← Quay lại trang sách

Chương 3 NHÌN SÂU VÀO BỘ NÃO: CUỘC CÁCH MẠNG KHOA HỌC THẦN KINH

Giá như chúng ta có thể nhìn xuyên hộp sọ vào trong não của một người đang suy nghĩ CÓ ý thức, và nếu vùng não bị kích thích tối ưu đang phát sáng, chúng ta sẽ thấy trên bề mặt não có một điểm sáng với những dải sáng uốn lượn tuyệt vời, liên tục thay đổi về kích thước và hình dạng, và phần còn lại của bán cầu não thì tối đen, đậm hoặc nhạt.

Ivan Pavlov

Khi quan sát, bạn sẽ thấy được nhiều điều.

– Yogi Berra

Những kỹ thuật chụp não đầu thập niên 1990 đã giúp chúng ta hiểu hơn về cách não bộ xử lý thông tin. Chụp hình cắt lớp Positron (Positron emission tomography - PET), chụp cộng hưởng từ chức năng (functional magnetic resonance imaging fMRI) đã giúp các nhà khoa học nhận ra những phần khác nhau của não hoạt động như thế nào khi con người làm các công việc nhất định hoặc khi họ nhớ lại những chuyện trong quá khứ.

Lần đầu tiên chúng ta có thể quan sát bộ não khi xử lý những ký ức, cảm giác và cảm xúc, để bắt đầu vẽ nên bản đồ nhận thức và tâm trí của con người. Các công nghệ đo hóa chất trong não trước đó như serotonin hoặc norepinephrine đã cho phép các nhà khoa học xem xét những gì thúc đẩy hoạt động thần kinh, khá giống với việc cố gắng để hiểu được động cơ của một chiếc xe bằng cách nghiên cứu xăng. Chụp ảnh thần kinh giúp quan sát được động cơ bên trong. Điều này cũng đã thay đổi những hiểu biết trước kia của chúng ta về sang chấn tâm lý.

Trường Y Harvard đã và đang đi đầu trong cuộc cách mạng khoa học thần kinh. Năm 1994, Scott Rauch – một bác sĩ tâm thần – được bổ nhiệm làm giám đốc đầu tiên của Khoa chẩn đoán hình ảnh thần kinh của Bệnh viện Đa khoa Massachusetts. Sau khi đọc một số bài viết của tôi, Scott hỏi liệu chúng tôi có thể nghiên cứu những gì xảy ra trong bộ não của những người đang hồi tưởng lại hay không.

Tôi đã làm một nghiên cứu về việc con người ghi nhớ những sang chấn như thế nào (xem chương 12). Nhiều bệnh nhân liên tục nói họ rất đau khổ khi trí óc đột ngột tràn ngập những hình ảnh, cảm xúc và âm thanh từ quá khứ. Khi một vài người nói rằng họ muốn biết bộ não của họ đang giở trò gì trong những lần hồi tưởng quá khứ ấy, tôi đã hỏi 8 người trong số đó rằng họ có sẵn sàng trở lại phòng khám và nằm trong máy quét trong khi tôi tái tạo một cảnh từ những sự kiện đau đớn ám ảnh họ hay không. Thật ngạc nhiên, cả 8 người đều đồng ý, nhiều người trong số này còn bày tỏ hy vọng những gì chúng tôi nghiên cứu được từ nỗi đau của họ có thể giúp đỡ những người khác.

Trợ lý nghiên cứu của tôi, Rita Fisler, đã làm việc với từng người tham gia và tỉ mỉ xây dựng một kịch bản để tái tạo những sang chấn của họ từng khoảnh khắc một. Chúng tôi cố gắng thu thập những “mảnh” riêng biệt của từng trải nghiệm chứ không phải toàn bộ câu chuyện: những hình ảnh, âm thanh và cảm xúc cụ thể.

