← Quay lại trang sách

Chương 14 NGÔN NGỮ: ĐIỀU KỲ DIỆU VÀ SỰ BẢO TÀN

Hãy để nỗi buồn cất tiếng nỗi buồn thầm lặng cử chất chống và khiến trái tim đau khổ, tan nát.

William Shakespeare, Macbeth

Tháng 9 năm 2001, một số tổ chức, bao gồm Viện Sức khỏe Quốc gia, hãng dược phẩm Pfizer, và Quỹ New York Times đã tổ chức các hội thảo gồm các chuyên gia để giới thiệu các phương pháp điều trị tốt nhất cho người bị sang chấn bởi vụ tấn công vào Trung tâm Thương mại Thế giới. Vì nhiều biện pháp can thiệp sang chấn đã được sử dụng rộng rãi chưa bao giờ được đánh giá cẩn thận trong cộng đồng, tôi nghĩ rằng đây là cơ hội phi thường để so sánh cách tiếp cận nào sẽ có hiệu quả. Nhưng các đồng nghiệp của tôi có thái độ bảo thủ hơn, và sau những cuộc thảo luận kéo dài, chỉ có hai hình thức điều trị được đề nghị: liệu pháp định hướng phân tâm học (psychoanalytically oriented therapy) và liệu pháp nhận thức hành vi (CBT). Tại sao phải nói chuyện theo phương pháp phân tâm? Vì Manhattan là một trong những pháo đài cuối cùng của phân tâm học Freud, sẽ rất tệ nếu bỏ qua một tỷ lệ đáng kể các nhà thực hành sức khỏe tinh thần ở địa phương. Tại sao lại áp dụng CBT? Bởi vì \điều trị hành vi có thể được chia thành các bước chắc chắn và “được hướng dẫn” thành các phác đồ thống nhất, đó là cách điều trị yêu thích của các nhà nghiên cứu học thuật, một nhóm khác mà cũng không thể bị bỏ qua. Sau khi các khuyến cáo được chấp thuận, chúng tôi ngồi đợi người dân New York tìm đường tới các văn phòng của các nhà trị liệu. Hầu như không ai đến cả.

Tiến sĩ Spencer Eth, người điều hành khoa tâm thần học tại Bệnh viện St. Vincent ở Greenwich Village, rất tò mò muốn biết những người sống sót đã nhờ giúp đỡ ở đâu. Đầu năm 2002, cùng với một số sinh viên y khoa, ông đã tiến hành khảo sát 225 người đã thoát khỏi Tháp đôi. Khi được hỏi những gì hữu ích nhất đã giúp họ vượt qua những ảnh hưởng từ trải nghiệm này, những người sống sót đã ghi nhận theo thứ tự là: châm cứu, massage, yoga và EMDR'. Đối với các nhân viên cứu hộ, liệu pháp massage đặc biệt phổ biến. Cuộc điều tra của Eth cho thấy rằng những can thiệp hữu ích nhất tập trung vào việc giảm bớt những gánh nặng về thể chất do sang chấn gây ra. Sự chênh lệch giữa kinh nghiệm của những người sống sót với khuyến nghị của các chuyên gia là rất đáng để lưu tâm. Tất nhiên, chúng ta không biết bao nhiêu người sống sót đã tìm kiếm những liệu pháp có tính truyền thống hơn. Nhưng rõ ràng là việc mọi người thiếu quan tâm đến liệu pháp nói chuyện đã đặt ra một câu hỏi cơ bản: Nói về sang chấn của bạn thì có lợi ích gì?

⚝ ✽ ⚝

SỰ THẬT BẤT THÀNH VĂN

Các nhà trị liệu có niềm tin bất diệt về khả năng chữa trị sang chấn của liệu pháp nói chuyện. Sự tự tin này có từ năm 1893, khi Freud (và người cố vấn của ông, Breuer) đã viết rằng sang chấn “biến mất ngay lập tức và vĩnh viễn khi chúng tôi thành công trong việc làm sáng tỏ những ký ức của sự kiện mà đã gây ra và kích thích các tác động đi kèm, và khi bệnh nhân mô tả chi tiết nhất có thể về sự kiện và diễn đạt được bằng lời nói những tác động của sự kiện đó”.

Thật không may, chuyện không đơn giản như vậy: Các sự kiện gây sang chấn gần như không thể diễn đạt được bằng lời. Điều này đúng cho tất cả chúng ta, chứ không chỉ riêng những người bị PTSD. Những dấu ấn ban đầu của sự kiện Trung tâm Thương mại Thế giới bị tấn công ngày 11/9 không phải là những câu chuyện mà là những hình ảnh: mọi người hoảng loạn chạy trên phố, mặt họ phủ đầy tro, một chiếc máy bay đâm vào Tháp Một, những chấm đen từ đằng xa hóa ra là những người đang nhảy khỏi tòa tháp. Những hình ảnh này được lặp đi lặp lại trong tâm trí của chúng ta và trên màn hình tivi.

Trong cuốn Seven Pillars of Wisdom (Bảy trụ cột của sự khôn ngoan) TE Lawrence đã viết về trải nghiệm chiến tranh của mình: “Chúng ta biết có những nỗi dằn vặt sâu sắc, có những nỗi khổ tâm cùng cực, có những trạng thái quá ngất ngây để tâm trí hữu hạn của chúng ta có thể chịu đựng. Khi cảm xúc đạt tới mức này thì tâm trí sẽ nghẹn lại, bộ nhớ sẽ trống rỗng cho đến khi tình hình trở lại bình yên”.

Trong khi sang chấn khiến chúng ta chết lặng thì con đường thoát khỏi sang chấn lại được lát bằng những từ ngữ, được lắp ráp cẩn thận từng mảnh một, cho đến khi toàn bộ câu chuyện có thể được phơi bày.

⚝ ✽ ⚝

PHÁ VỠ SỰ IM LẶNG

Các nhà hoạt động trong chiến dịch nhận thức sớm về bệnh AIDS đã đưa ra một khẩu hiệu mạnh mẽ: “Im lặng = Chết”. Sự im lặng càng khiến cho sang chấn bị cô lập. Có thể dõng dạc nói với một người khác: “Tôi bị cưỡng hiếp”, “Tôi bị chồng đánh đập”, “Bố mẹ tôi gọi nó là kỷ luật, nhưng đó là lạm dụng” là dấu hiệu cho thấy việc chữa bệnh có thể bắt đầu.

Chúng ta có thể nghĩ rằng mình có thể kiểm soát được nỗi đau, nỗi kinh hoàng, sự xấu hổ của chúng ta bằng cách im lặng, nhưng \đặt tên cho chúng lại là một loại kiểm soát khác. Trong Sáng thế ký, khi Adam được giao trọng trách trông coi vương quốc động vật, hành động đầu tiên của ông là đặt tên cho mọi sinh vật sống.

Nếu bạn bị tổn thương, bạn cần thừa nhận nó và đặt tên cho việc đã xảy ra. Tôi biết điều này từ kinh nghiệm cá nhân: Chừng nào tôi vẫn không thể khiến bản thân mình biết được cảm giác của một đứa bé 3 tuổi bị cha nhốt vào hầm tối mỗi khi mắc lỗi là như thế nào thì tôi sẽ mãi mãi tập trung vào cảm giác bị đày đọa và bỏ rơi. Chỉ khi tôi có thể kể cậu bé đó cảm thấy thế nào, chỉ khi tôi có thể tha thứ cho cậu bé đó vì đã sợ hãi và phục tùng, thì tôi mới bắt đầu tận hưởng niềm vui khi bầu bạn với chính mình.

