PHẦN V CON ĐƯỜNG HỒI PHỤC Chương 13 HỒI PHỤC SAU SANG CHẤN: LÀM CHỦ CHÍNH MÌNH
Tôi không tìm đến phép trị liệu để xem mình có phải là người điên
Hằng tuần, tôi đến và tôi tìm chỉ một câu trả lời duy nhất Và khi tôi nói về trị liệu tâm lý, tôi biết mọi người nghĩ gì Rằng nó chỉ khiến bạn trở nên ích kỷ và xiêu lòng với tay trị liệu lang băm
Nhưng thật ra, tôi còn yêu những người khác rất nhiều Khi tôi có thể nói về mình thật nhiều.
Dar Williams, What Do You Hear in These Sounds (Bạn lắng nghe gì từ những âm thanh ấy)
Không ai có thể “chữa lành” chiến tranh, lạm dụng, cưỡng hiếp, ngược đãi hoặc sự kiện khủng khiếp nào khác. Chuyện gì đã xảy ra thì không thể cứu vãn. Nhưng chúng ta có thể đương đầu với những dấu ấn của sang chấn khắc sâu trên cơ thể, tâm trí và tâm hồn. Đó là những cảm giác nặng nề trong ngực mà bạn có thể gọi là lo lắng hoặc trầm cảm, là nỗi sợ mất kiểm soát, là luôn luôn cảnh giác về sự nguy hiểm hoặc bị từ chối, là tự ghê tởm bản thân, là những cơn ác mộng và những lần hồi tưởng là màn sương mù trong tâm trí khiến bạn không thể tập trung vào công việc, là không thể rộng mở trái tim trước một người khác.
Sang chấn khiến bạn không thể tự chủ (trong các chương tiếp theo, tôi sẽ gọi tự chủ là sự tự lãnh đạo bản thân).. Phục hồi sau sang chấn là giành lại quyền làm chủ cơ thể và tâm trí để bạn được tự do biết những gì bạn biết, cảm thấy những gì bạn cảm thấy mà không bị choáng ngợp, tức giận, xấu hổ hoặc suy sụp. Với hầu hết mọi người, để lại làm chủ bản thân họ cần: (1) tìm cách để bình tĩnh và tập trung, (2) học cách duy trì sự bình tĩnh đó khi phản ứng với những hình ảnh, suy nghĩ, âm thanh hoặc những cảm giác thể chất gợi bạn nhớ lại quá khứ, (3) tìm ra một con đường để sống trọn vẹn trong hiện tại và gắn bó với những người xung quanh, (4) không phải giữ bí mật về bản thân nữa, kể cả những bí mật về cách giúp bạn xoay xở để sống sót.
Bốn bước này thường chồng chéo lên nhau, thực hiện khó đến đâu còn tùy vào hoàn cảnh mỗi người. Tôi đã thực hiện các nghiên cứu khoa học về nhiều phương pháp điều trị tối mô tả ở đây và đã công bố các kết quả nghiên cứu trong các tạp chí khoa học được đánh giá bởi đồng nghiệp của mình”.
⚝ ✽ ⚝
TRỌNG TÂM MỚI CỦA VIỆC HỒI PHỤCTa thường bắt đầu nói về sang chấn bằng cách kể một câu chuyện hoặc đặt ra một câu hỏi dành cho bệnh nhân, ví dụ như: “Chuyện gì đã xảy ra trong chiến tranh?”, “Bạn có bao giờ bị xâm hại chưa?”, “Để tôi kể cho bạn nghe về vụ tai nạn/hãm hiếp đó” hoặc “Có ai trong gia đình bạn nghiện rượu không?”. Tuy nhiên, sang chấn không chỉ là một câu chuyện về một điều gì đó xảy ra từ lâu. Cảm xúc và cảm giác thể chất đã được khắc sâu trong suốt sang chấn không phải là những ký ức mà là những phản ứng thể chất gây rối xảy ra ngay trong hiện tại.
Để giành lại quyền kiểm soát bản thân, bạn cần phải xem lại sang chấn: Sớm muộn gì bạn cũng phải đối đầu với những gì đã xảy ra với bạn, nhưng chỉ sau khi bạn cảm thấy an toàn và sẽ không bị nó khiến bạn tái sang chấn lần nữa. Việc đầu tiên là tìm cách đối phó với cảm xúc bị áp đảo bởi những cảm giác và cảm xúc gắn liền với chuyện quá khứ ấy.
Động cơ của phản ứng hậu sang chấn nằm trong phần não cảm xúc. Trái ngược với bộ não lý trí vốn thể hiện trong suy nghĩ, não cảm xúc thể hiện trong phản ứng của thể chất: cảm giác quặn ruột, tim đập mạnh, nhịp thở nhanh và nông, cảm xúc đau tức ngực, giọng nói cao, khó nghe, và các cử chỉ cơ thể đặc trưng cho thấy sự sụp đổ, co cứng, tức giận hoặc phòng thủ.
Bộ não lý trí giúp chúng ta hiểu những cảm xúc từ đâu mà có (ví dụ: “Tôi sợ hãi khi đến gần một người đàn ông vì tôi từng bị bố tôi xâm hại” hoặc “Tôi rất khó bày tỏ tình yêu thương của mình đối với con trai tôi vì tôi cảm thấy tội lỗi do đã giết chết một đứa trẻ ở Iraq”). Tuy nhiên, phần não lý trí không thể triệt tiêu được cảm xúc, cảm giác, hoặc những suy nghĩ như sống với cảm giác rất ít về mối đe dọa hoặc cảm thấy rằng bạn, về cơ bản, là một người tồi tệ, mặc dù bạn biết rằng mình không có lỗi khi bị hãm hiếp).
Việc hiểu ra tại sao bạn cảm thấy như thế tuy không thể làm thay đổi cảm giác của bạn, nhưng nó có thể ngăn bạn bị cuốn theo những phản ứng dữ dội (ví dụ ngăn bạn tấn công ông chủ – người khiến bạn nhớ đến thủ phạm gây ra chuyện khủng khiếp với bạn năm xưa, ngăn bạn chia tay với người yêu sau lần bất đồng đầu tiên, hoặc ngăn bạn lao vào vòng tay của một người lạ mặt). Tuy nhiên, chúng ta càng đau khổ thì bộ não lý trí càng bị lệch lạc với cảm xúc.
