng đậm, phải dùng vôi lóng mới xài được. Lại phải đóng lại giếng nước. Cũng phèn. Biết mình bị gạt, chúng tôi đành ngậm ngùi chịu khó lóng phèn. Cuộc sống còn tệ hơn những ngày xài nước phông tên công cộng! Thế rồi chúng tôi phát hiện khu vực mình có một “thương hiệu đóng giếng chuyên nghiệp”. Vậy mà cứ tìm đâu xa để bị lừa gạt. Lần này giếng đóng tốt, nước trong veo.

Giếng trong nhưng nước lên ít. Lại phải nhờ máy bơm hàng xóm để có nước xài. Hàng xóm làm khó dễ. Chúng tôi hùn tiền mua máy bơm. Nhưng làm sao dẫn nước vào trong bếp? Ông anh rể xây một cái bệ lớn, đặt chiếc lu lớn lên, rồi dẫn đường dây vào bếp. Mỗi ngày ông xách nước đổ vào lu ngoài, nước tự đưa vào lu trong bếp và toa lét. Buổi trưa, chúng tôi tranh thủ tắm giặt quanh miệng giếng. Vui vô cùng!

Thập niên 90, đất nước mở cửa, hệ thống nước khu vực được nâng cấp. Cả xóm cùng nhau vô nước máy. Tuy nhiên đã có nước giếng, bỏ thì uổng. Nhân lúc cơi nền nhà, chúng tôi đặt bồn nước trên lầu cùng với hệ thống bơm nước tự động. Lòng giếng không còn dùng để chứa nước nữa. Chúng tôi cũng không còn tranh thủ tắm giặt buổi trưa để quay quần quanh miệng giếng nữa, mà đã có nước nóng để tắm và máy giặt giải quyết phần quần áo. Như vậy, gia đình tôi có hai hệ thống nước:nước giếng để rửa nhà, giặt giũ, nước máy để nấu nướng và uống…Tháng đầu tiên trả tiền nước máy, người thu tiền ngạc nhiên, nghi ngờ gia đình tôi gian lận với hóa đơn chỉ một ngàn đồng (1000đ), trong lúc các gia đình khác không dưới một trăm ngàn. Chỉ lúc biết chúng tôi xài chủ yếu nước giếng, họ thường để 2-3 tháng mới đến thu tiền chúng tối

Các cháu có gia đình riêng, như bầy chim tung cánh. Chỉ còn tôi và mẹ trong căn nhà thênh thanh. Một ngày cuối năm thứ ba của thập niên thứ hai, thiên niên kỷ 2000, người thợ rửa máy lạnh hỏi vòi nước, chân va vào nấp cái giếng rỗng. Tôi phát hiện lòng giếng đầy gián. Nhỏ cháu nói nó không hề để ý sân nhà còn cái giếng rỗng và đề nghị tối lấp miệng giếng lại.

Miệng giếng được lấp ngay ngày hôm sau. Những chiếc xe chở cát lất lòng giếng, người thợ dùng ciment tráng bằng mặt giếng. Tôi hỏi lấp giếng có ảnh hưởng gì đến phong thủy không, ông ấy nói:

- Giếng mình còn xài mà. Giếng này đóng sâu xuống hơn 20 mét. Máy bơm đưa nước lên bồn chứa trên lầu. Vì vậy mình lấp lòng giếng, tráng mặt giếng chứ đâu có hết xài. Chừng nào lấp xài nữa mới ảnh hưởng phong thủy.

Tôi nhớ làm sao bốn mươi năm trước, các cháu từng thức khuya sang hè nhà hàng xóm hứng từng xô nước. Hứng nước trả tiền mà khi con cái họ gẩy gổ với các cháu tôi, thế là họ không cho hứng nữa. Các cháu phải lên giếng nước các nhà 200 mét để xin nước. Đúng là những ngày ác mộng! Rồi mẹ và các chị tôi phải xuống nước xin lỗi, đánh oan đám cháu để làm mát lòng họ, để họ cho hứng nước. Đóng được giếng nước là niềm vui cho chúng tôi. Hôm nay, giếng nước bị lấp nhưng vẫn cung cấp cho tôi những dòng nước mát từ dưới mạch nước ngầm sâu thẫm. Tuy vậy, nhìn mặt giếng bị san bằng lại, tôi không khỏi bồi hồi nhớ tiếc những tháng ngày tôi và các chị, đám cháu quay quần quanh miệng giếng mỗi trưa giặt giũ.

CHÚ BÁN BƯỞI TRÊN PHỐ SÀI GÒN

Vào nhà lấy tiền, trở ra tôi ngạc nhiên khí thấy Nguyễn Văn Nhất, người Bình Định, bán bưởi mối cho tôi, đưa tay nhận chiếc bình nước đá nhỏ từ chị hàng xóm của tôi chuyên bán đá tủ lạnh, và trao cho chị 1000 đồng. Đưa tiền bưởi cho em, tôi hỏi:

- Sao em không lấy nước ở các thùng đá miễn phí của những người làm từ thiện?

Em tỉnh bơ:

- Thôi chị à. Mình đủ tay đủ chân, làm ra riền thì mua uống. Nước đó để dành cho người không tiền và lỡ đường khát nước thôi.

Tôi cố nói:

- Nhưng nhiều thùng nước lắm, có thêm em uống cũng đâu có sao.

- Chị không biết đó thôi. Mình uống đôi lúc người không tiền đến thì nước hết. Tội họ lắm!

Nghe tôi hỏi về Quán Cơm Nụ Cười 2000, Nguyễn Văn Nhất lắc đầu:

- Ngay chỗ em trọ cũng có quán cơm 2000. Nhưng tụi em không có ăn. Thường người ta bán hơn hai tiếng là hết cơm. Hãy tưởng tượng một người khuyết tật, hoặc một cụ già không làm ra nhiều tiền đến quán lúc hết cơm. Trong khi mình là trai tráng, còn buôn bán được, còn làm ra tiền…ngồi chễm chệ ăn cơm. Coi sao được? Giống như mình giành mất phần cơm của họ. Em không nghĩ gì sâu xa. Em chỉ thấy người ta có cơm từ thiện dành cho người thật sự túng quẫn. Em chưa đến độ đó nên cứ vào quán cơm bình dân 17 ngàn/ dĩa mà ăn cho lương tâm thanh thản.

Không ngờ đó là lời của một thanh niên nhập cư, vào Sài Gòn kiếm sống bằng nghề bán bưởi, trình độ chỉ mới lớp 3 như em từng kể tôi ngày em bán cho tôi trái bưởi đầu tiên.

Tôi chợt nhớ trên trang diễn đàn của một cơ quan truyền thông quốc tế được viết bằng tiếng Việt cách nay không lâu. Một ông tiến sĩ kinh tế cho rằng quán cơm 2000 là sự cạnh tranh không lành mạnh của những người làm từ thiện (!). và điều này tạo nên một bộ phận những kẻ sống bám bằng phần cơm 2000, gây tổn hại cho lực lượng lao động của xã hội, cản trở sự phát triển kinh tế nước nhà.

Tiếc rằng người viết sống ở nước ngoài, chỉ “tạt” sang VN đã mạnh miệng phê phán sai lạc. Nếu họ ở lâu, gần gũi cùng người lao động sẽ thấy: người lao động chân chính có tự ái và cả sự tự trọng của chính mình.