Cảm giác được lắng nghe và được thấu hiểu sẽ thay đổi sinh lý của chúng ta; có khả năng diễn đạt một cảm xúc phức tạp, và cảm xúc của chúng ta được nhận biết, sẽ thắp sáng bộ não của chúng ta và tạo ra một khoảnh khắc vỡ lẽ”. Ngược lại, tinh thần ta sẽ chết khi phải đối mặt với sự im lặng và không được thấu hiểu. Hoặc, như John Bowlby từng có một phát biểu vô cùng đáng nhớ: “Điều không thể thổ lộ với người khác thì cũng không thể thổ lộ với chính mình”.

Nếu bạn giấu giếm bản thân mình sự thật rằng mình từng bị người chú xâm phạm khi còn nhỏ, bạn sẽ dễ phản ứng với những kích thích như một con thú trong đêm sấm sét, nghĩa là toàn cơ thể bạn phản ứng với những hormone đang phát ra tín hiệu “nguy hiểm”. Không có ngôn ngữ và bối cảnh, nhận thức của bạn có thể bị giới hạn ở: “Tôi sợ”. Tuy nhiên, sự quyết tâm giữ tự chủ có thể khiến bạn tránh né bất kỳ ai hoặc bất cứ điều gì nhắc nhở bạn, dù chỉ mơ hổ, về tình huống gây sang chấn của bạn. Bạn cũng có thể chuyển đổi qua lại giữa cảm giác rụt rè và khó chịu hoặc phản kháng và thịnh nộ mà không biết lý do tại sao.

Một khi bạn vẫn còn giữ bí mật trong lòng và kìm nén những thông tin, tức là bạn vẫn đang đấu tranh với chính mình. Che đậy những cảm xúc cốt tủy đã lấy đi của bạn một nguồn năng lượng khổng lồ, nó làm bạn mất động lực để theo đuổi các mục tiêu xứng đáng và khiến bạn cảm thấy chán nản, đóng khép bản thân lại. Trong khi đó, hormone của stress vẫn tiếp tục tràn ngập cơ thể của bạn, dẫn đến đau đầu, đau cơ, vấn đề về ruột hoặc chức năng tình dục – và các hành vi không hợp lý có thể gây rắc rối cho bạn cũng như làm tổn thương những người xung quanh. Chỉ sau khi xác định được nguồn gốc của những đáp ứng này thì bạn mới có thể bắt đầu sử dụng cảm xúc của mình như những dấu hiệu của các vấn đề cần bạn chú ý khẩn cấp.

Bỏ qua thực tại nội tâm cũng khiến bạn mất dần ý thức về bản thân, bản sắc và mục đích. Nhà tâm lý học lâm sàng học Edna Foa và các cộng sự đã phát triển Thang lượng giá nhận thức sau sang chấn (Posttraumatic Cognitions Inventory) để đánh giá cách bệnh nhân suy nghĩ về họ như thế nào*. Triệu chứng của PTSD thường là những tuyên bố như: “Tôi cảm thấy bên trong mình đã chết rồi”, “Tôi sẽ không bao giờ có thể cảm nhận được những cảm xúc bình thường nữa”, “Tôi cảm thấy mình giống như một món đồ, không giống như một con người”, “Tôi không có tương lai” và “Tôi cảm thấy mình còn không biết mình là ai”.

Vấn đề quan trọng là cho phép bạn biết những gì bạn biết. Và để làm được điều này, bạn cần có lòng can đảm mạnh mẽ. Trong cuốn What It Is Like to Go to War (Chiến tranh là thế đó) Karl Mariantes, một cựu binh từng chiến đấu ở Việt Nam, đã phải vật lộn với những ký ức của mình khi còn phục vụ trong một đơn vị Hải quân và đối đầu với sự chia tách khủng khiếp mà ông khám phá ra trong bản thân mình:

“Nhiều năm trời tôi không nhận thức được mình cần phục hồi lại sự chia tách ấy và khi tôi trở về, chẳng ai chỉ cho tôi biết điều này cả... Tại sao tôi lại giả định rằng chỉ có một con người duy nhất bên trong tôi?... Có một phần trong tôi chỉ yêu thích việc giết chóc và tra tấn. Cái phần này không phải là toàn bộ con người tôi. Tôi có những yếu tố khác hoàn toàn trái ngược mà tôi vẫn cảm thấy tự hào. Vậy, tôi có phải là một kẻ sát nhân? Không, nhưng một phần của tôi là thế. Tôi có phải là kẻ tra tấn? Không, nhưng một phần của tôi là thế. Tôi có cảm thấy kinh hoàng và buồn bã khi đọc bài báo về một đứa trẻ bị lạm dụng: Có. Nhưng tôi có ấn tượng không???

Marlantes nói với chúng tôi rằng con đường phục hồi đòi hỏi người ta phải học cách nói ra sự thật, ngay cả khi sự thật đó vô cùng đau đớn.

Cái chết, sự hủy diệt, và nỗi bất hạnh cần được liên tục biện bạch mà không có những ý nghĩa bao trùm của sự đau khổ. Mất đi cái ý bao trùm này chỉ khuyến khích sự dối trá, bịa đặt để điền thêm ý nghĩa vào những chỗ còn trống.

“Tôi chưa bao giờ có thể nói với mọi người những gì đang xảy ra bên trong chính mình. Vì thế, tôi đã cố gắng che giấu những hình ảnh ấy trong nhiều năm. Tôi bắt đầu tái hòa nhập lại phần trải nghiệm bị chia tách ấy của mình chỉ sau khi tôi thực sự bắt đầu hình dung đứa trẻ đó thật sự là một đứa trẻ, chẳng hạn như con tôi. Sau đó, một nỗi buồn sâu sắc dẫn xuất hiện – và theo sau là sự phục hồi. Tích hợp được những cảm xúc buồn bã, giận dữ vào trong hành động của mình sẽ là quy trình bắt buộc cho tất cả những người lính đã từng mặt đối mặt giết một ai đó. Nó không đòi hỏi phải rèn luyện tâm lý tinh vi phức tạp gì cả. Chỉ cần thành lập các nhóm và đặt nhóm dưới sự dẫn dắt của một người đã được huấn luyện vài ngày về lãnh đạo đội và khuyến khích mọi người nói chuyện.”

Nhận ra điều làm mình hãi hùng và chia sẻ nó với người khác có thể giúp bạn lại cảm thấy mình là một thành viên của nhân loại. Sau khi các cựu chiến binh Mỹ từ chiến trường Việt Nam tham gia vào một nhóm trị liệu để chia sẻ với nhau những hành động tàn bạo họ từng chứng kiến và thực hiện, họ đã có thể bắt đầu mở lòng với bạn gái hoặc vợ của họ.

⚝ ✽ ⚝

SỰ KỲ DIỆU CỦA VIỆC KHÁM PHÁ BẢN THÂN

Việc khám phá bản thân thông qua ngôn ngữ luôn luôn là phút giây nhận thức sâu sắc, ngay cả khi việc tìm cho được từ ngữ để mô tả thực tại bên trong của bạn có thể là một quá trình đau đớn. Đó là lý do vì sao trường hợp của Helen Keller về việc bà ấy được “sinh ra trong ngôn ngữ”” như thế nào đã truyền cảm hứng đến vậy.

Khi Helen mới 19 tháng tuổi và chỉ mới bắt đầu nói chuyện thì một loại virus đã khiến bà bị mù và điếc. Cùng lúc bị mù, câm, điếc, đứa trẻ đáng yêu và sôi nổi đã biến thành một sinh vật hoang dại, cô đơn và bị cô lập. Sau 5 năm cố gắng giúp con trong vô vọng, gia đình của Helen đã mời cô Anne Sullivan – một giáo viên và người có thị lực cũng bị khiếm khuyết một phần - đến căn nhà ở vùng nông thôn Alabama, Boston để làm gia sư cho Helen.