⚝ ✽ ⚝
TRỊ LIỆU HỆ VIỀNVấn đề cơ bản trong giải quyết stress sau sang chấn là khôi phục lại sự cân bằng hợp lý giữa bộ não lý trí và bộ não cảm xúc, để bạn có thể cảm thấy tự chủ về cách bạn phản ứng và điều khiển cuộc sống của mình. Khi ở trạng thái kích động mạnh, chúng ta sẽ bị đẩy ra khỏi “ngưỡng chịu đựng”4. Chúng ta bị phản ứng ngược và rối loạn, bộ lọc của chúng ta ngừng hoạt động, âm thanh và ánh sáng làm phiền chúng ta, hình ảnh không mong muốn từ quá khứ xâm nhập vào tâm trí của chúng ta, và rồi chúng ta hốt hoảng hoặc nổi Cơn thịnh nộ. Nếu ngừng tiếp nhận các cảm giác, chúng ta sẽ thấy trống rỗng trong cơ thể và tâm trí, suy nghĩ trở nên chậm chạp và gặp khó khăn khi phải di chuyển.
Con người không thể học hỏi từ những trải nghiệm nếu họ bị kích thích quá mức hoặc ngừng tiếp nhận các cảm giác. Thậm chí nếu họ xoay xở để tự chủ được thì họ cũng quá căng thẳng đến mức trở nên cứng nhắc, bướng bỉnh và chán nản. Phục hồi từ sang chấn liên quan đến việc khôi phục lại chức năng điều hành, sự tự tin và khả năng vui chơi, sáng tạo.
⚝ ✽ ⚝
PIC
Nếu chúng ta muốn thay đổi phản ứng hậu sang chấn, chúng ta phải tiếp cận phần não cảm xúc và làm “liệu pháp hệ viền” (limbic system therapy): Sửa chữa các hệ thống báo động bị lỗi và phục hồi phần não cảm xúc trở về công việc bình thường của nó là làm một khung nền yên tĩnh để chăm sóc cơ thể, đảm bảo rằng bạn ăn, ngủ, kết nối với những người thân thiết, bảo vệ con cái và tự vệ trước những hiểm nguy.
Nhà thần kinh học Joseph LeDoux và các cộng sự đã chỉ ra cách duy nhất chúng ta có thể tiếp cận phần não cảm xúc một cách có ý thức là thông qua sự tự nhận thức, nghĩa là bằng cách kích hoạt vùng giữa của vỏ não trán trước, phần não thông báo những gì đang diễn ra bên trong chúng ta và do đó cho phép chúng ta cảm nhận những gì chúng ta đang cảm nhận. (Thuật ngữ cho điều này là “nội cảm” (interoception) – tiếng Latin nghĩa là “nhìn vào bên trong”). Hầu hết bộ não có ý thức của chúng ta được dành để tập trung vào thế giới bên ngoài: hòa hợp với người khác và lập kế hoạch cho tương lai. Tuy nhiên, điều đó không giúp chúng ta tự quản lý bản thân mình. Nghiên cứu khoa học thần kinh cho thấy cách duy nhất chúng ta có thể thay đổi cách mình cảm nhận là nhận thức được kinh nghiệm bên trong của chúng ta và học hỏi để làm quen với những gì đang diễn ra bên trong chính chúng ta.
⚝ ✽ ⚝
BẦU BẠN VỚI BỘ NÃO CẢM XÚC1. ĐỐI PHÓ VỚI SỰ KÍCH THÍCH QUÁ MỨC
Trong vài thập kỷ qua, tâm thần học chính thống đã chú ý về việc sử dụng thuốc để thay đổi cách chúng ta cảm nhận, và điều này đã trở thành phương thức được chấp nhận để đối phó với chứng kích thích quá mức (hyperarousal).
Tôi cần nhấn mạnh rằng con người có rất nhiều kỹ năng sẵn có để giữ cho tâm lý mình ổn định, vững chắc. Trong chương 5, chúng ta đã thấy cảm xúc được ghi nhận trong cơ thể như thế nào. Khoảng 80% các sợi của thần kinh phế vị (kết nối não bộ với nhiều cơ quan nội tạng) là có liên quan; nghĩa là chúng chạy từ cơ thể sang nãoº. Điều này có nghĩa chúng ta có thể trực tiếp huấn luyện hệ thống kích thích của mình bằng cách hít thở, hát và cử động.
Trong các nghiên cứu do Viện Sức khỏe Quốc gia (National Institutes of Health) hỗ trợ, tôi và các đồng nghiệp đã chỉ ra rằng 10 tuần thực hành yoga sẽ giúp làm giảm rõ rệt các triệu chứng PTSD ở những bệnh nhân không đáp ứng với bất kỳ loại thuốc nào hoặc bất kỳ cách điều trị nào khác?. (Tôi sẽ thảo luận về yoga trong chương 16.) Phản hồi thần kinh (neurofeedback), chủ đề của chương 19, cũng có thể có hiệu quả đặc biệt đối với trẻ em và người lớn bị kích thích quá mức hoặc ngừng tiếp nhận thông tin về cảm giác, những triệu chứng khiến họ khó tập trung”.
Học cách hít thở bình tĩnh và duy trì trạng thái thư giãn tương đối về thể chất, thậm chí ngay cả trong khi nhớ lại những kỷ niệm đau đớn và khủng khiếp, là một công cụ cần thiết để hồi phục. Khi bạn chú ý hít thở chậm và sâu, bạn sẽ nhận thấy những ảnh hưởng của hệ thần kinh đối giao cảm lên tình trạng bị kích thích của bạn (như đã giải thích trong chương 5). Tập trung càng nhiều vào hơi thở sẽ càng tốt cho bạn, đặc biệt nếu bạn chú ý đến tận cùng của hơi thở ra và sau đó đợi một lát trước khi bạn hít vào lần nữa. Khi bạn tiếp tục hít thở và chú ý luồng khí vào ra phổi, bạn có thể nghĩ đến vai trò của khí oxy trong việc nuôi dưỡng cơ thể và tắm táp cơ thể bằng năng lượng cần thiết để bạn cảm thấy sống động và hăng hái. Chương 16 mô tả các tác động toàn thân của phương pháp thực hành đơn giản này.