Rita cũng yêu cầu những người tham gia mô tả một cảnh mà họ cảm thấy mình an toàn và tự chủ. Có người mô tả những thói quen của mình vào buổi sáng, có người tả cảnh mình ngồi ở hiên nhà nhìn ra những ngọn đồi. Chúng tôi sử dụng những mô tả này cho lần quét thứ hai để có cơ sở đối chiếu.

Sau khi những người tham gia học thẩm để kiểm tra tính chính xác của kịch bản (đọc thầm giúp họ bớt xúc động hơn so với phải nghe người khác đọc hay tự đọc to lên), Rita thu âm nội dung kịch bản để phát cho họ nghe khi nằm trong máy quét.

Một kịch bản điển hình như sau: Bạn sáu tuổi, một tối nọ, bạn chuẩn bị đi ngủ thì nghe thấy tiếng bố mẹ cãi nhau ầm ĩ. Bạn sợ hãi, bụng quặn thắt lại. Bạn và đứa em trai, em gái nhỏ nép người ở đầu cầu thang quan sát bố mẹ. Bạn nhìn qua lan can, thấy bố túm tay mẹ, còn mẹ thì cố gắng vùng ra. Mẹ khóc lóc, nhổ nước bọt, rít lên như quái vật. Mặt bạn đỏ bừng, thấy toàn thân nóng ran lên. Khi mẹ thoát khỏi tay bố, mẹ lao vào phòng ăn, đập vỡ một cái bình hoa bằng sứ rất đắt tiền. Bạn thét lên, cầu xin bố mẹ hãy ngừng lại nhưng họ phớt lờ. Mẹ bạn chạy lên cầu thang rồi đập bể cái tivi. Hai đứa em của bạn cố kéo mẹ trốn vào tủ quần áo. Tim bạn đập nhanh, toàn thân run cầm cập.

Trong buổi đầu tiên, chúng tôi giải thích mục đích của khí oxy phóng xạ mà người tham gia sẽ thở: Khi bất kỳ bộ phận nào của não có hoạt động trao đổi chất mạnh lên hoặc yếu đi thì tỷ lệ tiêu hao oxy sẽ thay đổi ngay lập tức, máy quét sẽ ghi nhận những số liệu này. Chúng tôi cũng theo dõi huyết áp và nhịp tim của người đó trong suốt quá trình để so sánh các dấu hiệu sinh lý này với hoạt động của não.

Vài ngày sau, những người tham gia đến phòng thí nghiệm để tiến hành quét não. Tình nguyện viên đầu tiên là Marsha, một giáo viên 40 tuổi. Đoạn băng ghi âm được bật lên, đưa cô trở lại ngày kinh hoàng của 13 năm về trước. Hôm ấy, cô đến đón con gái 5 tuổi

Melissa đi cắm trại về. Trong lúc lái xe, Marsha nghe tiếng bíp bíp liên tục, báo hiệu rằng dây an toàn của bé Melissa chưa cài đúng. Khi nghiêng người về sau để chỉnh lại dây an toàn cho con gái, cô vượt đèn đỏ. Một chiếc xe khác húc mạnh vào mạn phải xe của cô, khiến bé Melissa chết ngay lập tức. Thai nhi 7 tháng tuổi trong bụng cô cũng qua đời.

Chỉ sau một đêm, Marsha từ một phụ nữ vui vẻ, luôn là hoạt náo viên trong tất cả các bữa tiệc đã trở thành một người bị trầm cảm, ám ảnh, luôn tự trách móc bản thân. Vì không thể tiếp tục đối diện với trẻ em nên cổ ngừng đứng lớp, chuyển sang làm việc trong ban quản trị của trường. Như nhiều bậc cha mẹ đã mất con, Cô bị kích động mạnh khi nghe tiếng cười hạnh phúc của trẻ thơ. Vì muốn quên đi vết thương lòng, cô làm việc điên cuồng ngày đêm, nhưng nỗi đau vẫn thỉnh thoảng giày vò Cô.