Cô Anne ngay lập tức dạy Helen bảng chữ cái bằng cách dùng ngón tay viết từng chữ cái vào lòng bàn tay của Helen. Nhưng phải mất đến 10 tuần cô Anne mới kết nối được với cô học trò hoang dã này, rồi sau đó kỳ tích mới xuất hiện. Đó chính là giây phút cô Anne đánh vần chữ “nước” (w-a-t-e-r) vào một bàn tay của Helen và cô giữ bàn tay kia của Helen dưới vòi nước.

Sau này, Helen đã nhớ lại giây phút này trong hồi ký The Story of My Life” “Nước! Từ đó đánh thức linh hồn tôi và nó thức giấc, tràn ngập tinh thần của buổi sáng, tràn ngập một bài ca hân hoan vui vẻ. Cho tới hôm đó, tâm trí của tôi giống như một căn phòng tối, chờ đợi những từ ngữ bước vào và thắp sáng ngọn đèn, tức là ý nghĩa Hôm đó, tôi đã học được nhiều từ.”

(*) Bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Thành Nhân có tựa Câu chuyện đời tôi, Saigon Books, NXB Văn hóa - Văn Nghệ, 2017.

Học cách gọi tên các sự vật không chỉ giúp Helen bắt đầu hình dung về cái thế giới quanh mình mà bà không thể nhìn thấy, không thể nghe thấy, mà còn giúp bà tìm thấy chính mình. Sáu tháng sau, Helen bắt đầu sử dụng từ chỉ ngôi thứ nhất “tôi”.

Câu chuyện của Helen nhắc nhở tôi về những đứa trẻ bị bạo hành, ương ngạnh, không thích giao tiếp đã tham gia các chương trình điều trị nội trú của chúng tôi. Trước khi nắm bắt được ngôn ngữ, Helen rất hoang mang và ích kỷ. Khi hồi tưởng giai đoạn đó, Helen gọi mình của ngày xưa ấy là “bóng ma”. Thực vậy, những đứa trẻ của chúng tôi đã sống như những bóng ma trước khi khám phá ra mình là ai và cảm thấy đủ an toàn để có thể kể lại chuyện gì đang xảy ra với chúng.

Trong một cuốn sách xuất bản sau đó, The World I Live In (Thế giới tôi đang sống), Keller một lần nữa mô tả sự tiếp xúc của cô với sự tự chủ: “Trước khi giáo viên của tôi đến với tôi, tôi không biết mình là ai. Tôi sống trong một thế giới thật ra không phải là thế giới. Tôi không có ý chí, cũng chẳng có hiểu biết... Tôi có thể nhớ tất cả điều này không phải vì tôi biết nó là như vậy mà vì tôi có trí nhớ xúc giác. Chính nó giúp tôi nhớ rằng mình chưa bao giờ nhắn trán khi suy nghĩ cả”.

Trí nhớ xúc giác của Helen, tức những trí nhớ dựa trên việc sỜ chạm, vốn không thể chia sẻ với ai khác. Nhưng chính ngôn ngữ đã giúp Helen hòa nhập cộng đồng. Năm 8 tuổi, Helen đi cùng cô Anne Sullivan đến Viện Perkins dành cho người khiếm thị ở Boston (nơi cô Sullivan từng được đào tạo). Tại đây, lần đầu tiên trong đời, Helen đã có thể giao lưu với những đứa trẻ khác. Cô viết: “Ôi, thật hạnh phúc khi được nói chuyện tự do với những đứa trẻ khác, khi được cảm thấy mình như đang ở nhà giữa thế giới bao la này!”.

Việc Helen khám phá ra ngôn ngữ với sự giúp đỡ của cô Anne Sullivan đã thể hiện bản chất của một mối quan hệ trị liệu: tìm kiếm những từ ngữ từng thiếu vắng trước kia, để có thể chia sẻ với ai đó nỗi đau đớn lớn lao và những cảm xúc sâu đậm nhất của bạn. Khi nói ra được những điều ta không thể nói cũng chính là lúc sang chấn của ta bắt đầu quá trình được chữa lành, nhất là khi có những người trong cuộc đời ta đã làm ngơ ta hoặc “bịt miệng” ta. Giao tiếp triệt để chính là đối trọng của sang chấn, là liều thuốc chữa trị sang chấn.

TỰ HIỂU CHÍNH MÌNH HAY KỂ CHUYỆN CỦA MÌNH VỚI AI ĐÓ? HỆ THỐNG NHẬN THỨC KÉP

Bất cứ ai tham gia vào liệu pháp trò chuyện gần như lập tức phải đối mặt với những hạn chế về ngôn ngữ. Điều này đúng với phân tích tâm lý của chính tôi. Ngay khi đang nói năng lưu loát, ríu rít kể những câu chuyện thú vị, tôi đã nhanh chóng nhận ra thật khó biết bao khi vừa cảm nhận những cảm giác sâu xa trong lòng mình vừa kể lại những cảm giác ấy cho ai đó nghe.

Khi tôi nhớ lại những khoảnh khắc riêng tư, đau đớn hoặc băn khoăn nhất trong cuộc đời mình, tôi thường thấy mình phải đối mặt với một lựa chọn: hoặc tập trung hồi tưởng chuyện xưa bằng đôi mắt của tâm trí và để bản thân cảm nhận được những gì đã từng cảm nhận, hoặc tôi có thể nói một cách logic và mạch lạc những gì đã xảy ra với chính nhà phân tích đang tồn tại trong tôi.

Khi chọn cái thứ hai, tôi sẽ nhanh chóng mất kết nối với bản thân mình, bắt đầu tập trung vào ý kiến của chính nhà phân tích đang tồn tại trong tôi về những gì tôi đã kể với anh ấy. Những gợi ý nhỏ nhặt của sự nghi ngờ hoặc phán đoán sẽ khiến tôi câm nín, và tôi sẽ chuyển sự chú ý của mình sang việc giành lại sự chấp thuận của “anh ta”.

Nghiên cứu về khoa học thần kinh đã chỉ ra rằng chúng ta có hai hình thức tự nhận thức (self-awareness) khác nhau: một là theo dõi chính mình theo thời gian và một là tự ghi lại về chính mình trong giây phút hiện tại. Cái thứ nhất, phần tự truyện của chính chúng ta, tạo ra những mối liên kết giữa các kinh nghiệm mà ta có và tập hợp chúng thành một câu chuyện mạch lạc. Hệ thống này bắt nguồn từ ngôn ngữ. Bài tường thuật này của chúng ta thay đổi tùy theo việc ta kể chuyện, khi quan điểm của chúng ta thay đổi và khi chúng ta kết hợp thêm những thông tin mới.

Hệ thống khác, tự nhận thức từng khoảnh khắc, chủ yếu dựa vào cảm giác thể chất, nhưng nếu chúng ta cảm thấy an toàn và không vội vã, chúng ta cũng có thể tìm được từ ngữ để truyền đạt trải nghiệm đó. Hai cách nhận biết này khu trú ở các phần khác nhau của não mà phần lớn là không kết nối với nhau. Chỉ có hệ thống dành cho việc tự nhận thức, nằm trong vùng giữa não trán trước, là có thể thay đổi bộ não cảm xúc.

Đôi khi tôi thấy hai hệ thống này ở các cựu chiến binh làm việc song song và độc lập nhau. Những người lính kể những câu chuyện khủng khiếp về cái chết và sự hủy diệt, nhưng tôi để ý thấy cơ thể của họ thường xuyên bộc lộ một cảm giác tự hào và thuộc về nơi ấy. Tương tự, nhiều bệnh nhân kể tôi nghe họ đã lớn lên trong một gia đình hạnh phúc như thế nào, nhưng khi kể chuyện, họ hơi cúi người, giọng nói có vẻ lo lắng, căng thẳng.