Điều chỉnh cảm xúc là vấn đề quan trọng trong việc quản lý các ảnh hưởng của sang chấn, thế nên, mọi chuyện sẽ khác đi rất nhiều, nếu các giáo viên, sĩ quan quân đội, cha mẹ nuôi và các chuyên gia về sức khỏe tâm thần được hướng dẫn thấu đáo về các kỹ thuật điều chỉnh cảm xúc. Hiện nay, hầu như chỉ có giáo viên mầm non và mẫu giáo được huấn luyện kỹ thuật này để kiểm soát những hành vi bốc đồng của con trẻ 10.
Ngoài yoga, những bộ môn mang tính truyền thống khác hiện đang được nghiên cứu để sử dụng trong điều trị PTSD như thái cực quyền, khí công, đánh trống kiểu châu Phi, Aikido, Judo, Tae Kwon do, Kendo, Jujitsu, Capoeira từ Brazil,... Những bộ môn này liên quan đến vận động thể chất, hô hấp và thiền định.
2. KHÔNG CÓ TÂM TRÍ NÀO KHÔNG LIÊN TỤC SUY NGHĨ
Trọng tâm của sự hồi phục là tự nhận thức. Các cụm từ quan trọng nhất trong liệu pháp trị liệu sang chấn là “Chú ý đến” và “Điều gì xảy ra tiếp theo?”. Những người bị sang chấn sống với những cảm giác dường như không chịu nổi: Họ cảm thấy đau tức ngực và chịu đựng cảm giác khó chịu tận sâu trong bụng hay lồng ngực. Tuy nhiên, việc tránh né cảm nhận những cảm giác này trong cơ thể chỉ khiến chúng ta dễ bị những cảm giác ấy lấn át.
Nhận thức về cơ thể tức là ta đang kết nối với thế giới bên trong ta. Chỉ cần để ý đến sự bực bội, sợ hãi, lo lắng của mình, ta sẽ lập tức thay đổi quan điểm cá nhân và có những lựa chọn phản ứng mới ngoài những phản ứng tự động theo thói quen. Chánh niệm giúp ta nhận ra tính chất nhất thời của cảm xúc và nhận thức của chúng ta. Khi tập trung chú ý vào cảm giác của cơ thể, chúng ta có thể nhận ra những dòng chảy cảm xúc, nhờ đó tăng sự kiểm soát của chúng ta đối với chúng.
Những người bị sang chấn thường SỢ phải cảm nhận những cảm giác thể chất của mình vì bây giờ chúng như những kẻ thù. Và vì sợ hãi nên cơ thể họ đông cứng lại, tâm trí họ cũng đóng kín. Dù sang chấn là chuyện đã qua, nhưng phần não cảm xúc tiếp tục tạo ra cảm giác làm cho họ cảm thấy sợ hãi và bất lực. Không có gì ngạc nhiên khi rất nhiều người bị sang chấn đã mắc chứng cuồng ăn uống, nghiện rượu, sợ quan hệ tình dục và tránh né nhiều hoạt động xã hội.
Để thay đổi, bạn cần phải mở lòng để trải nghiệm những gì đang diễn ra bên trong cơ thể mình. Bước đầu tiên là hãy để tâm trí bạn tập trung vào cảm giác của bạn và nhận thấy rằng những cảm giác cơ thể đều ngắn ngủi và đáp ứng lại với sự dịch chuyển nhẹ nhàng về vị trí của cơ thể, sự thay đổi trong nhịp thở, sự thay đổi trong suy nghĩ.
Một khi bạn chú ý đến cảm giác thể chất của mình rồi, bước tiếp theo là mô tả chúng, ví dụ: “Khi lo lắng, tôi cảm thấy lồng ngực mình như đang vỡ ra”. Sau đó, tôi có thể nói với bệnh nhân: “Hãy tập trung vào cảm giác đó và xem nó thay đổi như thế nào khi bạn hít một hơi thật sâu, hoặc khi bạn chạm tay nhẹ vào phần ngực ngay dưới xương đòn, hoặc khi bạn cho phép mình khóc”. Thực hành chánh niệm sẽ giúp làm dịu hệ thần kinh giao cảm, vì vậy bạn sẽ ít rơi vào trạng thái cảm thấy phải chiến đấu hoặc chạy trốn. Học cách quan sát và chấp nhận các phản ứng cơ thể là điều kiện tiên quyết để xem xét lại quá khứ một cách an toàn. Nếu bạn không thể chấp nhận những gì bạn đang cảm thấy ngay bây giờ thì việc mở ra quá khứ sẽ chỉ làm bạn đau khổ và tiếp tục tổn thương thêm mà thôi.
Miễn là ta còn nhận thức được rằng cơ thể mình đang không ngừng biến động thì ta sẽ còn chấp nhận được những cảm giác khó chịu trong cơ thể. Bạn thấy tức ngực, nhưng sau khi hít một hơi thật sâu và thở ra, cảm giác đó dịu đi và bạn có thể cảm thấy một cảm giác khác, ví dụ vai căng ra. Bây giờ bạn có thể bắt đầu khám phá những gì xảy ra khi bạn hít thở sâu hơn và chú ý đến khung sườn của bạn sẽ giãn ra. Một khi bạn cảm thấy bình tĩnh hơn và tò mò hơn, bạn có thể quay trở lại với cảm giác ở vai. Bạn đừng ngạc nhiên khi thấy đôi vai của mình lại dính líu một cách nào đó với một ký ức xa xưa tự dưng trỗi dậy.
Bước tiếp theo là quan sát sự tương tác giữa suy nghĩ và cảm giác cơ thể của bạn. Những suy nghĩ riêng biệt được ghi nhận lại trong cơ thể bạn như thế nào? (Những suy nghĩ như “Bố tôi yêu tôi” hoặc “Bạn gái tôi bỏ rơi tôi” có khiến bạn có những cảm giác khác nhau không?). Nhận thức được cách thức cơ thể của bạn sắp xếp những cảm xúc và ký ức cụ thể giúp mở ra khả năng giải phóng những cảm giác và sự thôi thúc trong vô thức mà bạn từng kìm lại để tồn tại. Trong chương 20, nói về lợi ích của kịch nghệ, tôi sẽ mô tả chi tiết hơn.