Tôi đứng bên ngoài máy quét, có thể theo dõi các phản ứng sinh lý của Marsha trên màn hình máy tính. Ngay khi chúng tôi vừa mở đoạn băng ghi âm kể lại câu chuyện tai nạn giao thông đau thương năm xưa, tim cô bắt đầu đập nhanh, huyết áp tăng vọt. Chỉ cần nghe đoạn ghi âm cũng đã kích hoạt những phản ứng sinh lý tương tự như khi cô gặp tai nạn 13 năm trước đó.

Sau khi kịch bản thu âm kết thúc, nhịp tim và huyết áp của Marsha trở lại bình thường. Chúng tôi phát đoạn băng ghi âm thứ hai với nội dung ra khỏi giường và đánh răng, lần này nhịp tim và huyết áp của cô không thay đổi.

Khi rời khỏi máy quét, cô Marsha trông rất thảm hại, tiều tụy và đông cứng người. Nhịp thở nông, hai mắt mở to và đôi vai co lại – đây chính là những biểu hiện của sự dễ tổn thương, không thể tự vệ. Chúng tôi cố gắng an ủi cô. Tôi tự hỏi bất kể điều gì chúng tôi khám phá được liệu có đáng với nỗi khổ tâm cô đang chịu đựng hay không?

Sau khi tất cả 8 người tham gia đã hoàn thành quá trình quét não, Scott Rauch đã làm việc với các nhà toán học và thống kê để lập nên những hình ảnh tổng hợp, so sánh sự kích động do hồi ức gây ra với bộ não khi ở trạng thái trung lập. Sau vài tuần, anh gửi cho tôi kết quả mà bạn thấy trong hình bên dưới. Tôi nghiền ngẫm nó mỗ tối trong suốt vài tháng, chẳng khác nào một nhà thiên văn học say sưa ngắm nhìn một chòm sao mới phát hiện qua kính viễn vọng.

Có một số điểm và màu sắc khó hiểu trên bức hình, nhưng vùng não bị kích hoạt mạnh nhất – một điểm màu đỏ lớn ở hạ trung tâm não phải, là vùng limbic, hay còn gọi là não cảm xúc – không có gì đáng ngạc nhiên. Chúng ta biết rõ những cảm xúc mãnh liệt kích hoạt hệ viền, đặc biệt là hạch hạnh nhân (amygdala), một phần của hệ viền (limbic system). Chúng ta phụ thuộc vào hạch hạnh nhân đe cảnh báo chúng ta về mối nguy hiểm sắp xảy ra và kích hoạt phản ứng stress của cơ thể. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng khi những người bị sang chấn tâm lý được tiếp xúc với hình ảnh, âm thanh hoặc những ý nghĩ liên quan đến kinh nghiệm đặc biệt của họ, hạch hạnh nhân phản ứng lại với báo động, thậm chí, như trong trường hợp của Marsha, là tận 13 năm sau sự kiện. Sự kích hoạt của trung tâm sợ hãi này sẽ phóng thích ồ ạt các hormone của stress và xung thần kinh làm tăng huyết áp, nhịp tim và lượng oxy hấp thụ của cơ thể nhằm chiến đấu hoặc chạy trốn. Các máy đo gắn ở cánh tay Marsha ghi lại trạng thái sinh lý của sự kích thích dữ dội này, mặc dù cô vẫn nhận thức được mình đang nằm lặng lẽ trong máy quét.

⚝ ✽ ⚝

NỖI KINH HOÀNG THẦM LẶNG

Phát hiện đáng kinh ngạc nhất của chúng tôi là một đốm trắng thùy trán trái của vỏ não, trong một vùng gọi là Broca. Trong trường hợp có sự thay đổi màu sắc nghĩa là đã có sự suy giảm hoạt động đáng kể trong phần não đó. Vùng Broca là một trong những trung tâm thành lập từ và phát âm của não, thường bị ảnh hưởng ở những bệnh nhân bị đột quỵ khi nguồn cung cấp máu lên phần não này bị chặn lại. Khi vùng Broca không hoạt động, bạn không thể diễn giải những suy nghĩ và cảm xúc thành lời. Những hình quét của chúng tôi cho thấy vùng Broca hoàn toàn bị tắt mỗi khi có một hồi ức nào đó bị kích hoạt. Nói cách khác, chúng ta đã có bằng chứng trực quan cho thấy những ảnh hưởng của sang chấn không nhất thiết phải khác biệt – và có thể chồng chéo – với ảnh hưởng từ các tổn thương thể chất như đột quỵ.