Có một hệ thống tạo ra câu chuyện mà ta kể cho mọi người, và nếu chúng ta kể những câu chuyện ấy đủ lâu, chúng ta sẽ bắt đầu nghĩ rằng chúng chứa đựng toàn bộ sự thật. Nhưng một hệ thống khác lại hướng đến một sự thật khác: cách chúng ta trải nghiệm thế giới sâu thẳm bên trong. Đây chính là hệ thống ta cần truy cập, bầu bạn và hòa giải.

Tại một bệnh viện tôi từng công tác, một nhóm các bác sĩ tâm thần nội trú và tôi đã phỏng vấn một phụ nữ trẻ bị động kinh thùy thái dương (temporal lobe epilepsy). Cô được các bác sĩ thăm khám sau khi cố gắng tự tử. Mọi người đã hỏi những câu hỏi cơ bản về các triệu chứng của cô, các loại thuốc mà cô đang dùng, cô bao nhiêu tuổi khi được chẩn đoán, những gì đã khiến cô ấy cố gắng tử tự. Cô trả lời bằng giọng nói đều đều, vô cảm: Cô được chẩn đoán lúc 5 tuổi, cô mất việc, cô biết mình đang sống giả tạo, cô cảm thấy mình chẳng có giá trị gì. Vì lý do nào đó, một bác sĩ đã hỏi cô ấy có từng bị lạm dụng tình dục hay không. Câu hỏi đó làm tôi hết sức ngạc nhiên: Cô ấy chưa cho chúng tôi thấy bất kỳ dấu hiệu nào về việc cô ấy có vấn đề trong việc gần gũi, thân mật với ai đó hoặc quan hệ tình dục. Tôi tự hỏi không biết liệu người bác sĩ này có đang đeo đuổi một mục đích riêng nào hay không khi hỏi câu ấy.

Đáng chú ý là câu chuyện cô ấy kể không giúp lý giải vì sao cô suy sụp đến thế khi bị mất việc. Vì thế, tôi đã hỏi cô ấy cảm thấy như thế nào về việc một bé gái 5 tuổi bị ai đó nói rằng trí óc của bé có vấn đề. Câu hỏi này đã buộc cô phải lục lọi lại trí óc của mình vì cô không có sẵn kịch bản cho câu hỏi đó.

Cô ấy trầm giọng nói rằng sau khi có chẩn đoán đó, cha cô chẳng muốn làm gì cho cô nữa: “Ông ấy xem tôi như một đứa trẻ tàn phế”. Cô nói rằng chẳng ai giúp đỡ cô cả, thế nên cô phải tự lo cho mình.

Tiếp theo, tôi hỏi bây giờ cô cảm thấy thế nào về cô bé vừa được chẩn đoán bị chứng động kinh, rồi sau đó bị bỏ rơi. Thay vì khóc thương cô bé cô đơn hoặc tức giận vì cô bé bị bỏ rơi, cô đã gay gắt nói: “Đó là một con bé ngu dốt, yếu đuối và hay dựa dẫm. Lẽ ra nó phải tự chịu trách nhiệm cho mọi việc và phải ráng chịu đựng mới phải”.

Cô ấy có quan điểm này có lẽ một phần vì đã cố gắng hết sức đối phó với nỗi đau của mình, và tôi hiểu rằng có lẽ chính cách nghĩ này đã giúp cô sống sót. Tôi yêu cầu cô ấy cho phép cô bé bị bỏ rơi, sợ hãi năm xưa nói với cô ấy rằng cô bé ấy cảm thấy thế nào khi phải đối chọi với cô đơn, bệnh tật và sự chối bỏ của gia đình. Cô ấy bắt đầu khóc, im lặng trong một khoảng thời gian dài, sau đó nói: “Không, cô bé ấy không đáng bị như vậy. Cô bé ấy cần được hỗ trợ, cần được ai đó chăm sóc.” Sau đó, cô ấy lại thay đổi tâm trạng và tự hào nói với tôi về những điều cô ấy đã tự mình đạt được, không cần đến sự hỗ trợ nào. Cuối cùng thì câu chuyện được cô kể công khai và những trải nghiệm trong lòng cô ấy đã gặp được nhau.

⚝ ✽ ⚝

CƠ THỂ CHÍNH LÀ CẦU NỐI

Các câu chuyện kể về sang chấn giúp làm giảm sự cô lập của bệnh nhân sang chấn và giải thích vì sao họ đã phải khổ sở như vậy. Những câu chuyện cũng giúp các bác sĩ chẩn đoán và từ đó có thể giải quyết các vấn đề của bệnh nhân như mất ngủ, giận dữ, gặp ác mộng, bị tê liệt, đầu óc trống rỗng. Câu chuyện cũng giúp ta xác định ta có thể đổ lỗi cho ai, cho điều gì. Đổ lỗi là cách con người thường dùng để cảm thấy thoải mái hơn sau một sự việc tồi tệ nào đó. Nhưng những câu chuyện cũng che khuất một vấn đề quan trọng hơn, đó là sang chấn khiến con người không còn là “chính mình” nữa.

Thật khó khăn khi biểu đạt bằng lời nói cái cảm xúc mình không còn là mình nữa. Ngôn ngữ phát triển chủ yếu để chia sẻ “vạn vật quanh ta” chứ không phải để ta truyền đạt những cảm xúc trong nội tâm của mình (Xin nhắc lại, trung tâm ngôn ngữ của não nằm tách xa khỏi trung tâm trải nghiệm bản thân mình). Ta thường dễ mô tả ai đó hơn là tự mô tả chính mình. Như nhà tâm lý học Jerome Kagan ở Harvard đã nói: “Có thể so sánh nhiệm vụ mô tả lại kinh nghiệm của bản thân với việc nhặt những viên pha lê mỏng manh dễ vỡ từ một cái giếng sâu trong khi đang đeo lớp găng tay bằng da dày cộp”.

Ta có thể dùng lời nói để mô tả được chính mình bằng cách tự quan sát mình, quan sát chính cơ thể mình biểu hiện thông qua cảm giác, giọng điệu và sức căng của cơ thể. Có thể cảm nhận được cảm giác bên trong là nền tảng để có được nhận thức về cảm xúc. Nếu một bệnh nhân nói với tôi rằng cha anh đã bỏ đi từ năm anh ấy lên

8 tuổi, tôi có thể sẽ dừng lại và yêu cầu anh ta tự kiểm tra những điều sau: Điều gì đang xảy ra bên trong anh ta khi anh nói với tôi về cậu bé không bao giờ được gặp lại cho mình nữa? Cảm giác đó được ghi nhận ở đâu trong cơ thể của anh?

Khi ta kích hoạt trực giác và lắng nghe con tim mình, khi ta lần theo con đường cảm xúc bên trong dẫn đến những nơi sâu thẳm nhất của tâm hồn thì mọi thứ bắt đầu thay đổi.

⚝ ✽ ⚝

VIẾT CHO CHÍNH MÌNH

Có nhiều cách khác nhau để truy cập vào thế giới cảm xúc bên trong của bạn, trong đó có cách viết ra. Khi bị đó phản bội hoặc bỏ rơi, ta trút hết tất cả nỗi lòng, cảm xúc vào những bức thư giận dữ, buộc tội, phàn nàn, buồn bã, đau đớn. Viết ra khiến ta cảm thấy tốt hơn, dù sau đó ta chẳng bao giờ gửi lá thư ấy đến “thủ phạm” đã khiến ta đau đớn.

Khi viết thư cho chính mình, bạn không phải lo lắng bị ai đó phán xét. Bạn chỉ cần lắng nghe những suy nghĩ của bản thân và cứ để cảm xúc tuôn trào theo dòng chữ.

