Chương 2 CUỘC CÁCH MẠNG TRONG VẤN ĐỀ THẤU HIỂU TÂM TRÍ VÀ NÃO BỘ
Hoài nghi càng lớn, thức tỉnh càng to lớn; hoài nghi càng nhỏ, thức tỉnh càng bé nhỏ. Không hoài nghi thì sẽ không bao giờ thức tỉnh.
C.-C. Chang, The Practice of Zen (Thực hành Thiền định)
Cuộc đời của bạn vô cùng ngắn ngủi, nhưng đó không chỉ là cuộc sống riêng của bạn mà là sự kết hợp của những mảnh đời khác đang sống cùng thời với bạn. Bạn chính là một biểu hiện của lịch sử.
Robert Penn Warren, World Enough and Time (Trần gian đủ và Thời gian)
Vào cuối thập niên 1960, tôi đã chứng kiến những tiến bộ vượt bậc trong tiếp cận y khoa đối với những tổn thương về mặt tâm thần. Khi chuẩn bị vào năm hai đại học y, tôi tranh thủ làm phụ tá tại một phòng nghiên cứu ở MMHC. Nhiệm vụ của tôi là tổ chức những hoạt động giải trí cho bệnh nhân.
MMHC từ lâu được coi là một trong những bệnh viện tâm thần tốt nhất nước Mỹ, một viên ngọc quý trên chiếc vương miện của \đế chế giảng dạy Y khoa Harvard. Mục tiêu của phòng nghiên cứu là xác định liệu pháp tâm lý hay thuốc là cách tốt nhất để điều trị những người trẻ tuổi được chẩn đoán bị tâm thần phân liệt lên cơn suy nhược thần kinh lần đầu tiên.
Phương pháp chữa bệnh bằng cách trò chuyện – một nhánh của phân tâm học Freud – vẫn là phương pháp điều trị chính cho các bệnh tâm thần ở MMHC. Tuy nhiên, vào đầu những năm 1950, một nhóm các nhà khoa học Pháp đã phát hiện ra một hợp chất mới: chlorpromazine (tên thương phẩm là Thorazine), có thể “an thần” bệnh nhân, khiến họ bớt kích động, hoang tưởng. Điều này đã thúc đẩy hy vọng rằng ta có thể phát triển các dược phẩm nhằm điều trị các vấn đề nghiêm trọng về tinh thần như trầm cảm, rối loạn hoảng loạn, rối loạn lo âu và hàng cảm, cũng như để kiểm soát một số triệu chứng đáng lo ngại nhất của bệnh tâm thần phân liệt.
Vì là phụ tá nên tôi không liên quan gì đến công việc của phòng nghiên cứu và chưa bao giờ được nêu lên ý kiến của mình về phương pháp điều trị cho bệnh nhân. Những bệnh nhân của tôi tuổi chẳng kém tôi bao nhiêu, họ là sinh viên tại các trường đại học như Harvard, MIT và Boston. Có người cố tự sát, có người tự lấy dao lam cắt cơ thể, có người tấn công bạn cùng phòng, có người khiến người thân sửng sốt tột độ vì những hành động khó lường... Công việc của tôi là giữ cho họ tham gia vào các hoạt động bình thường của sinh viên như ăn tại cửa hàng pizza, cắm trại trong rừng, xem bóng chày, du thuyền trên sông. Tôi thường tập trung cao độ trong các buổi trao đổi của các nhân viên phòng nghiên cứu, tôi cố gắng lý giải và hiểu những lời nói của các bệnh nhân. Tôi cũng phải học cách xử lý khi bệnh nhân bột phát cảm xúc, hoặc những lúc họ rụt rè, sợ hãi.
Một sáng nọ, tôi bắt gặp một nữ bệnh nhân đứng yên như tượng trong phòng ngủ, mặt mày đông cứng vì sợ hãi, một tay giơ lên như phòng thủ. Cô ấy cứ đứng bất động như thế suốt 12 tiếng. Các bác sĩ cho tôi biết cô ta bị thể căng trương lực. Những sách tôi đã học qua không đề cập cách chữa trị loại bệnh này, thế nên chúng tôi chỉ có thể để mặc bệnh nhân như thế đến khi cô ấy tự ngừng lại.
⚝ ✽ ⚝
NHỮNG CUỘC TÂM SỰ TRƯỚC BÌNH MINHTôi ở lại văn phòng làm việc nhiều đêm và cả nhiều ngày nghỉ cuối tuần, nhờ thế mà quan sát và biết được nhiều điều hơn so với các bác sĩ thường chỉ thăm các bệnh nhân chớp nhoáng. Khi bệnh nhân không ngủ được, họ thường mặc áo choàng tắm đi lang thang vào trạm điều dưỡng tối tăm để tìm tôi nói chuyện. Màn đêm im ắng dường như giúp họ cởi mở hơn. Họ kể tôi nghe chuyện họ bị đánh đập, tấn công, hay lạm dụng tình dục bởi bố mẹ, bạn cùng lớp hay hàng xóm. Có người kể tôi nghe về những buổi tối xa xưa, họ sợ hãi nằm trên giường nghe tiếng bố đánh đập mẹ, tiếng chửi bới đe dọa, tiếng đồ đạc trong nhà bị đập vỡ. Có người kể tôi nghe những hôm họ nghe tiếng chân ông bố nát rượu bước vào nhà, rồi lôi họ ra khỏi giường, đánh đập tơi bời vì những lỗi lầm họ không hề mắc phải. Một vài bệnh nhân nữ kể về những đêm tuổi thơ, họ nằm bất động trên giường, mắt thao láo, chờ đợi điều không thể tránh khỏi là bố hay anh trai sẽ bước vào phòng và lạm dụng tình dục họ.
Trong những cuộc họp mỗi sáng, các bác sĩ trẻ sẽ trình bày ca bệnh của mình cho vị giám sát nghe, và những nhân viên phụ tá trong khoa nghiên cứu được phép im lặng theo dõi. Các bác sĩ hiếm khi nhắc đến những câu chuyện tôi từng nghe bệnh nhân kể. Tuy nhiên, về sau, có rất nhiều nghiên cứu chứng minh rằng một nửa số người tìm kiếm sự chăm sóc về tâm thần là những người từng bị tấn công, bỏ rơi, bỏ mặc, bị hãm hiếp khi còn nhỏ hoặc đã từng chứng kiến hành vi bạo lực trong gia đình'. Nhưng những trải nghiệm đau thương này dường như không được nhắc đến trong những buổi họp ấy.