Mọi sang chấn tâm lý đều câm lặng. Trong những điều kiện khắc nghiệt, người ta có thể hét lên những lời tục tĩu, cầu cứu mẹ, gào thét, hoặc đơn giản là câm lặng. Nạn nhân của các vụ tấn công và tai nạn ngồi câm lặng trong phòng cấp cứu, trẻ em bị tổn thương thường “mất ngôn ngữ”, không muốn nói chuyện. Các bức ảnh chụp những người lính thường có hình ảnh những người đàn ông nhìn chằm chằm vào hư không với đôi mắt vô hồn.

Ngay cả nhiều năm về sau, những người bị sang chấn thường rất khó có thể kể cho người khác nghe về những điều khủng khiếp \đã xảy ra với họ. Cơ thể của họ tái trải nghiệm những cơn khủng hoảng, thịnh nộ và buông xuôi, cũng như cảm giác bị thúc đẩy phải chiến đấu hoặc bỏ chạy, nhưng những cảm giác này hầu như không thể nói thành lời. Bản chất của sang chấn là khiến chúng ta không thật hiểu chuyện gì đã xảy ra, khiến chúng ta “đánh mất ngôn ngữ”.

Song, điều này không có nghĩa tất cả những người bị sang chấn đều không thể nói về bi kịch đã xảy ra với họ. Sớm muộn gì thì họ cũng sẽ kể câu chuyện của mình để lý giải cho những triệu chứng và hành vi của họ. Tuy nhiên, những câu chuyện này hiếm khi lột tả hết trải nghiệm thực sự của người trong cuộc. Rất khó sắp xếp mạch lạc những trải nghiệm đau thương của một con người, nghĩa là rất khó có thể tạo dựng một câu chuyện có đầy đủ ba phần mở đầu, diễn biến và kết thúc. Ngay cả Ed Murrow - phóng viên dày dạn và nổi tiếng của đài CBS - cũng phải rất nỗ lực mới truyền đạt những hành động tàn bạo mà ông chứng kiến trong trại tập trung Buchenwald của Đức Quốc xã được giải phóng vào năm 1945: “Tôi mong rằng các bạn sẽ tin những gì tôi nói. Tôi đưa tin lại những gì tôi đã thấy và nghe được, nhưng chỉ một phần thôi. Vì phần lớn những điều còn lại tôi không có lời nào để diễn tả”.

Khi lời nói trở nên vô dụng thì những hình ảnh đáng sợ của trải nghiệm sẽ lên ngôi, biến thành những cơn ác mộng và hồi tưởng. Trái với sự bất hoạt của vùng Broca, một khu vực khác của những người tham gia, vùng 19 của Brodmann, lại sáng lên. Đây là một vùng trong vỏ não thị giác ghi nhận hình ảnh lần đầu tiên lưu vào não. Chúng tôi rất ngạc nhiên khi thấy khu vực này của não còn hoạt động rất lâu sau lần trải nghiệm sang chấn ban đầu. Dưới điều kiện bình thường, các hình ảnh nguyên bản được ghi nhận trong khu vực 19 được phân tán nhanh chóng tới các vùng não khác nhằm giải thích ý nghĩa của những gì đã được nhìn thấy. Một lần nữa, chúng ta lại chứng kiến một vùng não lại sáng lên như thể tình huống gây sang chấn đang thật sự diễn ra.

Khi đọc chương 12, thảo luận về trí nhớ, bạn đọc sẽ thấy các mảnh cảm giác chưa được xử lý khác như âm thanh, mùi và cảm giác vật lý - cũng được ghi nhận riêng biệt với chính câu chuyện. Những cảm giác tương tự thường khiến bệnh nhân hồi tưởng lại sống động chuyện ngày xưa, cứ như thể đang sống ngay trong câu chuyện đó.