Bạn được tự do để đi vào một loại trạng thái đê mê, trong đó ngòi bút của bạn (hoặc bàn phím) dường như đang hướng về bất cứ điều gì đang sôi sục bên trong bạn. Bạn có thể kết nối những phần tự quan sát và tường thuật của bộ não của bạn mà không phải lo lắng về những gì bạn tiếp nhận được.

Sau đó, khi đọc lại những gì đã viết, bạn thường khám phá ra sự thật đáng ngạc nhiên.

Khi thực hành phương pháp viết tự do, bạn có thể sử dụng bất kỳ món đồ nào để làm bài trắc nghiệm Rorschach cho riêng mình nhằm bước vào một luồng liên tưởng. Hãy viết về điều đầu tiên xuất hiện trong tâm trí khi bạn nhìn vào món đồ trước mặt bạn, sau đó hãy viết tiếp, đừng dừng lại, đừng đọc lại những gì đã viết, cũng \đừng gạch bỏ. Một cái thìa gỗ trên quầy hàng có thể gợi ra những kỷ niệm về lúc bạn làm nước sốt cà chua với bà ngoại hoặc kỷ niệm bạn bị đánh đập khi còn nhỏ. Cái ấm trà gia truyền có thể đưa bạn lang thang đến nơi sâu thẳm nhất trong tâm trí, đến những ký ức về người thân đã qua đời hoặc những kỳ nghỉ gia đình pha lẫn giữa tình thương yêu và xung đột. Một hình ảnh sẽ sớm xuất hiện, sau đó là một ký ức, sau đó một đoạn văn ghi chép lại ký ức ấy. Bất cứ điều gì xuất hiện trên giấy đều biểu hiện cho những liên tưởng độc đáo của bạn.

Bệnh nhân của tôi thường đưa ra các bài viết và bản vẽ rời rạc về những ký ức mà họ chưa sẵn sàng kể lại. Việc đọc to nội dung mình đã viết có thể khiến họ xúc động mạnh, nhưng họ muốn tôi phải nhận thức được những gì họ đang phải vật lộn. Tôi nói với họ rằng tôi đánh giá cao lòng can đảm của họ khi họ cho phép bản thân khám phá những phần bí ẩn của chính mình và cho phép họ tin tưởng vào tôi. Những thông tin ban đầu này giúp tôi hình dung về kế hoạch điều trị, ví dụ giúp tôi quyết định có đưa thêm những phương pháp trị liệu cơ thể, phản hồi thần kinh hay EMDR vào việc điều trị hay không.

Theo như tôi biết, bài kiểm tra hệ thống đầu tiên về sức mạnh của ngôn ngữ để giảm bớt sang chấn đã được thực hiện vào năm 1986, khi James Pennebaker tại Đại học Texas đã biến lớp nhập môn tâm lý học của ông thành một phòng thí nghiệm thực nghiệm.

Ông bắt đầu bằng cách yêu cầu mỗi sinh viên xác định một trải nghiệm cá nhân sâu sắc mà họ thấy rất căng thẳng hoặc tổn thương. Sau đó ông chia lớp thành ba nhóm: nhóm thứ nhất viết về những gì đang diễn ra trong cuộc sống của họ, nhóm thứ hai viết về các chi tiết của sự kiện gây sang chấn hoặc căng thẳng của họ, nhóm thứ ba sẽ kể lại những sự thật về trải nghiệm, cảm xúc và tình cảm của họ về trải nghiệm đó và những tác động họ nghĩ rằng sự kiện này gây nên đối với cuộc sống của họ. Tất cả sinh viên đã viết liên tục 15 phút trong bốn ngày liên tiếp khi ngồi một mình trong căn phòng nhỏ tại tòa nhà nghiên cứu tâm lý học.

Các sinh viên tham gia nghiên cứu rất nghiêm túc, họ tiết lộ những bí mật chưa bao giờ nói với bất cứ ai. Họ thường khóc khi viết, và nhiều người đã thổ lộ với người trợ giảng rằng những kỷ niệm này đã xâm chiếm tâm trí họ một thời gian dài. Trong số 200 người tham gia, 65 người viết về một sang chấn khi còn nhỏ, phổ biến nhất là việc mất một người thân trong gia đình, 22% sinh viên nữ và 10% sinh viên nam đã viết về những sang chấn tình dục xảy ra với họ trước năm 17 tuổi.

Các nhà nghiên cứu đã hỏi sinh viên về sức khỏe của họ và ngạc nhiên về việc họ thường xuyên gặp các vấn đề sức khỏe từ nặng đến nhẹ như ung thư, cao huyết áp, viêm loét, cảm cúm, nhức đầu và đau tai 14. Những người báo cáo một trải nghiệm sang chấn tình dục trong thời thơ ấu nhập viện trung bình 1,7 ngày trong năm trước, tức tỷ lệ gần gấp đôi so với những người khác.

Sau đó, nhóm nghiên cứu so sánh số lần sinh viên đi khám bệnh tại trung tâm chăm sóc trong tháng trước khi tham gia vào nghiên cứu với tháng sau đó. Nhóm đã viết cả về thực tế và cảm xúc liên quan đến sang chấn của họ rõ ràng đã hưởng lợi nhiều nhất: Số lượt đi khám bệnh của họ đã giảm 50% so với hai nhóm kia. Viết ra những suy nghĩ và cảm xúc sâu sắc nhất của họ về những sang chấn đã cải thiện tâm trạng của họ và mang lại một thái độ lạc quan hơn cùng với sức khỏe thể chất tốt hơn.

Khi sinh viên được yêu cầu đánh giá nghiên cứu, họ tập trung vào việc làm thế nào để tăng khả năng tự thấu hiểu chính mình: “Nó giúp tôi suy nghĩ về những gì tôi đã cảm thấy vào những thời điểm đó. Trước đây tôi chưa bao giờ nhận ra nó đã ảnh hưởng đến tối như thế nào”, “Tôi đã phải suy nghĩ và giải quyết những trải nghiệm quá khứ. Một kết quả của cuộc thử nghiệm là sự bình yên. Phải viết về những cảm xúc và cảm nhận đã giúp tôi hiểu tôi cảm thấy thế nào và tại sao”15.

Trong một nghiên cứu tiếp theo, Pennebaker yêu cầu một nửa của nhóm 72 sinh viên ghi âm lại những trải nghiệm sang chấn nhất trong đời họ, nửa nhóm kia thảo luận kế hoạch của họ cho thời gian còn lại trong ngày. Khi họ nói, các nhà nghiên cứu đã theo dõi các phản ứng sinh lý của họ: huyết áp, nhịp tim, độ căng cơ và nhiệt độ bàn taylº. Nghiên cứu này cho kết quả tương tự: Những người cho phép mình cảm nhận được cảm xúc của bản thân đã có những thay đổi đáng kể về sinh lý cả trước mắt và lâu dài.

Trong quá trình tự thú, huyết áp, nhịp tim và các chức năng tự chủ khác tăng lên, nhưng sau đó sự hưng phấn của họ giảm xuống thấp hơn so với lúc họ bắt đầu nghiên cứu. Suốt 6 tuần sau khi thí nghiệm kết thúc, huyết áp họ vẫn giảm.