Tôi thường ngạc nhiên khi thấy các đồng nghiệp thản nhiên nhắc đến những triệu chứng của bệnh nhân, thấy họ dành nhiều thời gian để kiểm soát suy nghĩ tự sát và hành vi tự hủy hoại bản thân của bệnh nhân hơn là tìm hiểu nguyên nhân khiến các bệnh nhân tuyệt vọng và buông xuôi. Tôi cũng rất ngỡ ngàng khi thấy người ta quan tâm quá ít đến những thành tựu và khát vọng của họ; những người họ quan tâm, yêu mến, hay thù ghét; điều gì động viên và thúc đẩy họ, điều gì khiến họ bế tắc, điều gì khiến họ cảm thấy bình yên – tức hệ sinh thái đời sống của họ.
Sau đó vài năm, khi làm việc tại một bệnh viện Công giáo, tôi kiểm tra thể chất cho những phụ nữ mắc bệnh trầm cảm sắp được điều trị bằng liệu pháp sốc điện. Vốn tò mò nên tôi hỏi thăm cuộc sống của họ. Nhiều người liền mau mắn kể tôi nghe chuyện đời họ: cuộc hôn nhân đầy đau khổ, những đứa con ngỗ nghịch, cảm giác tội lỗi vì đã phá thai. Trong lúc chia sẻ, gương mặt họ bừng sáng rõ rệt. Họ thường cảm ơn tôi rối rít vì đã lắng nghe họ tâm sự. Một vài người trong số họ phân vân không biết mình có cần dùng liệu pháp sốc điện hay không vì sau khi trò chuyện với tôi họ đã trút được phần lớn gánh nặng tâm lý. Tôi thường thấy rất buồn sau mỗi cuộc gặp mặt bệnh nhân như thế, vì tôi biết rằng vào ngày mai, khi họ được sốc điện, họ sẽ quên luôn buổi nói chuyện này. Làm công việc này được một thời gian ngắn, tôi quyết định nghỉ.
Vào những ngày không phải đi làm, tôi thường đến Thư viện Y học Countway (Countway Library of Medicine) để tìm đọc các đầu sách có ích cho công việc. Một chiều thứ Bảy nọ, tôi tìm thấy cuốn sách có tựa Dementia Praecox của tác giả Eugen Bleuler xuất bản năm 1911, viết về bệnh tâm thần phân liệt. Bleuler đã có những quan sát thật tuyệt vời:
Trong số các ảo giác tâm thần phân liệt về cơ thể, những ảo giác về tình dục là thường xuyên nhất và quan trọng nhất. Những bệnh nhân này đều trải nghiệm tất cả những điều kỳ diệu và niềm vui từ thỏa mãn tình dục bình thường và dị thường, nhưng họ còn phải trải nghiệm những cách thức tục tĩu và kinh tởm, xuất phát từ những tưởng tượng ngông cuồng nhất. Bệnh nhân nam bị xuất tinh, trải qua những kích thích dương vật đau đớn. Những bệnh nhân nữ cảm giác như bị hãm hiếp và gây tổn thương bằng những cách thức tàn ác nhất. Mặc dù rất nhiều ảo giác có ý nghĩa mang tính biểu tượng, nhưng phần lớn ảo giác đều tương ứng với những cảm giác thực sự. @@
Điều này khiến tôi tự hỏi: Nếu những câu chuyện mà các bệnh nhân bị “ảo giác”, nghĩa là bị bất ổn tâm thần, kể tôi nghe trước bình minh là những câu chuyện có thật, thì liệu những “ảo giác” này có phải là những mẩu ký ức về các trải nghiệm hoàn toàn có thật không?
Liệu ảo giác có phải chỉ do những bộ óc bị bệnh tạo dựng nên? Lẽ nào người ta có thể tạo ra những xúc cảm thể chất mà họ chưa bao giờ trải nghiệm sao? Có ranh giới rõ ràng nào giữa tính sáng tạo và trí tưởng tượng bệnh hoạn, giữa ký ức và tưởng tượng không?
Không có lời giải đáp cho những câu hỏi này cho đến tận ngày nay, nhưng có những nghiên cứu cho thấy những người bị lạm dụng tình dục khi còn bé thường có những cảm giác không có nguyên nhân thể chất rõ ràng nào, ví dụ như thấy đau vùng bụng, nghe thấy những giọng nói đang cảnh báo rằng họ đang gặp nguy hiểm hay đang cáo buộc họ những tội lỗi kinh khủng.
Rõ ràng, nhiều bệnh nhân có những hành vi bạo lực, kỳ quặc và tự hủy hoại mình, nhất là khi họ cảm thấy thất vọng, bế tắc hoặc cảm thấy bị người khác hiểu lầm. Họ nổi cơn tam bành, ném chén dĩa, đập bể cửa kính rồi nhặt mảnh kính vỡ cắt tay mình. Lúc đó, tôi không hiểu tại sao một bệnh nhân lại nổi giận hay sợ hãi khi có người đề nghị làm cho họ những điều đơn giản như lau tóc cho họ. Tôi thường làm theo hướng dẫn của những y tá có kinh nghiệm: lùi lại hoặc tìm cách khống chế bệnh nhân.
Tôi rất ngạc nhiên và lo sợ vì tôi cảm thấy thỏa mãn khi vật một bệnh nhân xuống sàn cho y tá tiêm thuốc. Và tôi dần nhận ra chúng tôi được đào tạo chuyên môn để làm chủ được những hiện thực đáng sợ và khó hiểu khi chăm sóc bệnh nhân.
Sylvia là một sinh viên Đại học Boston, 19 tuổi, xinh đẹp. Cô thường im lặng ngồi một mình trong góc phòng khám, mặt lộ vẻ sợ hãi tột độ. Những lời đồn thổi về việc cô là bạn gái của một tay mafia cộm cán ở Boston khiến không khí vây quanh cô đầy bí ẩn.
Khi cô không chịu ăn suốt hơn một tuần và bắt đầu sụt ký nhanh chóng, các bác sĩ quyết định ép cô ăn: ba người đè cô nằm xuống, một người đẩy ống dẫn thức ăn xuống họng cô, một y tá đổ chất lỏng dinh dưỡng vào.
Sau đó, trong một lần tâm sự với tôi lúc nửa đêm, Sylvia đã rất nhỏ nhẹ, rụt rè kể về tuổi thơ bị anh trai và người cậu xâm hại tình dục. Tôi liền nhận ra cô hẳn đã cảm thấy những biểu lộ mang tính “quan tâm” của chúng tôi không khác gì hãm hiếp tập thể cô ấy.
Trải nghiệm này, và những lần khác, đã giúp tôi hình thành một quy tắc cho những học trò của mình: Nếu bạn làm một điều gì đó với bệnh nhân mà bạn sẽ không làm điều đó với bạn bè hay con cái, tức là bạn đã vô tình tái dựng nỗi đau trong quá khứ của bệnh nhân đấy.
