BƠM MỰC VIẾT BIC CHE NẮNG SÀI GÒN
Ngày còn học tiểu học, phải viết bằng mực chấm từ bình mực gắn trên bàn, phải tự mua hột mực pha để xài. Lên trung học được xài mực parker, pilot. Thưở đó dùng viết bic (còn gọi là bút bi) rất ngượng, vì tự nhỏ tôi đã được “cảnh báo”: viết bút bic hư chữ. Tôi sợ không dùng dù chẳng biết “hư chữ” là thế nào.
Vào đại học năm 1975, Sài Gòn còn vô vàn khó khăn, bút mực vẫn sử dụng nhưng mực bình hiếm và mắc. Trong hộp viết của ba tôi còn khá nhiều cây parker. Tôi lấy một cây mang lên trường xài. Ông thầy từng du học ở Mỹ thấy cây parker của tôi mượn viết thử rồi tỉnh bơ:
- Cho tao cây này.
Tôi xin phép nhận lại, thầy cứ giật lấy. Tôi nghiêm mặt:
- Em không giỡn đâu nha thầy. Viết em đang xài mà.
Vậy mà khi tôi vì lý lịch bị treo luận văn tốt nghiệp, buổi họp nhận xét về tôi, thầy mang chuyện đó vào như đổ dầu vào lửa:
- Đó là một sinh viên vô đạo đức. Tôi mượn cây bút mực thôi mà cô ấy giật lại chửi tôi một trận.
Buổi họp không có tôi để tự bào chữa cho mình. Nhưng lời thuật lại của cô giáo khiến tôi ngỡ ngàng. Cô chỉ trách tôi sao giật lại cây viết và chửi thầy làm gì. Chuyện giữa tôi và thầy tại văn phòng khoa hôm đó tôi chưa hề kể ai. Từ lúc đó tôi nhận thức được một điều: bên cạnh những người thầy đầy lương tâm và trách nhiệm cũng không ít những kẻ không đáng làm thầy dù đang dạy đại học.
Chính lúc khó tìm cây bút mực và bình mực lại rất đắt, người ta tìm đến bút bic. Bút bic lại rất mắc. Bút bic trong nước sản xuất mau hết mực, mực xuống nhanh và dễ đóng thành cục, viết rất xấu. Có khi mực lại không xuống nên ngày đó có cụm từ “bút bi bị bít” để chỉ những khó khăn khi lỡ mua nhằm cây bút bi không viết được. Thế là cô dịch vụ bơm mực và sửa bút bic ra đời trên các vỉa hè Sài Gòn. Bút bic nước ngoài gởi về được chuộng hơn giá mắc gấp nhiều lần bút bic trong nước. Tuy nhiên, có được cái “vỏ” ngoại rồi thì tốn một đồng bơm mực, viết vẫn tốt hơn.
Một hộp bút bic từ nước ngoài đã là món quá khá sang với người Sài Gòn thập niên 70_80 thế kỷ 20. Từ hộp bút đó, chủ nhân của nó có thể “xé lẻ” từng cây hoặc từng cặp để tặng người thân quen. Tôi nhớ cha nuôi đã gởi cho tôi một hộp bút bic Canada, tôi đã lấy một cặp tặng người thầy “ruột” giúp tôi làm luận văn tốt nghiệp và một cây màu xanh tặng “thầy phụ”. Lúc mang tặng tôi mang cảm giác vô cùng hãnh diện vì có được những cây bút ngoại.
Có lần một cây bic còn đầy mực viết không ra. Tôi tìm đến người ngồi sửa và bơm mực bút bic trước cửa trường tiểu học Kỳ Đồng. Tôi nói ông hãy lấy đầu bi của cây bút hết mực gắn qua cho cây bút bị nghẹt mực. Ông xem sơ rồi nói tôi để ông đẩy mực cây bút nghẹt và bơm mực vào cây bút kia. Như vậy tôi có được hai cây bút, chỉ tốn một đồng, khỏi phải lấy bi cây viết này cắm vào đầu cây bút kia. Tôi bỗng có thêm một cây bút bic ngoại “mới”…bơm đầy và tự hào cầm nó vào lớp.
Đừng tưởng những người ngồi lề đường bơm mực chỉ là dân vỉa hè, không có uy tín. Tôi mang mấy cây parker của ba tôi ra cho ông thay ngòi. Không tìm ra ngòi viết tốt, ông chờ tôi đến trả lại. Ông nói ông không tìm được ngòi “ngoại”, vừa tốt vừa rẻ hợp với túi tiền của tôi. Ông khuyên tôi mang những cây bút ra đường Lê Lợi (quận 1) bán cho các “quầy” viết ngoại cũng có được kha khá tiền. Ở đó người ta có “nguồn” ngòi viết parker hay pilot, mấy cây viết của tôi sẽ tìm đúng “chủ” xứng đáng của nó.