Giờ đây, người ta đã chấp nhận rộng rãi rằng những trải nghiệm stress, dù là ly hôn, kỳ thi cuối khóa hay sự cô đơn, đều có ảnh hưởng tiêu cực đến chức năng miễn dịch, nhưng trong thời điểm diễn ra nghiên cứu của Pennebaker thì đây là một quan niệm gây nhiều tranh cãi. Dựa trên cơ sở này, nhóm nghiên cứu tại Trường Y khoa Đại học bang Ohio đã so sánh hai nhóm sinh viên viết về một sang chấn cá nhân hoặc về một chủ đề hời hợt!”. Một lần nữa, những người viết về sang chấn cá nhân lại ít đến những trung tâm y tế hơn, và sức khỏe của họ cũng tốt hơn tương ứng với sự cải thiện về chức năng miễn dịch, được đo bằng hoạt động của các tế bào lympho T (các tế bào sát thủ tự nhiên của cơ thể) và các dấu hiệu miễn dịch khác trong máu. Tác động này biểu hiện rõ ràng nhất là ngay sau khi tham gia nghiên cứu, nhưng nó vẫn có thể được phát hiện vào 6 tuần sau đó. Những thí nghiệm về liệu pháp viết từ khắp nơi trên thế giới, từ các học sinh, nhà dưỡng lão, sinh viên y khoa, những tù nhân được canh gác cẩn mật, người bị viêm khớp, phụ nữ mới sinh con, nạn nhân bị hãm hiếp, tất cả đều cho thấy việc viết ra những chuyện buồn có thể giúp cải thiện sức khỏe thể chất và tinh thần của họ.

Một khía cạnh khác trong nghiên cứu của Pennebaker đã thu hút sự chú ý của tôi: Khi những đối tượng nghiên cứu nói về các vấn đề mà họ thấy gần gũi hoặc thấy khó khăn, họ thường thay đổi giọng điệu và cách nói. Giọng nói của họ khác đến mức Pennbaker băn khoăn liệu ông có nghe nhầm bằng không. Ví dụ, một phụ nữ mô tả kế hoạch của cô trong ngày với một giọng cao ngạo, nhưng chỉ vài phút sau đó, khi cô kể mình đã lấy cắp 100 đô-la từ một máy tính tiền đang mở, cô hạ âm lượng và tông giọng xuống thấp đến nỗi như thể đó là giọng của người khác vậy. Chữ viết tay của các đối tượng cũng thể hiện những thay đổi trong trạng thái cảm xúc. Khi những người tham gia thay đổi chủ đề viết, họ có thể chuyển từ nét chữ cong sang nét chữ thẳng và ngược lại, độ nghiêng của chữ và lực cầm bút của họ cũng thay đổi.

Những thay đổi như vậy được gọi là “chuyển đổi” (switching) trong thực hành lâm sàng, thường thấy ở những người có lịch sử sang chấn. Bệnh nhân kích hoạt các trạng thái cảm xúc và sinh lý khác nhau rõ rệt khi họ chuyển từ chủ đề này sang chủ đề khác. Sự thay đổi không chỉ biểu hiện ở giọng nói mà còn biểu hiện trên khuôn mặt hay những cử chỉ cơ thể. Một số bệnh nhân dường như thay đổi tính tình, từ nhút nhát đến mạnh mẽ, hung hăng, từ lo lắng tuân thủ, phục tùng mệnh lệnh đến trở nên sẵn sàng làm những chuyện xấu xa. Khi viết về nỗi sợ hãi sâu xa nhất của mình, chữ viết tay của họ thường trở nên giống chữ viết của trẻ con và thô (hình trang bên).

⚝ ✽ ⚝

PIC

⚝ ✽ ⚝

PIC

Nếu những bệnh nhân bị mọi người xem là giả vờ khi họ biểu hiện nhiều trạng thái quá khác biệt hoặc họ được yêu cầu hãy ngừng phô diễn những phần phiền phức khó đoán của mình thì họ có thể hóa câm lặng. Có thể họ sẽ tiếp tục tìm kiếm sự trợ giúp nhưng không phải bằng lời nói mà bằng những hành động như Cố gắng tự tử, trầm cảm, nổi trận lôi đình.

NGHỆ THUẬT, ÂM NHẠC VÀ KHIÊU VŨ

Có hàng ngàn chuyên gia trị liệu bằng nghệ thuật, âm nhạc và khiêu vũ đã đạt được những kết quả tuyệt vời khi chữa trị cho trẻ em bị ngược đãi, những người lính mắc chứng PTSD, những nạn nhân bị loạn luân, người tị nạn, những người sống sót sau những vụ tra tấn và rất nhiều ca chứng minh hiệu quả của các liệu pháp diễn đạt (expressive therapy);8. Tuy nhiên, ở thời điểm này, chúng ta vẫn còn biết rất ít về cách nghệ thuật tác động đến stress do sang chấn và các khía cạnh cụ thể của sang chấn mà chúng giải quyết được. Thế nên chúng ta cần có thêm nhiều nghiên cứu về các nội dung này.

Một trong số ít các nghiên cứu có hệ thống để so sánh liệu pháp diễn đạt nghệ thuật không lời với liệu pháp viết đã được thực hiện bởi James Pennebaker và Anne Krantz – một nhà trị liệu về múa và vận động ở San Francisco'°. 1/3 số sinh viên của một nhóm 64 sinh viên được yêu cầu thuật lại một trải nghiệm sang chấn cá nhân bằng cách dùng các cử động cơ thể trong vòng ít nhất 10 phút một ngày, làm như thế trong 3 ngày liên tiếp rồi sau đó viết về nó trong vòng 10 phút. Nhóm thứ hai nhảy múa nhưng không viết về sang chấn của họ. Nhóm thứ ba tham gia vào một chương trình tập thể dục thường xuyên.

Trong ba tháng tiếp theo, các thành viên của cả ba nhóm cho biết họ cảm thấy hạnh phúc và khỏe mạnh hơn. Tuy nhiên, chỉ có nhóm thứ nhất, tức nhóm vừa vận động vừa viết ra đã cho thấy những bằng chứng rõ ràng: sức khỏe thể chất tốt hơn, điểm trung bình được cải thiện nghiên cứu không đánh giá các triệu chứng PTSD cụ thể). Pennebaker và Krantz kết luận: “Chỉ diễn đạt sang chấn là chưa đủ. Sức khỏe dường như yêu cầu ta phải diễn giải trải nghiệm thông qua ngôn ngữ”.

Tuy nhiên, chúng ta vẫn không biết kết luận này - ngôn ngữ là cần thiết để chữa lành - có phải luôn luôn đúng hay không. Những nghiên cứu về liệu pháp viết chỉ tập trung vào những triệu chứng của PTSD (khác với tình trạng sức khỏe tổng quát) lại cho những kết quả đáng thất vọng. Khi tôi thảo luận điều này với Pennebaker, ông cảnh báo tôi rằng hầu hết các nghiên cứu về liệu pháp viết cho bệnh nhân PTSD đều được thực hiện trong các nhóm nơi người tham gia được yêu cầu chia sẻ những câu chuyện của họ. Ông nhắc lại điểm tôi đã nói ở trên – rằng mục tiêu của liệu pháp viết là viết cho chính mình, để cho bản thân bạn biết về những gì bạn đã cố tránh né.

⚝ ✽ ⚝

GIỚI HẠN CỦA NGÔN NGỮ

Sang chấn thường khiến người kể lẫn người nghe cảm thấy bị quá tải. Trong nghiên cứu The Great War in Modern Memory (Cuộc chiến vĩ đại trong bộ nhớ hiện đại) của Paul Fussell về Thế chiến thứ hai, ông nhận xét rõ ràng về vùng im lặng mà sang chấn tạo ra:

Một trong những điểm mấu chốt của chiến tranh... là sự va chạm giữa các sự kiện và ngôn ngữ – hay những suy nghĩ thích hợp – dùng để mô tả sự kiện đó... Về mặt logic, không có lý do nào khiến ngôn ngữ tiếng Anh không thể phản ánh đúng thực tế của... chiến tranh: Nó rất phong phú về từ ngữ như máu, khủng bố, khổ sở, điên cuồng, tàn bạo, tàn nhẫn, giết người, đau đớn và lừa dối, cũng như những cụm từ như nổ bay chân, la hét cả đêm, chảy máu đến chết... Vấn đề không phải là “ngôn ngữ”... Nguyên nhân [của việc binh lính trở nên câm lặng chính là việc những người lính phát hiện chẳng ai quan tâm đến những tin xấu mà họ thuật lại. Có người nghe nào lại muốn mình tan nát và run rẩy khi mà họ không cần phải như thế? Chúng ta đã biến không thể diễn tả được thành không thể tả xiết: Nó thực sự nghĩa là xấu xa. 20

Không phải cứ kể ra những sự kiện đau đớn là giúp nạn nhân kết nối được với cộng đồng, thậm chí nhiều khi còn gây ra điều ngược lại. Gia đình và các tổ chức có thể từ chối các thành viên ăn mặc bẩn thỉu, bạn bè và người thân có thể mất kiên nhẫn với những người bị mắc kẹt trong nỗi buồn hoặc đau đớn. Đây là một trong những lý do khiến nạn nhân bị sang chấn thường ít giao tiếp và tại sao họ đã biên tập lại câu chuyện của mình để người khác dễ chấp nhận và cứ thế mà kể vanh vách.