Khi tổ chức các hoạt động giải trí nhóm cho bệnh nhân, tôi nhận thấy họ vô cùng vụng về, không biết làm chủ cơ thể. Khi đi cắm trại, nhiều người đứng sững ra nhìn tôi dựng lều. Có lần, khi chúng tôi đang đi thuyền trên sông thì bão ập đến, hầu hết bệnh nhân nép sát người bất động vào mạn thuyền mà không hiểu rằng cần di chuyển ra sao cho thuyền thăng bằng. Khi chơi bóng chuyền, các nhân viên luôn phối hợp với nhau tốt hơn so với các bệnh nhân.
Một đặc điểm chung nữa của các bệnh nhân là ngay trong những cuộc tán gẫu giữa bạn bè với nhau thì họ cũng rất khó có những cử chỉ và biểu cảm tự nhiên trên khuôn mặt. Tôi hiểu rõ hơn về điều này sau khi gặp các nhà trị liệu cơ thể Peter Levine và Pat
Ogden. Trong những chương sau, tôi sẽ nói nhiều về việc sang chấn tâm lý được lưu giữ trong cơ thể con người như thế nào.
⚝ ✽ ⚝
THẤU HIỂU NỖI ĐAUTại MMHC, chúng tôi dành 6 tiếng mỗi ngày với các bệnh nhân, và sau đó gặp gỡ trao đổi với những bác sĩ tâm thần có nhiều kinh nghiệm để chia sẻ những gì chúng tôi quan sát được, đặt câu hỏi và thi nhau đưa ra những bình luận hay ho nhất.
Thấy Elvin Semrad rất uyên bác và nổi tiếng thường khuyên chúng tôi không nên đọc sách giáo khoa tâm thần trong năm đầu tiên học y. Thầy Semrad không muốn những nhận thức của chúng tôi về thực tế sẽ bị những chẩn đoán tâm thần giả hiệu khuất lấp. Có lần, tôi hỏi thầy: “Thầy thấy nên gọi bệnh nhân này là bị tâm thần phân liệt hay là rối loạn phân liệt cảm xúc?”. Ông ngừng lại một lúc, vuốt cằm, đăm chiêu rồi nói: “Thầy nghĩ mình sẽ gọi anh ta là Michael McIntyre”.
Thầy Semrad dạy chúng tôi rằng hầu hết những khổ đau của con người liên quan đến tình yêu và mất mát; công việc của các nhà trị liệu là giúp mọi người “thừa nhận, trải nghiệm và thích nghi” thực tại của cuộc sống với tất cả những niềm vui và đau khổ.
Thầy thường nói: “Những nguyên nhân chính của nỗi đau khổ của chúng ta là những lời nói dối ta tự nói với bản thân”. Thây mong mỏi chúng tôi sẽ trung thực với bản thân trong mọi khía cạnh của trải nghiệm. Ông thường nói rằng người ta không bao giờ khá hơn nếu không biết được mình đang nghĩ gì và không cảm được mình đang cảm nhận gì.
Tôi đã rất ngạc nhiên khi nghe thầy Semrad kể rằng ông thường thấy rất dễ chịu khi cảm nhận mông của vợ áp vào mình trước khi đi ngủ mỗi tối. Bằng cách tiết lộ những nhu cầu đơn giản của chính mình, thầy đã giúp chúng tôi nhận ra những nhu cầu này cơ bản và thiết thân trong cuộc sống của chúng ta đến thế nào. Khi những nhu cầu này không được đáp ứng những ức chế sẽ hình thành và tồn tại trong ta, bất kể ta suy nghĩ cao cả và đạt những thành tựu to lớn đến mức nào. Thầy nói với chúng tôi rằng việc chữa lành những ức chế này phụ thuộc vào việc hiểu biết những trải nghiệm của bản thân: Bạn chỉ có thể hoàn toàn chịu trách nhiệm về cuộc sống của bạn khi nào bạn thừa nhận tất cả hiện trạng về cơ thể của mình.
Tuy nhiên, nghề nghiệp của chúng tôi lại đi theo một hướng khác. Năm 1968, tạp chí American Journal of Psychiatry (Tâm thần học Hoa Kỳ) công bố kết quả nghiên cứu từ phòng nghiên cứu nơi tôi từng làm phụ tá cho thấy rõ ràng rằng các bệnh nhân tâm thần phân liệt chỉ uống thuốc lại đạt kết quả tốt hơn so với những người được trò chuyện 3 lần/tuần với các nhà trị liệu tốt nhất ở Boston. Nghiên cứu này là một trong những cột mốc quan trọng trên con đường thay đổi dần dần cách thức y khoa và tâm thần học tiếp cận các vấn đề tâm lý: từ những biểu lộ không ngừng thay đổi về những xúc cảm và những mối quan hệ không thể chấp nhận đến mô hình “rối loạn” tâm thần thực sự.
Cách y học tiếp cận những người đang gánh chịu nỗi đau luôn dựa trên công nghệ hiện có lúc bấy giờ. Trước thời kỳ Khai sáng, những lệch lạc trong hành vi sai trái đều bị gán cho Chúa, tội ác, ma thuật, phù thủy, và những linh hồn tà ác. Chỉ từ thế kỷ 19, các nhà khoa học Pháp và Đức mới bắt đầu xem xét hành vi như là một cách thức để thích ứng với sự phức tạp của thế giới. Bây giờ một mô hình mới đang nổi lên: giận dữ, tự phụ, tham lam, hám lợi, và lười nhác – cũng như tất cả những vấn đề khác mà con người chúng ta luôn phải vật lộn để kiểm soát – bị tái định nghĩa thành “những rối loạn” có thể được chữa trị bằng cách sử dụng những chất hóa học phù hợp. Nhiều nhà tâm thần học cảm thấy rất nhẹ nhõm và vui vẻ khi trở thành “những nhà khoa học thực thụ”, giống như những người bạn cùng trường y của họ có phòng thí nghiệm, thí nghiệm trên động vật, trang thiết bị đắt tiền, các xét nghiệm chẩn đoán phức tạp và gạt qua một bên những giả thuyết bóng bẩy của những triết gia như Freud và Jung. Một giáo trình chính của tâm thần học thậm chí còn tuyên bố rằng: “Nguyên nhân của bệnh lý tinh thần hiện nay được coi là một sự sai lệch của bộ não, một sự mất cân bằng hóa học”.
Như các đồng nghiệp, tôi háo hức đón nhận cuộc cách mạng dược lý này. Năm 1973, tôi trở thành bác sĩ nội trú đầu tiên trong lĩnh vực tâm thần dược học tại MMHC. Có thể tôi cũng là bác sĩ tâm thần đầu tiên ở Boston áp dụng phương pháp điều trị lithium cho một bệnh nhân mắc chứng hưng - trầm cảm (hay còn gọi là rối loạn lưỡng cực). Khi được điều trị bởi phương pháp này, chu kỳ buồn vui thất thường vào tháng 5 hằng năm trong suốt 35 năm, và hiện tượng trầm cảm đến mức muốn tự sát vào mỗi tháng 11 của một phụ nữ đã ngừng lại và ổn định trong vòng 3 năm mà tôi điều trị.