Jon Kabat-Zinn - một trong những người tiên phong trong y học thân-tâm – đã thành lập chương trình Giảm stress bằng Chánh niệm (Mindfulness-Based Stress Reduction - MBSR) tại Trung tâm Y tế Đại học Massachusetts vào năm 1979. Phương pháp này của ông đã được nghiên cứu kỹ lưỡng trong hơn ba thập kỷ qua. Ông mô tả chánh niệm như sau: “Một cách để suy nghĩ về quá trình chuyển hóa này là hãy xem chánh niệm như một ống kính, lấy các năng lượng phân tán và phản ứng trong tâm trí của bạn và tập trung chúng vào một nguồn năng lượng liền mạch để sống, để giải quyết vấn đề và để chữa lành”15.
Chánh niệm đã được chứng minh có ảnh hưởng tích cực đến các triệu chứng bệnh tâm thần, bệnh tâm thể (psychosomatic) và liên quan đến stress bao gồm trầm cảm và đau mạn tính 16. Nó có ảnh hưởng rộng lên sức khỏe thể chất, bao gồm cải thiện đáp ứng miễn dịch, huyết áp và mức cortisolº. Chánh niệm cũng kích hoạt các vùng não liên quan đến sự điều tiết cảm xúc 18 và dẫn đến những thay đổi trong các khu vực liên quan đến nhận thức về cơ thể và sự Sợ hãi 19.
Các nghiên cứu của Britta Holzel và Sara Lazar cho thấy việc thực hành chánh niệm thậm chí làm giảm hoạt động hệ thống báo động của bộ não, hạch hạnh nhân, và do đó làm giảm phản ứng đối với những yếu tố tiềm tàng.
3. NHỮNG MỐI QUAN HỆ
Hàng loạt nghiên cứu cho thấy rằng có một mạng lưới hỗ trợ tốt tạo thành sự bảo vệ mạnh mẽ nhất chống lại việc bị sang chấn. Cảm giác an toàn có thể khắc chế được cảm giác sợ hãi. Khi chúng ta sợ hãi, chỉ có tiếng trấn an hay cái ôm chặt của người mà ta tin cậy mới có thể làm ta bình tĩnh lại. Khi sợ hãi, người lớn cũng thích được vỗ về y hệt như trẻ con, nghĩa là thích có ai ôm ấp mình, vỗ về, thích được đảm bảo rằng ai đó lớn hơn mình, mạnh mẽ hơn mình sẽ lo liệu mọi thứ, để mình có thể yên tâm đi ngủ một cách bình yên. Để phục hồi sau sang chấn, tâm trí, cơ thể và não cần phải được thuyết phục rằng chúng sẽ hoàn toàn an toàn khi buông bỏ ký ức đau thương. Điều đó chỉ xảy ra khi bạn cảm thấy an toàn từ bên trong cơ thể và cho phép bạn kết nối cảm giác an toàn với những ký ức về quá khứ bất lực.
Sau một sang chấn cấp tính, ví dụ như bị tấn công, gặp tai nạn hoặc thiên tai, những người sống sót mong muốn được trông thấy khuôn mặt và nghe giọng nói của người thân, được chạm vào, được tiếp xúc cơ thể với người thân, được ăn uống, được ở nơi trú ẩn an toàn và có thời gian để ngủ. Những người bị sang chấn rất cần được sớm liên lạc với những người thân yêu gần xa, sớm đoàn tụ với gia đình và bạn bè ở một nơi họ cảm thấy an toàn. Những mối quan hệ thân thiết chính là hàng rào bảo vệ kiên cố nhất giúp ta chống lại mối đe dọa. Ví dụ, những trẻ em bị tách khỏi cha mẹ sau khi trẻ gặp một sự kiện sang chấn có thể sẽ phải chịu những ảnh hưởng tiêu cực nghiêm trọng kéo dài.
Các nghiên cứu tiến hành trong Thế chiến thứ hai tại Anh cho thấy những trẻ em sống ở London được di tản đến vùng nông thôn để tránh cuộc ném bom của Đức đã có nhiều chuyển biến tệ hại hơn so với những trẻ em ở lại với cha mẹ, dù khi ở lại đồng nghĩa với việc chúng phải chịu đựng những đêm trong hầm tránh bom và phải chứng kiến những hình ảnh đáng sợ của các tòa nhà bị phá hủy và người chết 21.
Những người bị sang chấn đã hồi phục khi họ có mối quan hệ như gia đình, người thân, các tổ chức cựu chiến binh, các tổ chức tôn giáo, các nhà trị liệu chuyên nghiệp. Vai trò của những mối quan hệ đó là giúp người bị sang chấn cảm thấy an toàn về thể xác và tinh thần, giúp họ vững vàng trước cảm giác xấu hổ, những lời rầy la hoặc những lời bình phẩm, giúp họ can đảm chịu đựng, đối mặt và xử lý những gì đang xảy ra hơn.
Phần lớn các nối kết hoạt động thần kinh của chúng ta đều dành cho việc trở nên đồng điệu với những người khác. Sự phục hồi từ sang chấn liên quan đến việc (tái) kết nối với người khác. Đây là lý do tại sao sang chấn xảy ra trong những mối quan hệ thường khó chữa trị hơn sang chấn do tai nạn giao thông hoặc do thiên tai.
Trong xã hội chúng ta, những sang chấn phổ biến nhất ở phụ nữ và trẻ em thường là do cha mẹ hoặc đối tượng thân thiết của họ gây ra. Những người bạc đãi trẻ em, lạm dụng tình dục trẻ em, gây ra bạo lực gia đình đều chính là những người lẽ ra phải yêu thương trẻ em. Chính điều này khiến trẻ mất đi hàng rào bảo vệ quan trọng nhất để chống lại sang chấn.