Tìm được một nơi để họ thấy an toàn mà kể lại nỗi đau của mình quả là một thử thách to lớn. Đấy là lý do tại sao các nhóm như Hiệp hội người Nghiện rượu ẩn danh (Alcoholics Anonymous - AA), Trẻ em Nghiện rượu (Children for Alcoholics), Hiệp hội người nghiện thuốc lá ẩn danh (Narcotics Anonymous) và các nhóm hỗ trợ khác có thể rất quan trọng. Có một cộng đồng nhiệt tình để bạn tiết lộ sự thật sẽ giúp việc chữa lành trở nên khả thi. Đó cũng là lý do những người sống sót cần các chuyên gia được đào tạo lành nghề để lắng nghe các chi tiết đau đớn trong cuộc sống của họ.

Tôi nhớ lại lần đầu tiên một cựu chiến binh nói với tôi chuyện anh đã giết một đứa trẻ ở Việt Nam. Tôi đã có một hồi tưởng rõ nét hồi năm tôi lên 7 tuổi, hôm ấy cha tôi nói với tôi rằng một đứa trẻ nhà bên đã bị quân Đức Quốc xã đánh chết ngay trước nhà chúng tôi vì đứa trẻ đó tỏ ra thiếu tôn trọng quân Đức Quốc xã. Vì nhớ về ký ức ấy nên tôi đã có phản ứng mạnh khi nghe lời thú tội của người cựu chiến binh, thế nên tôi quyết định kết thúc sớm buổi gặp mặt. Đó là lý do tại sao các nhà trị liệu cần phải thực hiện phương pháp điều trị chuyên sâu của mình, để họ có thể chăm sóc bản thân và luôn giữ được tình cảm đối với bệnh nhân, ngay cả khi những câu chuyện bệnh nhân kể khiến họ thịnh nộ hay ghê tởm.

Một vấn đề khác nảy sinh khi nạn nhân bị sang chấn không thể thốt nên lời do khu vực ngôn ngữ của não ngừng hoạt động. Tôi đã chứng kiến việc này tại các phiên tòa xét xử những vụ án nhập cư và trong vụ kết tội một tên giết người hàng loạt ở Rwanda. Khi được yêu cầu làm chứng, nạn nhân thường bị choáng ngợp đến nỗi họ hầu như không thể nói được gì hoặc bị những cơn hoảng loạn xâm chiếm khiến họ không thể nói rõ điều gì đã xảy ra với họ. Lời khai của họ thường bị bác bỏ vì bị xem là quá lộn xộn, rời rạc, không đáng tin cậy.

Những người khác cố gắng kể lại câu chuyện của họ theo cách có thể giúp họ không bị kích động. Điều này có thể khiến họ trở thành những nhân chứng không đáng tin cậy. Tôi đã thấy hàng tá vụ kiện pháp lý bị bác bỏ vì những người tị nạn không thể đưa ra những lý do rõ ràng cho việc họ bỏ trốn. Tôi cũng đã biết nhiều lời khai của các cựu chiến binh bị Bộ Cựu chiến binh từ chối vì họ không thể nói chính xác những gì đã xảy ra với họ.

Sự nhầm lẫn và im lặng xảy ra rất nhiều trong các phòng trị liệu: Chúng tôi dự đoán được bệnh nhân của chúng tôi sẽ bị choáng ngợp nếu chúng tôi tiếp tục thúc ép họ kể chi tiết câu chuyện của họ. Vì lý do đó, chúng tôi đã học cách cho bệnh nhân phơi nhiễm từ từ các yếu tố sang chấn. Chúng tôi không tránh né việc đối mặt với chi tiết, nhưng chúng tôi dạy cho bệnh nhân cách nhúng một ngón tay vào trong nước một cách an toàn và sau đó lại lấy nó ra, từ đó dần dần đi đến sự thật.

Chúng tôi bắt đầu bằng cách thiết lập “hòn đảo an toàn” bên trong cơ thể. Cụ thể là giúp bệnh nhân xác định các bộ phận của cơ thể, tư thế, hoặc cử chỉ khi họ cảm thấy bị mắc kẹt, sợ hãi hoặc tức giận. Những phần này thường nằm ngoài phạm vi dây thần kinh phế vị, vốn mang những thông điệp hoảng sợ đến ngực, bụng và cổ họng, và chúng có thể trở thành đồng minh trong việc tích hợp sang chấn. Tôi có thể hỏi bệnh nhân rằng cô thấy tay mình có ổn không, nếu cô ấy nói có, tôi sẽ yêu cầu cô ấy cử động tay, khám phá sự nhẹ nhàng và ấm áp và linh hoạt của chúng. Sau đó, nếu tôi thấy ngực cô thắt chặt và hơi thở hầu như biến mất, tôi có thể dừng lại và yêu cầu cô tập trung vào đôi tay và di chuyển chúng, để cô có thể cảm thấy như mình được tách rời khỏi tình huống gây sang chấn. Hoặc tôi có thể yêu cầu cô ấy tập trung vào hơi thở và chú ý đến cách cô ấy có thể thay đổi nó, hoặc yêu cầu cô ấy nâng hạ cánh tay xuống với từng hơi thở – một động tác khí công.

Đối với một số bệnh nhân, tôi yêu cầu họ cảm nhận trọng lượng cơ thể của họ trên ghế hoặc để chân lên sàn nhà, nếu bệnh nhân đang ngồi cúi mình trong im lặng thì tôi yêu cầu họ thử ngồi thẳng lên xem điều gì sẽ xảy ra?”. Một số bệnh nhân khám phá hòn đảo an toàn của họ – họ bắt đầu nhận ra họ có thể tạo cảm giác cơ thể để cân bằng lại phần cảm xúc bị mất kiểm soát. Điều này tạo cơ sở cho việc linh hoạt trong trị liệu sang chấn: dịch chuyển qua lại giữa sự thăm dò và cảm giác an toàn, giữa việc lắng nghe lời nói và việc quan sát ngôn ngữ cơ thể, giữa việc yêu cầu bệnh nhân hồi tưởng quá khứ và ý thức sống trong hiện tại của họ.

⚝ ✽ ⚝

ỦNG PHÓ VỚI THỰC TẠI

Tuy nhiên, tiếp cận với những ký ức sang chấn chỉ là giai đoạn khởi đầu của việc chữa trị. Nhiều nghiên cứu đã phát hiện ra những người bị PTSD nhìn chung có nhiều vấn đề về sự chú ý tập trung và tiếp nhận thông tin mới?4. Alexander McFarlane đã làm một thí nghiệm đơn giản: Ông đã yêu cầu một nhóm người trong một phút hãy tìm các từ bắt đầu bằng chữ cái B, càng nhiều càng tốt. Những người bình thường có thể nói được trung bình mười lăm từ; những người bị PTSD trung bình chỉ nói được ba hoặc bốn từ. Những người bình thường ngần ngại khi bắt gặp các từ mang tính đe dọa như “máu”, “vết thương” hay “hãm hiếp”; những đối tượng bị PTSD của McFarlane cũng có phản ứng ngần ngại y như vậy nhưng với các từ bình thường như “len”, “kem” và “xe đạp”25.