Tôi cũng là thành viên nhóm nghiên cứu đầu tiên của Hoa Kỳ thử nghiệm thuốc chống loạn thần Clozaril trên bệnh nhân tâm thần mạn tính lớn tuổi ở các trại tâm thần. Chúng tôi thu được những kết quả tuyệt vời: Một số bệnh nhân bấy lâu nay trốn trong bóng tối đáng sợ của riêng mình đã có thể quay lại với gia đình và cộng đồng, một số người vốn sống trong tuyệt vọng bắt đầu thích tiếp xúc với người khác và tìm thấy niềm vui trong công việc và giải trí. Những kết quả tuyệt vời này khiến chúng ta lạc quan hơn vì cuối cùng ta có thể giúp con người vượt qua đau khổ.
Thuốc chống rối loạn tâm thần đã giúp giảm số người sống trong các bệnh viện tâm thần ở Mỹ từ hơn 500.000 bệnh nhân vào năm 1955 xuống còn dưới 100.000 vào năm 1996. Thay đổi tích cực này gần như không thể tin được!
Trong thời gian ở Boston, tôi tiếp tục làm việc trong phòng thí nghiệm về tâm thần dược học tại MMHC, nơi giờ đây đã chuyển hướng nghiên cứu sang một con đường khác. Trong những năm
1960, các nhà khoa học tại Viện Y tế quốc gia (National Institutes of Health) đã bắt đầu phát triển các kỹ thuật để cô lập và đo lượng hormone cũng như chất dẫn truyền thần kinh trong máu và não. Các chất dẫn truyền thần kinh là những chất hóa học mang thông tin từ neuron (tế bào thần kinh) đến neuron, cho phép chúng ta có thể hòa nhập với thế giới một cách hiệu quả.
Giờ đây, các nhà khoa học đã tìm ra bằng chứng cho thấy lượng norepinephrine bất thường có liên quan đến chứng trầm cảm, và dopamine liên quan đến tâm thần phân liệt, chúng ta có hy vọng rằng có thể phát triển các loại thuốc dành cho những rối loạn tâm thần cụ thể. Niềm hy vọng đó chưa bao giờ được thực thi đến cùng, nhưng những nỗ lực đo lường mức độ ảnh hưởng của thuốc có thể ảnh hưởng đến các triệu chứng tâm thần của chúng tôi đã dẫn đến một sự thay đổi sâu sắc khác trong nghề.
Tôi đã góp phần nghiên cứu xây dựng Tiêu chuẩn chẩn đoán (Research Diagnostic Criteria). Về sau, nó trở thành cơ sở cho những tiêu chí có tính hệ thống đầu tiên để chẩn đoán các rối loạn tâm thần - Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders (DSM – Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần) – thuộc Hiệp hội Tâm thần học Hoa Kỳ (American Psychiatric Association). Tài liệu này được xem là “Kinh Thánh của tâm thần học”. Lời mở đầu của bản DSM-III năm 1980 khá khiêm tốn và thừa nhận rằng hệ thống chẩn đoán này không chính xác – đến mức nó không bao giờ được sử dụng cho mục đích pháp y hoặc bảo hiểm.
⚝ ✽ ⚝
CÚ SỐC KHÔNG THỂ TRỐN THOÁTĐể làm giàu hiểu biết về stress sau sang chấn, tôi bắt đầu tham dự các cuộc họp của Hiệp hội Chuyên gia Tâm thần Dược học Hoa Kỳ (American College of Neuropsychopharmacology – ACNP).
Năm 1984, ACNP đưa ra nhiều bài thuyết giảng hấp dẫn về phát triển các loại thuốc. Khi gần sát giờ bay về Boston, tôi nghe được bài thuyết trình của Steve Maier thuộc Đại học Colorado – người đã hợp tác với Martin Seligman của Đại học Pennsylvania. Chủ đề của ông là cảm giác bất lực trong giới động vật. Maier và Seligman đã liên tục sốc điện gây đau những chú chó bị nhốt trong lồng có khóa. Họ gọi tình trạng này là “cú sốc không thể trốn thoát”.
Sau khi thực hiện một số đợt điện giật, các nhà nghiên cứu mở cửa lồng, rồi sốc điện những chú chó một lần nữa. Những chú chó chưa từng bị sốc điện liền lập tức chui ra khỏi lồng chạy trốn, nhưng những chú chó từng bị sốc điện thì chỉ nằm đó rên ư ử, không có biểu hiện gì định chui ra khỏi lồng.
Có một con đường giải thoát không có nghĩa là đối tượng bị sang chấn - dù là động vật hay con người – sẽ sẵn sàng dấn bước để chạm đến tự do. Như những chú chó trong thí nghiệm này, rất nhiều người bị sang chấn tâm lý đã chọn bỏ cuộc. Họ thà mắc kẹt trong nỗi sợ họ từng trải qua hơn là chấp nhận rủi ro khi thử nghiệm những điều mới mẻ.
Những gì các nhà khoa học đã làm với những chú chó đáng thương trong thí nghiệm này cũng chính là những gì đã xảy ra với các bệnh nhân sang chấn tâm lý của tôi. Họ cũng từng bị ai đó (hay cái gì đó) làm tổn thương khủng khiếp và họ không có cách nào để thoát ra nỗi đau ấy. Tôi nhanh chóng điểm lại trong đầu những bệnh nhân tôi từng chữa trị. Hầu như tất cả đều từng bị mắc kẹt hay bị làm cho bất động, không thể hành động để phòng ngừa điều sắp sửa xảy ra, cũng không thể chống trả hay bỏ chạy vì lý do nào đó, và hậu quả thường là họ căng thẳng tột độ hoặc gục ngã hoàn toàn.
Maier và Seligman cũng phát hiện ra rằng những chú chó bị tổn thương tâm lý tiết ra một lượng hormone của stress lớn hơn bình thường. Điều này đã hỗ trợ cho những gì chúng tôi bắt đầu tìm hiểu về cƠ SỞ sinh học của stress do sang chấn.
Một nhóm các nhà nghiên cứu trẻ tuổi, trong đó có Steve Southwick và John Krystal từ Đại học Yale, Arieh Shalev tại Trường Y Hadassah ở Jerusalem, Frank Putnam thuộc Viện Sức khỏe tâm thần quốc gia (National Institute of Mental Health - NIMH) và Roger Pitman, sau này chuyển đến Harvard, đều thấy rằng những người bị sang chấn tâm lý liên tục tiết một lượng lớn các hormone của stress sau khi mối nguy hiểm đã trôi qua. Rachel Yehuda thuộc Đại học Mount Sinai ở New York đã trao đổi với chúng tôi về những phát hiện đầy nghịch lý của cô rằng bệnh nhân mắc PTSD có lượng cortisol, một loại hormone của stress, khá thấp. Phát hiện của cô chi bắt đầu có ý nghĩa khi nghiên cứu của cô được làm sáng tỏ, rằng cortisol chấm dứt đáp ứng stress bằng cách gửi đi một tín hiệu an toàn, và trong cơ thể người bị PTSD thì những hormone gây nên đáp ứng stress lại không quay trở về mức bình thường sau khi nguy hiểm đã qua.