⚝ ✽ ⚝

CHUYỂN HƯỚNG SANG MỘT BÊN CỦA BÁN CẦU NÃO

Những hình chụp não bộ cũng tiết lộ rằng, trong quá trình hội tưởng, não của các đối tượng trong thí nghiệm của chúng tôi chỉ sáng lên ở bên phải. Ngày nay, có rất nhiều tài liệu khoa học phổ biến về sự khác biệt giữa não phải và trái. Đầu những năm 1990, tôi nghe nói một số người bắt đầu phân chia thế giới thành những người não trái (người có lý trí, hợp lý) và những người não phải (người theo trực giác, nghệ thuật), nhưng tôi không chú ý nhiều đến ý tưởng này. Tuy nhiên, những hình chụp của chúng tôi cho thấy rõ rằng những hình ảnh của sang chấn trong quá khứ kích hoạt bán cầu não phải trong khi lại vô hiệu hóa bán cầu não trái.

Giờ đây, chúng ta đã biết rằng hai bán cầu não của con người không giống nhau. Bên phải là trực quan, cảm xúc, thị giác, không gian, xúc giác; và bên trái là ngôn ngữ, trình tự và phân tích. Trong khi nửa bán cầu não trái đảm nhiệm chức năng trò chuyện thì nửa bán cầu não phải mang âm hưởng của trải nghiệm, nó giao tiếp thông qua các biểu hiện trên khuôn mặt, ngôn ngữ cơ thể, và bằng âm thanh của tình yêu và nỗi buồn: khóc, khiêu vũ hoặc bắt chước. Não phải là bán cầu não đầu tiên phát triển trong bào thai, và nó mang theo giao tiếp phi ngôn ngữ giữa mẹ với trẻ sơ sinh. Bán cầu não trái hoạt động khi trẻ bắt đầu hiểu ngôn ngữ và học cách nói chuyện. Điều này cho phép trẻ đặt tên mọi thứ, so sánh chúng, hiểu mối tương quan giữa chúng và bắt đầu truyền đạt những trải nghiệm độc đáo, chủ quan của trẻ cho người khác nghe.

Hai bán cầu não cũng xử lý những dấu ấn của quá khứ theo những cách hoàn toàn khác biệt nhau”. Bán cầu não trái nhớ lại các sự kiện, số liệu thống kê và từ vựng chỉ các sự kiện. Chúng ta cần nó để giải thích và sắp xếp những trải nghiệm. Bán cầu não phải lưu trữ những kỷ niệm về âm thanh, va chạm, mùi hương và cảm xúc mà chúng gợi lên. Nó phản ứng tự động với tiếng nói, nét mặt, cử chỉ và nơi chốn từng trải nghiệm trong quá khứ. Những gì nó gợi nhớ lại cảm giác như đó là sự thật trực quan – là bản chất của mọi thứ. Ngay cả khi chúng ta liệt kê những đức tính của một người thân với một người bạn, cảm xúc của chúng ta có thể được khuấy động sâu sắc hơn bởi vì gương mặt cô ấy gọi cho chúng ta nhớ về người dì thân thương của chúng ta hồi năm 4 tuổi.

Trong những tình huống thông thường, hai bên bán cầu não hoạt động liên kết nhuần nhuyễn với nhau không ít thì nhiều, ngay cả đối với những người nói rằng họ thường thiên về một bên não hơn bên kia. Tuy nhiên, nếu có một bên ngưng hoạt động, thậm chí chỉ là tạm thời, hoặc có một bên não bị cắt đứt hoàn toàn (điều này thông thường xảy ra trong giai đoạn đầu của những ca mổ não) sẽ khiến não bộ bị vô hiệu hóa.