Tiếc kỷ vật của ba, tôi vẫn cất kỹ những cây parker, chỉ xài một cây còn khá tốt. Để rồi một ngày tôi phát hiện mình mất đi cây viết yêu quí. Một người bạn cùng phòng ở ký túc xá, vì đua đòi theo “đám bạn Sài Gòn” nên đã chôm cây viết parker của tôi bán đi.
Thưở đó trường đại học chia hai nhóm. Nhóm ký túc xá là những sinh viên nghèo, hoặc ở tỉnh, sống trong ký túc xá. Tôi là người Sài Gòn nhưng nghèo phải sống trong ký túc xá, và được “liệt” vào “hàng dân ký túc xá’. Nhóm Sài Gòn là những cư dân Sài Gòn gốc đi học bằng xe đạp. Bạn là dân tỉnh, lại cặp kè chơi với dân Sài Gòn với những buổi hùn tiền tụ tập ăn uống. Bạn đã chôm cây viết của tôi, cây viết quí của người bạn Sài Gòn nghèo ở ký túc xá, để bạn có tiền tham gia những cuộc vui với những người bạn Sài Gòn khác. Chuyện sau này tôi mới nghe một người bạn khác kể khi người đó cùng bạn mang cây parker ra Lê Lợi bán. Một sinh viên đại học thua xa ông già ngồi bơm mực lề đường bởi lòng tham và sự đua đòi.
Đất nước mở cửa. Xã hội đầy hàng hóa trong đó có các loại viết. Bút lông, bút xóa, bút dạ quang…Dĩ nhiên bút bi hay viết bic cũng đủ các nhãn hiệu, từ trong nước đến nước ngoài. Tất cả đều đa dạng, chất lượng cao, mẫu mã đẹp. Chẳng ai còn nhớ đến chuyện bơm mực bút bic nữa. Rồi một buổi chiều, đi ngang trường tiểu học Kỳ Đồng, tôi giật mình tụ hỏi.
- Ông già ngồi bơm bút bic ngày xưa đâu rồi? Ông đã chính thức “giải nghệ” từ lúc nào? Ông có hụt hẫng không khi một ngày không ai còn tìm đến ông để bơm mực hay nhờ ông sửa cây “bút bi bị bít”?
CHE NẮNG SÀI GÒN
Sài Gòn mưa rồi chợt nắng. Nắng lung linh đẹp nên có lẽ thế nhạc sĩ họ Trịnh đã xem nắng trong suốt như thủy tinh. Ai từng sống tại Sài Gòn cũng phải nhận ra nắng Sài Gòn thật đẹp. Hồi nhỏ đi học tôi rất ít đội nón, thế mà hiếm khi bị cảm nắng. Sau này, trái đất nóng dần lên, nắng Sài Gòn không ngoại lệ, nóng hơn và gay gắt hơn. Có điều thú vị Sài Gòn đầy nắng nhưng hễ giáo viên, công nhân viên từ ngoại thành hoặc từ tỉnh về Sài Gòn, bất ngờ gặp lại đồng nghiệp cũ đều được khen:
- Trời ơi, về Sài Gòn trắng da dài tóc, đẹp ghê!
Làm như nắng Sài Gòn không làm đen da vậy. Nhưng cũng có thể chứ. Tôi về Đồng Nai một buổi đã thấy mặt mày tay chân đen nhẻm dù có đội nón, trùm bao tay. Còn ở Sài Gòn suốt năm ít khi tôi nhận ra da mình nám hay hai cánh tay mình bị đẹn. Có lẽ nắng Sài Gòn lành thiệt!
Tuy vậy, dưới ánh nắng rực rỡ, mấy ai “can đảm” phơi mình dưới nắng. Trước lúc người đi xe gắn máy bị bắt buộc đội nón bảo hiểm, thị trường nón vải, nón rơm…tại sài Gòn khá sôi động. Người Sài gòn đội đủ loại nón. Nón két, lưỡi trai che nắng (sun visor), tức chiếc “nón” chỉ có vành phía trước và một vòng khung quanh đầu, không có lớp vải che trên đầu. Nón là, nón rơm rộng vành, có cột chiếc nơ lụa…Hình như người Sài Gòn chỉ che dù khi trời mưa, ít ai che dù đi nắng. Trong đám bạn tôi, chỉ Thụy Vân xài dù đi học dù mưa hay nắng. Hình ảnh bạn ung dung che dù từ trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật về cư xá Kiến Thiết bên kia ngã tư thấy thật lãng mạn và hay hay. Còn tôi chỉ xài dù khi mưa.
Một lần sang Trung Quốc, thấy người ta bán dù giá khá rẻ, tôi mua vài cây về làm quà. Trưa đi dạy về nắng gắt, tôi chợt nhớ mấy cây dù bỏ trong tủ thật phí. Ngày hôm sau tôi mang ra xài và thấy sự hữu dụng của cây dù. Sáng sớm đi bộ ra trạm xe buýt, cây dù như vũ khí phòng thân. Trưa nắng gắt, từ xe buýt bước xuống, giương dù lên, có ngay bóng mát trên đầu. Thật dịu đi cái nắng Sài Gòn!