Hệ thống hormone của stress trong chúng ta cung cấp một phản hồi nhanh như chớp khi bị đe dọa, và nhanh chóng đưa chúng ta về trạng thái cân bằng. Tuy nhiên, đối với những bệnh nhân bị PTSD. hệ thống hormone của stress không thể thực hiện chức năng cân bằng này. Những tín hiệu chiến đấu, bỏ chạy, bất động vẫn tiếp diễn sau khi nguy hiểm đã qua và không thể quay trở lại trạng thái bình thường, như trong trường hợp của những chú chó kia. Việc liên tục tiết ra những hormone của stress khiến bệnh nhân bị kích động hoảng loạn và sẽ tàn phá sức khỏe của họ về lâu về dài.
Tôi đã trễ chuyến bay ngày hôm ấy vì phải trao đổi với Steve Maier. Hội thảo của ông đã cung cấp những đầu mối không chỉ về những vấn đề tiềm ẩn của bệnh nhân mà còn là những giải pháp hứa hẹn có thể giải quyết những vấn đề đó. Ví dụ, ông ấy và Seligman đã khám phá ra cách duy nhất để dạy những chú chó bị tổn thương tâm lý chạy thoát thân khi cửa lồng mở là ta phải liên tục lặp đi lặp lại hành động kéo chúng ra khỏi chuồng để chúng có thể trải nghiệm được cách thoát thân.
Tôi tự hỏi, liệu chúng tôi cũng có thể giúp các bệnh nhân thay đổi cái suy nghĩ rằng họ không thể làm gì để tự bảo vệ mình? Liệu các bệnh nhân của tôi có cần những trải nghiệm thể chất để khôi phục lại cảm giác có thể làm chủ bản thân? Điều gì sẽ xảy ra nếu họ học được cách chuyển động cơ thể để thoát khỏi một tình huống có khả năng đe dọa tương tự như sang chấn mà họ đã bị mắc kẹt và bị làm cho bất động? Tôi sẽ thảo luận về vấn đề này trong phần V.
Các nghiên cứu động vật liên quan đến chuột, mèo, khỉ và voi đã mang lại nhiều dữ liệu thú vị hơn. Khi các nhà nghiên cứu bất ngờ bật âm thanh lớn, những con chuột được nuôi nấng trong tổ với nhiều thức ăn sẽ vội vã chạy về nhà. Nhưng một nhóm chuột khác, lớn lên trong một cái ổ ồn ào, lương thực khan hiếm, cũng chạy về nhà, dù chúng vừa ở nơi dễ chịu hơn nhà mình".
Động vật chạy trở về nhà khi chúng sợ hãi, bất kể nhà là nơi an toàn hay đáng sợ. Tôi nghĩ về các bệnh nhân của tôi: Họ có những gia đình bạo lực nhưng họ vẫn quay về nhà và lại tiếp tục bị làm cho tổn thương. Phải chăng những người bị sang chấn tâm lý luôn cảm thấy họ phải nương tựa vào những gì quen thuộc? Nếu đúng thế thì tại sao? Và làm sao ta có thể giúp họ gắn bó với những nơi chốn và những hoạt động an toàn, vui vẻ?12
NGHIỆN KHỔ ĐAU: NỖI ĐAU CỦA KHOÁI LẠC VÀ KHOÁI LẠC CỦA NỖI ĐAU
Khi quan sát các cựu chiến binh Mỹ tham gia chiến tranh Việt Nam, một trong những điều khiến tôi và đồng nghiệp Mark Greenberg rất ngạc nhiên là vì sao mỗi khi nói về những ký ức chiến tranh kinh hoàng như tai nạn máy bay trực thăng, đồng nghiệp hấp hối thì người nào trông cũng tươi tắn, sôi nổi khác thường, cứ như “hồi sinh” vậy. (Chris Hedges, cựu phóng viên tờ New York Times, đã đề cập đến một số xung đột tàn bạo trong cuốn sách có tên War Is a Force That Gives Us Meaning? - Chiến tranh là một sức mạnh mang lại cho chúng ta ý nghĩa 3.) Nhiều người bị sang chấn dường như luôn tìm kiếm những trải nghiệm đáng sợ 4, và bệnh nhân thường xuyên phàn nàn họ dường như cảm thấy trống rỗng, buồn chán những khi họ không tức giận, không phải chịu áp lực nào đó hoặc không làm việc gì đó nguy hiểm.
Julia là một bệnh nhân của tôi. Năm 16 tuổi, cô bị đe dọa và hãm hiếp tàn bạo trong một phòng khách sạn. Ít lâu sau, cô quan hệ với một tên ma cô từng mua dâm cô. Hắn thường xuyên đánh đập Cổ. Cô đã bị bắt giam nhiều lần vì tội mại dâm, nhưng cứ ra tù là cô lại quay về với gã ma cô ấy. Cuối cùng, ông bà cô đã can thiệp và trả tiền cho Julia tham gia một chương trình phục hồi. Sau khi hoàn thành khóa điều trị nội trú, cô đi làm nhân viên tiếp tân và tham gia vài khóa học ở một trường cao đẳng. Trong lớp xã hội học, có cần viết bài luận về khả năng giải phóng tình dục, thế nên cô tìm đọc các cuốn hồi ký của những cô gái mại dâm nổi tiếng. Dần dần Julia bỏ hết các khóa học khác.
Cô có mối quan hệ ngắn ngủi với một cậu bạn cùng lớp. Sau đó, cô cứu một tên nghiện trên tàu điện ngầm về nhà. Gã này ban đầu đánh đập cổ, rồi sau đó bám riết lấy cô. Cuối cùng cô quay lại gặp tôi để được điều trị vì bị gã này đánh đập liên tục.
Freud có một thuật ngữ cho những lần tái hiện đau đớn như vậy: “the compulsion to repeat: cưỡng bức lặp lại”. Ông và nhiều người theo ông tin rằng việc tái hiện là một nỗ lực vô thức để kiểm soát và cuối cùng, có thể làm chủ và giải quyết một tình huống đau đớn. Không có bất kỳ bằng chứng nào cho giả thuyết đó cả – sự lặp đi lặp lại chỉ càng khiến nạn nhân đau khổ và càng căm ghét chính mình hơn. Trên thực tế, việc liên tục làm sống lại sang chấn trong điều trị có thể làm bệnh nhân thêm lo âu và sang chấn càng khắc sâu trong họ.