Sau một thời gian, hầu hết những người bị PTSD không còn dành nhiều thời gian hay nỗ lực để đối phó với quá khứ nữa – vấn đề của họ đơn giản chỉ là sống sót cho qua ngày. Ngay cả những bệnh nhân bị sang chấn đang có những đóng góp thiết thực trong việc giảng dạy, kinh doanh, y học hoặc nghệ thuật và những người đang nuôi dạy con cũng thường tốn nhiều năng lượng hơn cho những công việc hằng ngày so với những người bình thường.

Tuy nhiên, một cạm bẫy của ngôn ngữ chính là ảo tưởng của việc có thể dễ dàng sửa chữa suy nghĩ của chúng ta nếu nó không “có ý nghĩa”. Phần “nhận thức” của liệu pháp nhận thức hành vi tập trung vào việc thay đổi “suy nghĩ bất thường” kiểu như thế. Đây là một cách tiếp cận từ trên xuống để thay đổi, trong đó các nhà trị liệu đang thách thức hoặc “đánh giá lại” các nhận thức tiêu cực, như trong “Hãy so sánh cảm xúc của bạn rằng bạn là người có lỗi trong vụ hiếp dâm với thực tế của vấn đề” hoặc “Hãy so sánh nỗi sợ hãi lái xe của bạn với số liệu thống kê về an toàn đường bộ ngày hôm nay.”

Tôi nhớ một người phụ nữ đã từng đau đớn bước vào phòng khám của tôi để nhờ giúp đỡ vì đứa con hai tháng tuổi của cô ấy “quá ích kỷ”. Liệu việc gởi cho cô ấy một tờ thông tin về sự phát triển của trẻ hay giải thích cho cô về lòng vị tha có giúp ích gì cho cô hay không? Thông tin như vậy sẽ không giúp ích gì cho đến khi cô ấy có thể tiếp cận được cái phần trong chính bản thân cô đã sợ hãi, đã bị bỏ rơi – những phần đã được cô thể hiện ra ngoài qua nỗi Sợ hãi về tính phụ thuộc.

Không thể trách vì sao người bị sang chấn lại có những suy nghĩ phi lý: “Tôi bị buộc tội vì quá gợi cảm”, “Những người khác đâu có sợ, họ mới là đàn ông thật sự”, “Lẽ ra tối đừng nên đi vào con đường đó mới phải”. Tốt nhất nên xử lý những ý nghĩ đó như những hồi ức về nhận thức. Chúng là tàn dư của các sự cố gây sang chấn: Những suy nghĩ họ nghĩ đến lúc đó, hoặc ngay sau đó, những sang chấn đã xảy ra được kích hoạt lại trong điều kiện căng thẳng. Một cách điều trị tốt hơn là bằng EMDR, là chủ đề tôi sẽ đề cập ở chương sau.

⚝ ✽ ⚝

TRỞ VỀ VỚI CƠ THỂ CỦA MÌNH

Con người bị quá tải khi kể lại hoặc có hồi tưởng về những chuyện đau thương là bởi bộ não của họ đã thay đổi. Như Freud và Breuer quan sát thấy, sang chấn không chỉ đơn giản hoạt động như một tác nhân gây ra các triệu chứng. Thay vào đó, “sang chấn tâm lý, hoặc chính xác hơn là ký ức của sang chấn, hoạt động như một thực thể ngoại lai mà cho dù nó đã xâm nhập vào từ rất lâu nhưng nó vẫn tiếp tục được xem là một tác nhân đang còn hoạt động”26. Như một mảnh dằm gây nhiễm trùng, phản ứng của cơ thể đối với các đối tượng ngoại lai mới là vấn đề chứ không phải bản thân đối tượng ngoại lại ấy là vấn đề.

Khoa học thần kinh hiện đại ủng hộ mạnh mẽ ý niệm của Freud rằng nhiều suy nghĩ có ý thức của chúng ta là lời biện minh phức tạp cho những bản năng, phản xạ, động cơ, và những ký ức sâu lắng phát sinh từ vô thức. Như chúng ta đã thấy, sang chấn can thiệp vào chức năng của các vùng não dùng để quản lý và giải thích kinh nghiệm. Cảm giác mạnh mẽ về bản thân – thứ giúp cho một người tự tin: “Đây là những gì tôi nghĩ và cảm thấy” và “Đây là chuyện đang xảy ra với tôi” - phụ thuộc vào sự tương tác lành mạnh và năng động giữa các vùng não này.

Hầu như tất cả các nghiên cứu ảnh chụp não của bệnh nhân bị sang chấn cho thấy hoạt động bất thường của thùy đảo (insula). Phần não này kết hợp và diễn giải các dữ liệu đầu vào từ các cơ quan nội tạng - bao gồm cơ, khớp, và hệ thống cân bằng (nhận cảm - proprioceptive) - để tạo ra cảm giác hiện thân. Thùy đảo có thể truyền tín hiệu tới hạch hạnh nhân kích hoạt phản ứng chiến đấu / chạy trốn. Điều này không cần phải có tín hiệu nhận thức đầu vào hoặc nhận thức có ý thức để nói rằng có gì đó không ổn – bạn chỉ cảm thấy đang ở trong tình thế nguy khốn và không thể tập trung, hoặc tệ hơn là bạn thấy mình sắp chết tới nơi. Những cảm giác mạnh mẽ này được tạo ra từ sâu bên trong não và không thể bị loại trừ bởi lý trí hoặc sự hiểu biết.

Liên tục bị những cảm giác của cơ thể hành hạ như thế sẽ gây ra chứng mù cảm xúc: tức là không thể cảm thấy và không thể diễn tả những gì đang xảy ra với mình. Chỉ bằng cách kết nối với cơ thể thông qua cách kết nối với phần bên trong của bản thân, bạn mới có thể lấy lại cảm giác mình là ai, những ưu tiên và giá trị của bạn. Mù cảm xúc, phân ly và ngưng tiếp nhận thông tin cảm giác, tất cả đều liên quan đến các cấu trúc não giúp chúng ta tập trung, biết chúng ta cảm nhận điều gì và hành động để tự bảo vệ mình. Khi các cấu trúc não này bị tổn thương mà không thể trốn chạy, bạn sẽ rơi vào tình trạng băn khoăn, nhầm lẫn, kích động hoặc có thể là vô cảm, những tình trạng này thường kèm theo những trải nghiệm thoát ly cơ thể - nghĩa là bạn cảm thấy mình đang quan sát chính mình từ xa. Nói cách khác, sang chấn làm người ta cảm thấy mình như có một cơ thể khác, hoặc không có cơ thể nào cả. Để khắc phục sang chấn, bạn cần được giúp đỡ để kết nối lại với cơ thể của bạn, với bản ngã của bạn.

Tất nhiên, ngôn ngữ là điều cần thiết: Ý thức về tự ngã của chúng ta phụ thuộc vào khả năng sắp xếp ký ức thành một phần tổng thể liền mạch”. Điều này đòi hỏi sự kết nối giữa phần não có ý thức và hệ thống tự thân của cơ thể – những liên kết thường bị tổn thương do sang chấn. Bạn chỉ có thể kể ra đầy đủ câu chuyện của mình khi những cấu trúc này được sửa chữa và sau khi nền tảng đã được thiết lập: từ chỗ cảm thấy mình không có cơ thể đến khi trở về được với cơ thể của chính mình.