Nếu những người vốn dĩ phải quan tâm chăm sóc và bảo vệ bạn lại chính là người từ chối bạn, hoặc làm bạn sợ hãi, thì bạn sẽ học cách ngừng tiếp nhận thông tin cảm giác và bỏ qua những gì bạn đang cảm thấy”?. Bạn loay hoay tìm cách đối phó với cảm giác sợ hãi, tức giận, thất vọng của mình. Tự quản lý nỗi sợ làm nảy sinh một số vấn đề như sự phân ly, tuyệt vọng, nghiện ngập, cảm giác hoảng sợ kéo dài, những mối quan hệ bất hòa, rời rạc và sự bùng nổ. Bệnh nhân có những tiền sử này hiếm khi kết nối được những gì đã xảy ra với họ từ lâu với những cảm xúc, hành vi của họ trong hiện tại. Mọi thứ dường như nằm ngoài tầm kiểm soát.
Họ sẽ không thể đi qua sang chấn nếu không thừa nhận những gì đã xảy ra và nhận ra những con quỷ vô hình mà họ đang vật lộn với chúng. Nhiều người cảm thấy rất hổ thẹn: “Khi hiểu về tôi thì bạn sẽ thấy tôi thối nát và ghê tởm thế nào”. Những sang chấn chưa được giải quyết có thể tác động xấu đến các mối quan hệ. Ví dụ như bạn bị người yêu bạo hành, bạn sẽ sợ yêu người mới vì lại sợ đau thêm lần nữa. Và nhiều khả năng bạn sẽ vô tình làm tổn thương người mới trước khi họ có cơ hội làm bạn tổn thương.
Khi bạn có thể thu hết can đảm để đối mặt và lắng nghe những thanh âm từ thế giới nội tâm của mình, bạn cần tìm một người trợ giúp đáng tin cậy. Người có thể giữ vững cảm xúc của bạn và giúp bạn lắng nghe những thông điệp đau đớn từ bộ não cảm xúc của bạn. Người đó không sợ những cơn khiếp đảm của bạn, có thể chịu đựng Cơn thịnh nộ của bạn, có thể bảo vệ cho bạn trong khi bạn khám phá những trải nghiệm bị phân mảnh mà bạn phải giữ bí mật từ chính bản thân mình trong một thời gian dài. Hầu hết những người bị sang chấn đều cần một điểm tựa đáng tin và cần được huấn luyện nhiều để thực hiện được việc này.
Chọn lựa chuyên gia trị liệu
Các nhà trị liệu sang chấn được đào tạo bài bản có thể làm được ba việc sau: (1) giúp bệnh nhân ổn định và bình tĩnh, (2) giúp cho những ký ức ám ảnh được an nghỉ mãi mãi, (3) tái kết nối bệnh nhân với những người đàn ông và phụ nữ của họ. Lý tưởng là chính nhà trị liệu cũng sẽ được hưởng lợi khi thực hiện liệu pháp điều trị cho bệnh nhân.
Hoàn toàn hợp lý khi bệnh nhân hỏi nhà trị liệu sang chấn về nơi nhà trị liệu đã theo học, về phương pháp trị liệu họ được đào tạo, về việc họ có hưởng lợi từ chính liệu pháp mà họ đề nghị sẽ áp dụng để chữa trị cho bệnh nhân.
Có rất nhiều liệu pháp để trị liệu sang chấn, thế nên bạn cần cẩn trọng với nhà trị liệu sang chấn nào đó cứ khăng khăng rằng chỉ có phương pháp đặc biệt của họ là giải pháp duy nhất. Nhà trị liệu cần có tư duy cởi mở, cần sẵn sàng học hỏi từ bệnh nhân.
Bạn cần tự hỏi có cảm thấy thoải mái với nhà trị liệu này hay không? Liệu nhà trị liệu có cảm thấy thoải mái bộc lộ chính mình với bạn như một người bạn không? Cảm thấy an toàn với người trị liệu là điều kiện cần thiết để bạn đối mặt với những nỗi sợ và lo âu của bạn. Một nhà trị liệu nghiêm khắc, hay phê phán, xúc động hoặc quá khắc nghiệt có thể khiến bạn cảm thấy sợ hãi, bị bỏ rơi và bị xúc phạm, và tất nhiên chẳng thể giúp bạn giải quyết được những căng thẳng sang chấn. Khi những cảm xúc cũ từ quá khứ đang khuấy đảo, bạn có thể nghi ngờ rằng nhà trị liệu này giống như một người từng làm bạn đau hoặc lạm dụng bạn.
Tôi hy vọng bạn có thể hợp tác với nhà trị liệu của mình vì theo kinh nghiệm của tôi, bệnh nhân sẽ cải thiện tình hình khi dần có tình cảm sâu sắc theo hướng tích cực đối với nhà trị liệu của họ. Tôi cũng không nghĩ rằng bạn có thể phát triển và thay đổi trừ khi bạn cảm thấy rằng người trị liệu có một số tác động đến bạn.
Câu hỏi quan trọng là: Bạn có cảm thấy rằng nhà trị liệu của bạn tò mò muốn tìm hiểu bạn, muốn biết bạn là ai và bạn cần gì? Nhà trị liệu của bạn có dành thời gian để tìm hiểu lý do tại sao bạn làm những gì bạn làm và suy nghĩ những gì bạn nghĩ không? Trị liệu là một quá trình hợp tác, một sự khám phá lẫn nhau về bản thân bạn.
Những người từng bị người chăm sóc bạc đãi khi còn nhỏ thường không cảm thấy an toàn với bất cứ ai. Tôi thường hỏi bệnh nhân của tôi rằng họ có thể nghĩ đến bất kỳ người nào họ cảm thấy an toàn khi họ lớn lên không. Nhiều người thường nhớ rất rõ người thầy, người hàng xóm, người chủ tiệm, huấn luyện viên, nghĩa là những người đã tỏ ra quan tâm đến họ. Ký ức thường là hạt giống của việc tái gắn kết. Con người vốn tràn đầy hy vọng. Đương đầu với sang chấn liên rạn vỡ. quan đến việc nhớ lại ta đã sống sót như thế nào cũng như điều gì đã
Tôi cũng yêu cầu các bệnh nhân của tôi tưởng tượng họ giống như trẻ sơ sinh, liệu họ sẽ cảm thấy mình đáng yêu hay vẫn cảm thấy nhục nhã, ê chề. Tất cả họ tin rằng họ đã mường tượng được hình ảnh của bản thân mình trước khi họ bị tổn thương.