Não trái ngưng hoạt động khiến các trải nghiệm không thể sắp xếp theo trật tự, các cảm xúc và nhận thức không thể diễn giải được thành lời. Không có sự sắp xếp đó, chúng ta không tài nào nhận diện được nguyên nhân và kết quả, không nắm bắt được những hệ quả lâu dài do hành động của chúng ta mang lại, cũng không lập được những kế hoạch chặt chẽ cho tương lai. Những người đau khổ cùng cực thường nói rằng họ như đang “phát điên”. Theo nghĩa chuyên môn là họ đang gặp phải tình trạng mất chức năng điều hành.

Khi cái gì đó gợi nhớ cho người bị tổn thương về chuyện quá khứ, não phải của họ phản ứng như thể sự kiện gây sang chấn đang diễn ra trong hiện tại. Nhưng vì não trái của họ không hoạt động tốt, họ có thể không nhận thức được rằng họ đang tải trải nghiệm và tái hiện lại quá khứ – họ chỉ nổi nóng, sợ hãi, tức giận, xấu hổ hoặc cứng đờ người lại. Khi cơn bão cảm xúc qua đi, họ sẽ tìm kiếm cái gì đó hoặc ai đó để đổ lỗi. Họ hành xử như vậy chỉ vì bạn trễ hẹn 10 phút, vì bạn làm cháy khoai tây hoặc vì bạn “chẳng bao giờ nghe lời tôi”. Tất nhiên, hầu hết chúng ta đều từng hành xử như vậy, nhưng khi bớt nóng giận, chúng ta hy vọng có thể thừa nhận lỗi lầm của mình. Những người bị sang chấn thường không nhận thức được như vậy. Các nghiên cứu đã lý giải được hiện tượng này.

⚝ ✽ ⚝

MẮC KẸT GIỮA CHIẾN ĐẤU HAY CHẠY TRỐN

Chúng tôi dần dần hiểu những gì xảy ra với Marsha trong máy quét. Dù bi kịch của cô đã xảy ra cách đây 13 năm nhưng ký ức của cô vẫn còn lưu trữ nó. Khi có lại những cảm giác về âm thanh, hình ảnh kinh hoàng năm xưa, hệ thống báo động của cô bị kích hoạt, khiến cô phản ứng như thể lúc cô nhận được hung tin con gái mình đã chết. Khoảng thời gian 13 năm không có ý nghĩa gì cả. Nhịp tim, huyết áp của cô tăng vọt cho thấy cơ thể cô đang báo động điên cuồng.

Adrenaline là một trong những hormone quan trọng giúp chúng ta chiến đấu hoặc chạy trốn khi gặp nguy hiểm. Adrenaline tăng lên làm nhịp tim và huyết áp của những người tham gia tăng vọt khi họ nghe câu chuyện gây sang chấn của mình. Trong điều kiện bình thường, con người phản ứng với mối đe dọa bằng sự gia tăng tạm thời các hormone của stress. Ngay khi mối đe dọa kết thúc, các hormone tiêu tan và cơ thể trở lại bình thường. Ngược lại, các hormone của stress ở người bị sang chấn mất nhiều thời gian hơn để quay trở về mức bình thường cũng như chúng bị tăng đột ngột và không cân xứng khi đáp ứng với các kích thích căng thẳng nhẹ. Tác động xấu từ sự gia tăng liên tục các hormone của stress bao gồm các vấn đề về bộ nhớ và sự chú ý, dễ cáu gắt và rối loạn giấc ngủ. Chúng cũng gây ra các vấn đề sức khỏe lâu dài, tùy thuộc vào hệ thống cơ thể dễ bị tổn thương nhất của từng người.