Mark Greenberg và tôi quyết định tìm hiểu thêm về những yếu tố thúc đẩy, tức những thứ thu hút chúng ta, động viên chúng ta và làm cho chúng ta cảm thấy mình còn sống. Thông thường, những điều này thường khiến chúng ta cảm thấy khá hơn. Vậy tại sao rất nhiều người bị thu hút bởi những tình huống nguy hiểm hoặc đau đớn? Cuối cùng, chúng tôi đã tìm ra một nghiên cứu giải thích vì sao những hoạt động gây ra nỗi sợ hãi và đau đớn trở thành những trải nghiệm ly kỳ'.
Trong thập niên 70, Richard Solomon ở Đại học Pennsylvania đã chỉ ra rằng cơ thể chúng ta học cách thích nghi với tất cả các kích thích. Những thứ thuốc kích thích thường khiến ta cảm thấy để mở ngay lập tức, còn những hoạt động như tắm suối nước nóng hay nhảy dù, lúc đầu có thể khiến chúng ta khó chịu và sợ hãi, nhưng dần dần có thể trở nên vô cùng lý thú. Sự điều chỉnh dần dần này cho thấy sự cân bằng hóa học mới đã được thiết lập trong cơ thể, để các vận động viên chạy marathon, chẳng hạn, có thể thấy thoải mái và vui sướng khi đẩy cơ thể của họ đến mức giới hạn.
Chuyện này cũng giống như chơi ma túy, ban đầu ta dùng ma túy, sau đó đâm nghiện, khi thiếu ma túy thì ta vật vã, thèm khát. Về lâu dài, con người dân quan tâm đến cái cảm giác đau đớn khi thiếu hoạt động nào đó hơn là chính cái hoạt động đó. Lý thuyết này có thể giải thích tại sao một số người lại thuê ai đó đánh đập mình, tự dùng thuốc lá đốt mình hoặc chỉ thích ở gần những người làm mình tổn thương. Thật ngang trái khi sợ hãi và ác cảm lại có thể biến thành khoái cảm.
Solomon đưa ra giả thuyết rằng endorphins – các chất hóa học giống như morphin mà não tiết ra khi gặp stress – có ảnh hưởng đến những loại nghiện nghịch lý mà ông mô tả. Tôi nghĩ về lý thuyết của mình một lần nữa khi thói quen hay đến thư viện của tôi dẫn tôi đến một bài báo có tựa đề Pain in Men Wounded in Battle (Nỗi đau đớn của những người bị thương trong chiến tranh) xuất bản năm 1946. Sau khi quan sát thấy 75% những người lính bị thương nặng mặt trận Ý không yêu cầu morphine, bác sĩ phẫu thuật Henry K.
Beecher cho rằng “những cảm xúc mãnh liệt có thể ngăn chặn được đau đớn”16.
Các quan sát của Beecher liệu có liên quan đến những người bị PTSD không? Mark Greenberg, Roger Pitman, Scott Orr và tôi quyết định hỏi 8 cựu chiến binh Mỹ từng chiến đấu tại Việt Nam xem họ có thể tình nguyện tham gia vào một bài kiểm tra nỗi đau không. Những người này sẽ vừa xem lại trích đoạn từ một số một bộ phim vừa giữ tay phải của mình trong một xô nước đá. Trích đoạn phim đầu tiên họ được xem thuộc bộ phim Platoon (Trung đội) (1986), gồm nhiều cảnh bạo lực đẫm máu. Chúng tôi tiến hành đo xem họ có thể giữ tay phải của họ trong xô nước đá được bao lâu. Tương tự, chúng tôi cho họ xem một đoạn phim ngắn yên bình, cũ kỹ. Kết quả khi xem đoạn phim Trung đội: 7 trong số 8 người này giữ được tay mình trong số nước đá lâu hơn 30% thời gian so với khi xem đoạn phim bình yên.
Sau đó chúng tôi tính được hàm lượng hoạt chất giảm đau sản sinh ra sau khi xem một đoạn phim chiến tranh dài 15 phút bằng với 8 miligram morphine, tức gần bằng một liều thuốc dùng cho một người được cấp cứu do đau thắt lồng ngực.
Chúng tôi kết luận rằng suy đoán của Beecher về việc “những cảm xúc mãnh liệt có thể ngăn chặn được đau đớn” là kết quả của sự sản sinh ra những chất như morphine trong não. Điều này gợi ý rằng nhiều người bị sang chấn sẽ bớt lo lắng khi tiếp xúc lại với sự căng thẳng 7. Đây là một thử nghiệm thú vị nhưng không giải thích được đầy đủ tại sao Julia lại tiếp tục quan hệ với tên ma cô bạo lực.
⚝ ✽ ⚝
LÀM DỊU NÃO BỘTại một cuộc họp ở Hiệp hội Chuyên gia Tâm thần Dược học Hoa Kỳ (American College of Neuropsychopharmacology - ACNP) vào năm 1985, giáo sư Jeffrey Gray của Đại học Kings có một bài phát biểu về hạch hạnh nhân (amygdala), một cụm tế bào não quyết \định liệu một âm thanh, hình ảnh hay một cảm giác về cơ thể có thể được coi là mối đe dọa hay không. Dữ liệu của Gray cho thấy độ nhạy của hạch hạnh nhân phụ thuộc, ít nhất là một phần, vào lượng chất dẫn truyền thần kinh serotonin trong nó. Động vật có mức serotonin thấp phản ứng quá mức với kích thích gây stress (như âm thanh lớn), trong khi mức serotonin cao làm giảm phản ứng sợ hãi, khiến chúng ít có khả năng trở nên hung hăng hoặc cứng đờ khi đối mặt với các mối đe dọa tiềm ẩn 18.
Tôi thấy đây là một phát hiện rất quan trọng: Những bệnh nhân của tôi luôn nóng giận trước những khiêu khích nhỏ nhặt, cảm thấy đau khổ tột cùng khi bị từ chối điều lặt vặt nào đó. Tôi rất quan tâm đến vai trò có thể có của serotonin trong PTSD. Các nhà nghiên cứu khác đã chỉ ra rằng những con khỉ đực chiếm ưu thế đầu đàn có lượng serotonin não cao hơn nhiều so với những con ở cấp thấp hơn, nhưng serotonin của chúng giảm mạnh khi không được tiếp xúc bằng mắt với những con khỉ mà chúng thống trị. Ngược lại, những con khỉ cấp thấp được tiêm bổ sung serotonin sẽ vươn lên trong bầy đàn và nhận trách nhiệm dẫn đầu. Môi trường xã hội tương tác với hóa học não. Cho một con khỉ vào một vị trí thấp hơn trong hệ thống cấp bậc thống trị làm giảm lượng serotonin của nó, trong khi những con khỉ cấp bậc thấp được tiêm thêm serotonin lại nâng bậc vị trí của nó trong đàn.