Một số người không nhớ ra họ từng cảm thấy an toàn với bất cứ ai. Với họ, tiếp xúc với ngựa và chó còn an toàn hơn giao tiếp với con người. Phương pháp dùng động vật để chữa trị sang chấn hiện đang được áp dụng ở nhiều cơ sở điều trị và thu được hiệu quả lớn.
Jennifer là một thành viên đã tốt nghiệp lớp đầu tiên của Van der Kolk Center (Trung tâm Van der Kolk)^3 – người từng tham gia chương trình điều trị sang chấn khi còn là một cô bé 14 tuổi câm lặng, ngoài tầm kiểm soát. Jennifer đã phát biểu trong buổi lễ tốt nghiệp rằng việc được giao trách nhiệm chăm sóc một con ngựa là bước đầu tiên vô cùng quan trọng đối với em. Mối quan hệ ngày càng thân thiết giữa em và chú ngựa ấy đã giúp em cảm thấy đủ an toàn để bắt đầu kết nối với các nhân viên của trung tâm và sau đó tập trung vào việc học, thi SAT và được nhận vào đại học.
4. TÁC DỤNG CHỮA TRỊ CỦA ÂM NHẠC, NHỊP ĐIỆU
Trong quá trình chữa trị cho các bệnh nhân sang chấn, tôi nhận ra âm nhạc, nhảy múa, diễn kịch, vận động, võ thuật có tác dụng chữa trị tuyệt vời, đặc biệt là khi các hoạt động này diễn ra theo nhóm.
Bạn thử hình dung khung cảnh sau, một nhóm phụ nữ từng bị cưỡng hiếp ngồi ủ rũ, lặng người đi. Một người trong số đó bắt đầu ngân nga và đong đưa người qua lại. Những người phụ nữ khác bắt đầu hát theo nho nhỏ. Chẳng mấy chốc, cả nhóm bắt đầu hát, cử động, đứng lên nhảy múa. Gương mặt họ, cơ thể họ trở nên có sức sống.
Trong chương 20, tôi sẽ nói về tác dụng của kịch nghệ đối với nhóm tội phạm thanh thiếu niên và những trẻ em được nuôi dưỡng trong môi trường kém an toàn. Các em này đã cùng tham gia diễn kịch Shakespeare.
Những bệnh nhân khác cho biết họ cảm thấy khá hơn khi tham gia hợp xướng, tập Aikido, nhảy Tango hoặc chơi Kickboxing.
Có lần tôi khám cho một bé gái năm tuổi không nói chuyện tên là Ying Mee. Bé được nhận làm con nuôi từ một trại trẻ mồ côi ở Trung Quốc. Hệ thống gắn kết với nhịp điệu của em không hoạt động, tức em không thể cộng hưởng với giọng nói và khuôn mặt của những người xung quanh. Vậy nên chúng tôi quyết định trị liệu cho em bằng liệu pháp cảm giác vận động (sensorimotor therapy). Chúng tôi cho bé Ying Mee nằm trong nhà banh nhựa để giúp em cảm nhận được những cảm giác trên da mình, cho bé ngồi lên xích đu, trườn bò dưới những tấm chăn nặng. Sau sáu tuần, có gì đó đã thay đổi trong bé và bé bắt đầu nói chuyện với người khác 26.
Chúng tôi cũng phát triển liệu pháp tương tác giữa cha mẹ và con cái (Parent-child interaction therapy - PCIT). Liệu pháp này, giống như phương pháp điều trị điều hòa kích thích cảm giác vận động (Sensory motor arousal regulation treatment – SMART) được phát triển bởi các đồng nghiệp của tôi tại Trung tâm Điều trị Sang chấn 27, giúp cha mẹ và con cái cảm thấy hòa hợp về thể chất và cảm xúc thông qua các hoạt động vui chơi, khám phá. Thông tin có tại http://learnimprov.com.
5. SỰ XÚC CHẠM CHỮA LÀNH
Các loại thuốc như Serotonin, Respiridol và Seroquel ngày càng được trọng dụng để giúp con người đối phó với thế giới cảm giác của họ 28. Tuy nhiên, cách tự nhiên nhất có thể làm dịu đi nỗi đau của chúng ta chính là ai đó chạm vào ta, ôm ấp và vỗ về ta. Những hành động này giúp ta giảm sự phấn khích quá mức, làm cho chúng ta cảm thấy mình còn nguyên vẹn, an toàn, được bảo vệ và tự chủ.
⚝ ✽ ⚝
PIC
Bạn không thể phục hồi hoàn toàn nếu bạn không cảm thấy an toàn khi bị ai đó chạm vào da thịt. Vì vậy, tôi khuyến khích tất cả các bệnh nhân của tôi tham gia vào một số liệu pháp cơ thể, có thể là massage trị liệu, phương pháp Feldenkrais (phương pháp vận động nhẹ nhàng giúp cải thiện ý thức) hoặc phương pháp xoa bóp xương sọ (craniosacral therapy).
Chuyên gia trị liệu cơ thể Licia Sky kể về việc cô ấy điều trị cho những người bị sang chấn như sau: “Tôi không bao giờ bắt tay vào điều trị cho bệnh nhân nếu chưa thiết lập được một mối liên hệ cá nhân với bệnh nhân. Tôi không cố hỏi về lịch sử cá nhân họ, tôi cũng không cố tìm hiểu họ sang chấn như thế nào hoặc chuyện gì đã xảy ra với họ. Tôi kiểm tra xem họ có thật đang ở trong thân xác của họ ngay lúc này không. Tôi hỏi họ xem có điều gì họ muốn tôi lưu tâm đến không. Trong suốt thời gian đó, tôi đang đánh giá tư thế của họ, ví dụ như họ có nhìn thẳng vào mắt tôi không, họ căng thẳng như thế nào, họ có kết nối với tôi hay không.
Điều đầu tiên tôi cần quyết định là xem họ cảm thấy thoải mái khi nằm ngửa hay nằm sấp. Nếu tôi không biết gì về họ, tôi thường đặt họ nằm ngửa. Tôi rất cẩn thận trong việc chọn trang phục, để họ cảm thấy an toàn với bất cứ loại trang phục nào họ muốn mặc trên người. Đây là những ranh giới quan trọng cần được thiết lập ngay từ đầu.