Bây giờ, chúng ta biết có thể còn một phản ứng nữa khi đối mặt với mối đe dọa, mà phương pháp quét não vẫn chưa thể đo được. Một số người đơn giản rơi vào trạng thái phủ nhận: Cơ thể họ ghi nhận mối đe dọa, nhưng tâm trí vẫn tiếp tục hoạt động như thế chẳng có gì xảy ra. Tuy nhiên, mặc dù tâm trí có thể học cách phát là những thông điệp từ bộ não đầy cảm xúc, nhưng các tín hiệu báo động không dừng lại. Phần não đa cảm tiếp tục hoạt động, và những hormone của stress vẫn tiếp tục gửi tín hiệu đến các cơ bắp khiến chúng căng lên để chuẩn bị hành động, hoặc bất động rồi sụp đổ hoàn toàn. Các ảnh hưởng thể chất trên các cơ quan không suy giảm cho đến khi chúng nhận được thông báo là chúng đang biểu hiện như bệnh lý. Các loại thuốc, ma túy và rượu cũng có thể tạm thời làm dịu đi hoặc xóa bỏ những cảm giác và cảm xúc mà người bị sang chấn không thể chịu đựng được, nhưng bộ não họ vẫn tiếp tục lưu giữ các thông tin về tình huống sang chấn ấy.

Chúng ta có thể diễn giải những gì xảy ra với Marsha trong máy quét từ nhiều góc nhìn khác nhau, mỗi góc nhìn đều ẩn chứa phương pháp điều trị. Chúng ta có thể tập trung vào những gián đoạn rõ rệt về hóa học thần kinh cũng như sinh lý, và chứng minh rằng cô ấy đang chịu ảnh hưởng từ sự tái kích hoạt tình trạng mất cân bằng sinh hóa mỗi khi cô ấy bị gợi nhớ về cái chết của con gái mình. Từ đó, chúng ta có thể tìm ra một loại thuốc hay kết hợp nhiều loại thuốc để làm giảm những phản ứng hoặc, khả quan nhất, giúp khôi phục sự cân bằng hóa học trong cơ thể của cô. Dựa trên kết quả thu được từ máy quét, một vài đồng nghiệp của tôi ở Bệnh viện Đa khoa Massachusetts tiến hành nghiên cứu những loại thuốc có thể giúp bệnh nhân ít phản ứng hơn khi lượng adrenaline tăng lên.

Chúng ta cũng có thể suy luận rằng Marsha nhạy cảm quá mức với ký ức. Cách điều trị tốt nhất cho cô là áp dụng một số hình thức giải mẫn cảm (desensitization)*. Sau nhiều lần lặp lại chi tiết của tình huống gây sang chấn với một nhà trị liệu, những phản ứng sinh học của cô có thể trở nên câm lặng, từ đó, cô có thể nhận ra và nhớ rằng “đó là quá khứ, còn đây là hiện tại” hơn là tái hiện đi tái hiện lại trải nghiệm đó.

Hơn 100 năm qua, các sách giáo khoa về tâm lý học và trị liệu tâm lý đều khuyên rằng một số phương pháp trò chuyện về những cảm nhận buồn phiền có thể hiệu quả. Tuy nhiên, như chúng ta đã thấy, chính trải nghiệm sang chấn đã ngăn chặn điều này. Cho dù chúng ta có biết hay thấu hiểu nhiều đến nhường nào, phần não duy lý, về cơ bản, hoàn toàn mất khả năng kéo phần não đa cảm ra khỏi thực tại của nó. Tôi liên tục ngạc nhiên khi thấy các bệnh nhân rất khó khăn khi cố gắng diễn đạt bản chất trải nghiệm của họ. Họ dễ dàng kể về những gì đã xảy đến với họ, kể một câu chuyện về nạn nhân và thù hận hơn là nhận thấy, cảm nhận và nói lên sự thật về trải nghiệm sâu thẳm trong họ.

Những hình chụp bộ não bị sang chấn đã cho thấy nỗi sợ hãi của họ đã tồn tại và có thể bị kích hoạt bằng nhiều khía cạnh trong những trải nghiệm cuộc sống hằng ngày. Họ không thể tích hợp những trải nghiệm này vào dòng chảy cuộc đời họ. Họ cứ tiếp tục “ở đó” và không biết làm thế nào để “ở đây”, tức thực sự sống trong thực tại.

Ba năm sau khi tham gia nghiên cứu của chúng tôi, Marsha trở thành bệnh nhân của tôi. Tôi đã chữa trị cho cô ấy thành công bằng EMDR (xem chương 15).