Từ đó tôi luôn xài dù mỗi khi đi bộ. Tôi cũng nhận ra khá nhiều người trẻ hôm nay xài dù che nắng, không như thế hệ chúng tôi ngày trước, dù chỉ dành cho các bà các cô che mưa.
Ngoài đội nón, che dù, người ta còn nhiều cách tránh nắng độc đáo mà hình như chỉ Sài Gòn mới có. Ban đầu chỉ vài người mang bao tay khi đi xe đạp, xe gắn máy. Tôi nhớ cô bạn cười nhạo khi thấy tôi mang bao tay.
- Sao, mày mang bao tay thấy bớt đen không?
Tôi không biết bao tay dài, ôm trọn cánh tay xuất hiện từ lúc nào, do ai sáng kiến. Thế nhưng mang vào, thấy tay không bị nắng gắt làm nóng ran lên mỗi khi ra đường giữa trưa là tôi an tâm rồi. Bảo vệ tay, người ta nghĩ đến bảo vệ chính họ khi được khuyến cáo về sự ô nhiễm môi trường…Không biết từ lúc nào, người Sài Gòn lấy chiếc khăn mu soa xếp xéo thành ba cạnh rồi cột hai chéo khăn ra sau để tránh bụi. Ngày trước thi thoảng tôi thấy người đi xe gắn máy cột chéo khăn tránh bụi. Một ngày, chị học trò lớn của tôi chở tôi đi chùa, dùng khăn xếp chéo rồi cột ra sau. Thấy tôi ngạc nhiên, cô phân bua:
- Bụi nhiều lắm cô ơi. Phải tránh bụi thôi không thì bịnh chết.
Vậy là thị trường phát sinh một nhu cầu mới: tránh bụi. Nhu cầu có rồi, những nhà sản xuất vào cuộc: khẩu trang ra đời.
Khẩu trang ngoài công dụng che bụi, người ta phát hiện còn giúp tránh nắng. Thế là đủ loại khẩu trang ra đời. Đầu tiên khẩu trang hình tam giác với hai sợi thun nhỏ móc vào hai vành tai. Sau đó là khẩu trang hình chữ nhật, được may hai lớp với hai cọng thun bé xíu móc vào hai tai. Cũng có loại may hai lớp hình tam giác, được gài ra sau đầu bằng hai miếng dán. Khẩu trang lại “biến tấu” y như mạng che mặt khi may chung với chiếc nón trùm đầu như khăn trùm của phụ nữ Hồi giáo, chỉ khác thay cho khăn trùm đầu là chiến nón lưỡi trai, phủ xuống cổ, choàng ra phía trước mặt bên trái, gài qua má bên phải bằng các miếng dán, chỉ chừa hai mắt! Ra đường nhiều lúc đối mặt người quen cũng không nhận ra, trừ khi thấy đôi mắt họ híp lại mới biết họ cười với mình và chờ họ mở “mạng che mặt ra” rồi “tay bắt mặt mừng” sau. Ngành y tế cũng “nhào vô” thị trường khẩu trang khi tung ra những hộp khẩu trang y tế xài chỉ một lần với giá tạm chấp nhận được.
Thưở phim Hàn Quốc vừa du nhập vào những năm cuối thế kỷ 20, Sài gòn xuất hiện loại áo nỉ trùm đầu dài tay. Có lần trên một tờ báo lớn, người ta cười các cô tuổi trăng trăng tròn học đòi diễn viên Hàn với chiếc áo trùm đầu chỉ dành cho xứ lạnh. Nhưng rồi sau đó, mọi người nhận ra đó là “bộ giáp” khá tốt che tay thay bao tay, che cổ tránh bị giựt dây chuyền và trùm đầu để tránh nắng. Thuận lợi cả nhiều đường. Rồi người ta lại thêm vào chiếc áo trùm đầu một mảnh vải che luôn cả mặt mũi, chỉ chừa hai mắt, thay cho khẩu trang. Phái nữ chỉ cần chiếc áo đó là bảo vệ hết từ cổ, cánh tay, mái tóc đến mặt mày. Có đeo lắc hay dây chuyền vàng cũng chẳng sợ cướp bóc. Hoan hô áo trùm đầu che mặt!
Đi xe gắn máy, để xe ngoài nắng vài chục phút sẽ khó mà ngồi lên yên trở lại vì hơi nóng kinh khủng từ yên xe. Người ta sản xuất ra vải trùm xe để trùm yên xe khỏi phải nóng. Từ đó, các nhà “thiết kế” lại đi xa hơn khi tung vào thị trường “miếng vải trùm chân” dành cho các cô mặc đầm muốn bảo vệ cặp đùi của mình. Thật lạ! Mặc đầm, mặc váy để khoe cặp đùi thon trắng, rồi lại mua vải để che lại. Tại sao không mặc quần tây hay áo dài cho đỡ phiền. Có lẽ nhờ vậy mà nghề may ở Sài Gòn không bao giờ ế khi cứ phải cung cấp cho thị trưởng mọi “phụ tùng” chống lại nắng Sài Gòn.