Sau đó, với cái chạm đầu tiên, tôi thiết lập một mối liên kết chắc chắn, an toàn với họ. Không mạnh, không đột ngột, cũng không quá nhanh. Tay tôi di chuyển rất chậm để bệnh nhân dễ dàng nắm bắt, nhẹ nhàng đồng điệu. Lực chạm cỡ như khi ta bắt tay. Những nơi đầu tiên tôi có thể chạm vào là bàn tay và cánh tay của họ, vì đó là nơi an toàn nhất để chạm vào bất cứ ai và cũng là nơi bệnh nhân có thể chạm lại vào tôi.
Người trị liệu phải đáp ứng được điểm kháng cự của bệnh nhân, tức nơi bị căng thẳng nhất, và đáp ứng nó bằng một lượng năng lượng tương đương. Điều đó giải phóng sự căng thẳng. Người trị liệu không nên chần chừ, vì như thế có nghĩa là thiếu tin tưởng vào bản thân mình. Người trị liệu chậm rãi chạm vào bệnh nhân, tập trung chú ý đến bệnh nhân không có nghĩa là người trị liệu đang do dự. Bạn phải chạm vào bệnh nhân với sự tự tin và sự đồng cảm tuyệt vời, hãy để cho áp lực chạm tay của bạn đáp ứng được sự căng thẳng mà họ đang giữ trong cơ thể họ.
Trị liệu cơ thể có lợi ích gì? Licia đáp: “Bệnh nhân có thể rất khát khao được ai đó chạm vào như người khát nước thèm một ly nước vậy. Những cái chạm tự tin, sâu sắc, chắc chắn, nhẹ nhàng, tận tình sẽ khiến bệnh nhân cảm thấy được an ủi, giúp họ khám phá những căng thẳng mà họ đã giữ lâu đến mức không còn nhận thức được nữa. Khi bạn chạm vào phần cơ thể nào đó của bệnh nhân tức là bạn đang đánh thức phần cơ thể đó.
Cơ thể có thể bị “phong tỏa” bởi chính những cảm xúc bên trong. Ví dụ đôi vai của họ co lại, cơ mặt căng lên, họ dồn sức để kìm nước mắt rơi, kìm những âm thanh nức nở. Khi căng thẳng thể chất được giải phóng, cảm xúc cũng được giải phóng theo, hơi thở trở nên sâu hơn và khi hết căng thẳng, họ có thể bật ra những âm thanh biểu cảm. Cơ thể trở nên tự do hơn, bệnh nhân sẽ tự do thở, tự do hòa mình vào dòng chảy của cảm xúc. Va chạm, tiếp xúc cơ thể giúp cơ thể của bệnh nhân dần dần phản ứng lại với những đụng chạm, tiếp xúc.
Những người đang sợ hãi cần phải có được một cảm giác về vị trí của cơ thể họ trong không gian và trong ranh giới của họ. Những cái chạm chắc chắn, an toàn với người khác giúp họ biết những anh giới đó ở đâu, tức những gì ở bên ngoài họ, nơi cơ thể họ kết thúc. Họ phát hiện ra rằng họ không thường xuyên phải tự hỏi họ là ai, họ đang ở đâu. Họ phát hiện ra rằng cơ thể của họ rất vững chắc và rằng họ không phải liên tục phòng thủ. Va chạm cho họ biết rằng họ đang an toàn.
6. HÀNH ĐỘNG
Cơ thể đáp ứng những trải nghiệm cùng cực bằng cách tiết ra hormone của stress. Người ta thường đổ lỗi cho hormone của stress khi họ mắc bệnh. Tuy nhiên, hormone của stress cho chúng ta sức mạnh và sự bền bỉ để đáp ứng các điều kiện khác thường. Những người tích cực làm cái gì đó để đối phó với thảm họa, ví dụ như cứu người thân, cứu những người lạ mặt, đưa người khác đến bệnh viện, tham gia vào đội ngũ y tế, dựng lều, nấu ăn, nghĩa là họ đang tận dụng hormone của stress vào mục đích thích hợp, do đó nguy cơ bị sang chấn ở họ thấp hơn nhiều (tuy nhiên, ai cũng có giới hạn chịu đựng riêng, ngay cả người chuẩn bị tâm lý tốt nhất vẫn có thể bị sốc bởi mức độ khác nhau của thử thách).
Sự bất lực và bất động khiến con người không sử dụng được các hormone của stress ở mình để tự vệ. Khi điều đó xảy ra, hormone của stress vẫn tiết ra những hành động mà loại hormone này định “tiếp sức” thì bị cản trở. Cuối cùng, các mô hình kích hoạt vốn dùng để thúc đẩy việc đối phó lại bị đẩy ngược trở lại với cơ thể và tạo thành phản ứng tê liệt không phù hợp. Để trở lại hoạt động bình thường, phản ứng khẩn cấp liên tục này phải kết thúc. Cơ thể cần được khôi phục lại trạng thái an toàn và thư giãn ban đầu, từ đó nó có thể huy động hành động đáp ứng với nguy cơ thực sự.
Pat Ogden và Peter Levine từng phát triển các liệu pháp trị liệu dựa vào cơ thể (body-based therapy), trị liệu cảm giác vận động (sensorimotor psychotherapy) và liệu pháp thản nghiệm (somatic experiencing) để giải quyết vấn đề này. Trong những cách tiếp cận điều trị này, chúng ta tập trung khám phá những cảm giác cơ thể và khám phá vị trí và hình dạng của dấu ấn sang chấn quá khứ trên Cơ thể.
Trước khi khám phá về sang chấn, bệnh nhân được giúp xây dựng các nguồn lực bên trong để tạo thuận lợi cho cách tiếp cận an toàn những cảm giác và cảm xúc đã lấn át họ vào thời điểm sang chấn. Peter Levine gọi điều này là quá trình con lắc (pendulation), nhẹ nhàng vào – ra thế giới cảm xúc bên trong và những ký ức sang chấn. Dần dần, khả năng chịu đựng của bệnh nhân sẽ tăng lên.