Ứng dụng của serotonin trong việc điều trị cho những người bị sang chấn tâm lý là quá rõ ràng. Giống những con vật có lượng serotonin thấp trong báo cáo của giáo sư Gray, họ phản ứng quá mạnh, khả năng ứng phó xã hội thường bị tổn thương. Nếu có thể tìm cách tăng mức serotonin trong não, chúng ta có thể giải quyết cả hai vấn đề cùng một lúc. Tại cuộc họp năm 1985, tôi được biết các công ty dược phẩm đang phát triển hai sản phẩm mới để phục vụ chính điều này, nhưng vì chưa sản phẩm nào sẵn sàng nên tôi đã thử nghiệm nhanh với thực phẩm chức năng có bổ sung L-tryptophan, tiền chất của serotonin trong cơ thể (Kết quả thu được thật đáng thất vọng). Một trong những loại thuốc được xem xét thì chưa bao giờ được đưa ra thị trường. Còn loại khác là fluoxetine, dưới nhãn hiệu Prozac, đã trở thành một trong những loại thuốc thần kinh thành công nhất từ trước đến nay.
Vào thứ Hai ngày 8 tháng 2 năm 1988, công ty dược phẩm Eli Lilly phát hành thuốc Prozac. Bệnh nhân đầu tiên tôi gặp ngày hôm đó là một cô gái từng bị lạm dụng tình dục khi còn bé và hiện tại đang phải vật lộn với chứng cuồng ăn. Mỗi ngày của cô thường có hai hoạt động chính là ăn vào và ói ra. Tôi kể cho cô toa thuốc mới này. Khi quay lại gặp tôi vào thứ Năm, cô ấy nói: “Những ngày gần đây tôi rất khác, tôi ăn khi đói và dành thời gian học hành”. Tôi nghe mà vui và xúc động vô cùng.
Hôm thứ Sáu, tôi gặp một bệnh nhân tôi từng kê thuốc Prozac vào thứ Hai. Cô là một bà mẹ trầm cảm kinh niên có hai con ở độ tuổi đi học, cảm thấy mình thất bại trong vai trò làm mẹ, làm vợ, cảm thấy quá căng thẳng vì không đáp ứng những đòi hỏi của bố mẹ - những người đã ngược đãi cô khi cô còn bé.
Sau bốn ngày uống Prozac, cô ấy hỏi tôi có thể hủy cuộc hẹn vào sáng thứ Hai không vì đó là Ngày Tổng thống Mỹ. Cô giải thích: “Tôi định đi trượt tuyết với các con vì trước giờ chỉ có chồng tôi làm chuyện này thôi. Tôi nghĩ đây sẽ là kỷ niệm rất vui với các con”.
Sau đó, tôi gọi điện cho một người quen ở Eli Lilly và nói: “Anh đã làm ra một loại thuốc giúp con người sống trong hiện tại mà không bị mắc kẹt trong quá khứ”.
Công ty Eli Lilly sau đó đã cho tôi một khoản tài trợ nhỏ để thực hiện nghiên cứu đầu tiên về tác động của Prozac lên PTSD ở 64 người gồm 22 phụ nữ và 42 đàn ông, trong đó có 33 bệnh nhân không phải cựu chiến binh đến từ Phòng chữa trị sang chấn và 31 người là cựu chiến binh đến từ Bộ Cựu chiến binh. Trong tám tuần lễ, một nửa số bệnh nhân của mỗi nhóm được nhận Prozac và nửa còn lại được nhận giả dược. Điều này không hề được tiết lộ: Cả chúng tôi lẫn bệnh nhân đều không biết họ đang dùng chất gì, như thế thì các định kiến sẽ không xuyên tạc đánh giá của chúng tôi.
- Mọi người trong nghiên cứu thậm chí cả những người đã nhận được giả dược đều có cải thiện, ít nhất ở mức độ nào đó. Hầu hết các nghiên cứu điều trị về PTSD đều cho thấy hiệu quả giả dược đáng kể. Những người dũng cảm tham gia vào một nghiên cứu mà không được trả tiền, thường bị ống tiêm găm vào người trong quá trình nghiên cứu, mà chỉ có cơ hội 50-50 được sử dụng thuốc có hiệu lực, đều có động cơ tiềm ẩn để giải quyết vấn đề của họ. Có lẽ phần thưởng của họ chỉ là sự quan tâm, cơ hội được trả lời những câu hỏi về cảm giác và suy nghĩ của họ. Giống như nụ hôn của người mẹ làm dịu vết xước của đứa trẻ cũng là một loại giả dược vậy.
Đối với nhóm bệnh nhân không phải cựu chiến binh, thuốc Prozac có hiệu quả đáng kể hơn so với giả dược. Họ ngủ ngon hơn; họ kiểm soát cảm xúc tốt hơn và ít bận tâm về quá khứ hơn so với những người được uống giả dược”. Điều đáng ngạc nhiên là Prozac lại không có tác dụng gì đối với nhóm cựu chiến binh – các triệu chứng PTSD của họ không thay đổi. Những kết quả này cũng đúng đối với hầu hết các nghiên cứu dược học tiếp theo được thực hiện trên cựu chiến binh: Trong khi một số ít cho thấy sự cải thiện ít ỏi, phần lớn các đối tượng lại không có cải thiện gì. Tôi chưa bao giờ có thể giải thích được điều này và tôi không thể chấp nhận lời giải thích phổ biến nhất: Việc nhận trợ cấp hưu trí hoặc trợ cấp tàn tật đã ngăn cản quá trình cải thiện của họ. Xét cho cùng, hạch hạnh nhân không biết gì về lương hưu – nó chỉ phát hiện các mối đe dọa.
Tuy nhiên, các loại thuốc như Prozac và thuốc có liên quan như Zoloft, Celexa, Cymbalta và Paxil đã có những đóng góp đáng kể cho việc điều trị rối loạn liên quan đến sang chấn tâm lý. Trong nghiên cứu Prozac của chúng tôi, chúng tôi đã sử dụng trắc nghiệm Rorschach để đo lường mức độ nhận thức môi trường xung quanh của những người bị sang chấn. Những dữ liệu này đã cho chúng tôi một đầu mối quan trọng để hiểu cách thức hoạt động của loại thuốc này được biết đến như là các chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc - selective serotonin reuptake inhibitors hay SSRIs). Trước khi dùng Prozac, các bệnh nhân thường hành động theo cảm xúc. Prozac giúp các bệnh nhân PTSD kiểm soát đáng kể những cảm xúc, những cơn bốc đồng của mình”. Jeffrey Gray hẳn đã đúng khi nói rằng nhiều bệnh nhân của mình đã ít “manh động” hơn khi mức serotonin tăng lên (serotonin là chất có khả năng giúp cải thiện tâm trạng).
⚝ ✽ ⚝
NHỮNG THÀNH TỰU CỦA DƯỢC HỌCCuộc cách mạng dược phẩm mang lại nhiều lợi ích nhưng cũng đồng thời gây ra nhiều tổn hại. Lý thuyết cho rằng nguyên nhân chủ yếu gây ra bệnh tâm thần là do sự mất cân bằng hóa học trong não, các loại thuốc đặc trị đã được các phương tiện truyền thông, công chúng và cả những người làm nghề y chấp nhận rộng rãi có thể điều chỉnh sự mất cân bằng này”.
Tại nhiều nơi, thuốc được dùng để thay thế cho các liệu pháp điều trị, có thể giúp các bệnh nhân dần ổn định hơn nhưng không thể giải quyết tận gốc các vấn đề sâu xa. Thuốc chống trầm cảm có thể thích hợp để giải quyết tạm thời một số vấn đề trước mắt, như giúp bệnh nhân ngủ được vài tiếng mà không cần thuốc ngủ hay uống rượu. Với những bệnh nhân đang chật vật, mệt mỏi khi phải tự lực cánh sinh chiến đấu với những cảm xúc của mình bằng cách tập yoga, tập thể dục hằng ngày thì các loại thuốc có thể là “phao cứu sinh”. Các SSRIs có thể rất hiệu quả khi giúp những người bị sang chấn ít phụ thuộc vào cảm xúc hơn, nhưng thuốc chỉ nên được xem là yếu tố phụ trợ trong việc điều trị tổng thể cho bệnh nhân.
Sau khi tiến hành nhiều nghiên cứu về thuốc chữa trị PTSD, tôi nhận ra các loại thuốc tâm thần có một nhược điểm nghiêm trọng: Chúng có thể khiến chúng ta không tập trung giải quyết các vấn đề Cơ bản.
Nếu thuốc chống trầm cảm thực sự có hiệu quả kỳ diệu như ta tưởng thì bây giờ bệnh trầm cảm đã trở thành chuyện nhỏ rồi! Trên thực tế, dù số người dùng thuốc chống trầm cảm tiếp tục tăng thì số bệnh nhân trầm cảm chẳng giảm xuống là bao. Số người điều trị chứng trầm cảm đã tăng gấp ba lần trong hai thập kỷ qua, và 1/10 người Mỹ hiện đang dùng thuốc chống trầm cảm.
Các loại thuốc chống loạn thần thế hệ mới như Ability, Risperdal, Zypreva, Seroquel đang bán rất chạy ở Mỹ. Vào năm 2012, dân chúng đã chi hơn 1,5 tỷ đô-la Mỹ cho Abilify, nhiều hơn bất kỳ loại thuốc nào khác. Đứng hàng thứ ba là Cymbalta, một loại thuốc chống trầm cảm có doanh thu hơn một tỷ đô-la 25, mặc dù Cymbalta chưa bao giờ được chứng tỏ là có hiệu quả cao hơn những thuốc chống trầm cảm thế hệ cũ như Prozac. Medicaid, chương trình chăm sóc sức khỏe của chính phủ Hoa Kỳ dành cho người nghèo, chi nhiều tiền cho thuốc chống loạn thần hơn bất kỳ loại thuốc nào khác 26. Vào ngày 4 tháng 11 năm 2013, Johnson & Johnson đã đồng ý nộp phạt hơn 2,2 tỷ đô-la để giải quyết các cáo buộc họ đã quảng cáo không đúng thuốc Risperdal cho người cao tuổi, trẻ em và người khuyết tật”. Nhưng chẳng ai bắt các bác sĩ kê toa chịu trách nhiệm cả.
Gần nửa triệu trẻ em ở Mỹ hiện đang dùng thuốc chống loạn thần. Trẻ em từ các gia đình có thu nhập thấp có khả năng nhận được các loại thuốc chống loạn thần nhiều hơn gấp 4 lần. Những loại thuốc này thường được sử dụng để làm cho trẻ em bị lạm dụng và bị bỏ rơi trở nên dễ bảo hơn. Trong năm 2008, có 19.045 trẻ em từ năm tuổi trở lên đã được Medicaid kê đơn thuốc chống loạn thần 28.
Một nghiên cứu, dựa trên dữ liệu Medicaid ở 13 tiểu bang, phát hiện rằng 12,4% trẻ em được nhận nuôi được cho thuốc chống loạn thần so với 1,4% trẻ em đủ điều kiện được Medicaid điều trị nói chung”.
Các loại thuốc chống loạn thần làm cho trẻ em dễ quản lý hơn và ít gây hấn hơn, nhưng chúng cũng ảnh hưởng đến động lực, khả năng vui chơi, tò mò, vốn là những điều trẻ cần có để trở thành người có ích, đóng góp cho xã hội. Trẻ em dùng những loại thuốc này cũng có nguy cơ bị béo phì và tiểu đường. Thêm nữa, ngày càng có nhiều ca dùng quá liều cùng lúc thuốc tâm thần và thuốc giảm đau.
Vì lợi nhuận của các loại thuốc quá lớn nên các tạp chí y khoa lớn hiếm khi đăng các nghiên cứu về cách điều trị không dùng thuốc cho những vấn đề về sức khỏe tâm thần. Các nghiên cứu về cách điều trị tâm thần không dùng thuốc cũng hiếm khi được tài trợ.
SỰ THÍCH NGHI HAY LÀ BỆNH TẬT?
Các chẩn đoán về bệnh lý ở não bỏ qua bốn chân lý cơ bản:
(1) Khả năng như nhau ở con người trong việc tiêu diệt lẫn nhau và chữa lành cho nhau. Cốt lõi của việc phục hồi chính là phục hồi các mối quan hệ với cộng đồng.
(2) Chúng ta có thể thay đổi bản thân và thay đổi những người khác bằng cách dùng ngôn ngữ để truyền đạt những kinh nghiệm, giúp xác định điều chúng ta biết và tìm ra ý nghĩa chung:
(3) Chúng ta có khả năng điều hòa sinh lý của chính mình, bao gồm cả những chức năng tự nhiên của cơ thể và não, thông qua các hoạt động cơ bản như thở, vận động và xúc giác;
(4) Chúng ta có thể thay đổi các điều kiện xã hội để tạo ra những môi trường an toàn và thuận lợi cho trẻ em và người lớn phát triển.
Khi bỏ qua những khía cạnh tinh túy này của con người tức là ta đã tước đoạt khả năng chữa lành và khôi phục lại tính tự chủ của các bệnh nhân. Khi xem bệnh nhân chỉ là bệnh nhân chứ không phải là người tham gia vào quá trình chữa lành của chính mình, thì ta sẽ tách biệt những con người đang đau khổ ấy ra khỏi cộng đồng của chính họ và cách ly họ khỏi sự tự ý thức từ bên trong. Khi nhận ra những hạn chế của các loại thuốc chữa trầm cảm, tôi bắt đầu tự hỏi liệu chúng ta có thể tìm ra những cách nào khác, tự nhiên hơn, để giúp mọi người giải quyết các phản ứng hậu sang chấn của họ không?