Khi bệnh nhân đã có thể chịu đựng được nhận thức về những trải nghiệm thể chất dựa trên sang chấn của họ, họ sẽ có thể khám phá những va chạm vật lý mạnh như đánh, xô đẩy, hoặc chạy. Đây có thể chính là những hành động họ đã làm khi bị hãm hại năm xưa, nhưng chúng đã bị dồn nén lại để họ sống sót trong hiện tại. Họ có thể có những cử động cơ thể tinh tế như xoắn người, xoay người, lùi lại. Khi ta giúp họ tăng cường các hành động này, thử nhiều cách để điều chỉnh các hành động này tức là ta khởi động quy trình làm hoàn thiện những “khuynh hướng hành động” bị khiếm khuyết liên quan đến sang chấn để cuối cùng ta có thể giải quyết được sang chấn.
Liệu pháp thân nghiệm có thể giúp bệnh nhân tự định vị chính mình trong hiện tại bằng cách trải nghiệm sự an toàn khi họ đang chuyển động. Niềm vui khi thực hiện hành động nào đó có thể giúp bệnh nhân khôi phục ý thức và cảm giác có thể tự vệ cũng như chủ động bảo vệ mình.
Một trong những cách trị liệu dựa trên cơ thể mà tôi yêu thích để xây dựng hiệu quả phản ứng chiến đấu/trốn chạy cho bệnh nhân chính là chương trình mô phỏng cướp giật. Cụ thể là phụ nữ (và cả nam giới) được dạy cách chủ động chống lại kẻ tấn công trong tình huống mô phỏng. Chương trình này bắt đầu tại Oakland, California, vào năm 1971, sau khi một người phụ nữ có đai đen Karate ngũ đẳng bị hãm hiếp. Tôi tự hỏi làm sao chuyện này lại có thể xảy ra với một người có võ nghệ cao cường có thể đánh chết ai đó bằng tay không? Những người bạn của cô ấy kết luận rằng những kỹ năng võ thuật của cô đã bị lu mờ vì cô ấy quá sợ hãi. Theo nội dung cuốn sách này thì những chức năng điều hành của cô, phần thùy trán, đã ngưng hoạt động và cô bị tê liệt lại.
Chương trình mô phỏng cướp giật này dạy phụ nữ khôi phục phản ứng thoát khỏi sự tê liệt thông qua việc lặp lại nhiều lần thời gian “zero hour” (giờ hành động, đây là một thuật ngữ quân sự chỉ thời điểm chính xác của một cuộc tấn công) và học cách biến nỗi sợ hãi thành năng lượng chiến đấu tích cực.
Một trong những bệnh nhân của tôi là một sinh viên đại học từng bị lạm dụng tình dục liên tục khi còn bé đã tham gia khóa học này. Khi tôi gặp cô ấy lần đầu, trông cô rất suy sụp, chán nản và quá phục tùng. Ba tháng sau, trong ngày lễ tốt nghiệp cuối khóa học, cô đã hạ gục thành công một người đàn ông vạm vỡ đóng vai kẻ tấn công. Cô mạnh mẽ đối mặt với anh ta, hai tay giơ lên trong tư thế Karate, bình tĩnh hét lên rõ ràng tiếng “Không!”.
Không lâu sau, một đêm khuya khoắt nọ, cô đang đi từ thư viện về nhà thì có ba người nhảy ra khỏi bụi cây, hét lên: “Đưa tiền đây”.
Cô ấy đã đứng tấn Karate, hét lên: “Ok, tôi chờ giây phút này lâu lắm rồi! Ai muốn lên trước nào?”. Lũ côn đồ bèn bỏ chạy. Trong tình huống đó, nếu bạn co rúm người lại, sợ hãi nhìn xung quanh thì bạn sẽ dễ dàng làm mồi cho những kẻ bạo hành, nhưng khi bạn hiên ngang tỏ ra “Đừng có làm phiền tôi!” thì rất có khả năng những kẻ ấy sẽ không quấy rầy bạn.
⚝ ✽ ⚝
TÍCH HỢP KÝ ỨC SANG CHẤNTa chỉ có thể bỏ những sự kiện gây sang chấn lại đằng sau khi ta có thể thừa nhận những gì đã xảy ra và bắt đầu nhận ra những con quỷ vô hình mà ta đang phải chiến đấu với nó. Liệu pháp tâm lý truyền thống chủ yếu tập trung vào việc xây dựng một bài tường thuật giải thích tại sao một người cảm thấy theo một cách cụ thể như vậy hoặc như Sigmund Freud đã nói vào năm 1914 trong cuốn Remembering, Repeating and Working Through (Ghi nhớ, Lặp lại và Giải quyết): “Mặc dù bệnh nhân vẫn sống sót sau sang chấn], nhưng chúng ta phải hoàn thành việc điều trị cho họ, chủ yếu là giúp họ diễn giải lại nó bằng ngôn ngữ”. Kể lại được câu chuyện đau thương ta đã trải qua là một bước rất quan trọng vì không kể ra được thì ký ức ấy sẽ đông cứng lại; và nếu không có ký ức thì ta không thể hình dung được mọi việc có thể khác đi như thế nào.
Nhưng kể ra được chuyện ấy không đảm bảo rằng những ký ức đau thương sẽ mãi mãi ngủ yên. Điều này được lý giải bởi thực tế khi ta nhớ một sự kiện bình thường, ta không hồi tưởng lại cảm giác thể chất, cảm xúc, hình ảnh, mùi hương hoặc âm thanh liên quan đến sự kiện đó, nhưng khi nhớ lại những tình huống gây sang chấn của mình thì ta lại “có” kiểu trải nghiệm là: Ta bị nhấn chìm bởi các yếu tố cảm giác hoặc cảm xúc của quá khứ.
Kết quả quét não của Stan và Ute Lawrence, nạn nhân tai nạn giao thông trong chương 4, cho thấy điều này xảy ra như thế nào. Khi Stan nhớ lại vụ tai nạn khủng khiếp, hai khu vực chính trong não của anh trống trơn: khu vực tạo ra cảm giác về thời gian và không gian giúp nhận thức được “đó là chuyện hồi ấy, còn bây giờ thì tôi an toàn” và một khu vực khác tích hợp hình ảnh, âm thanh và cảm giác sang chấn thành một câu chuyện mạch lạc. Khi những phần não bị gạt qua một bên, bạn sẽ trải nghiệm điều gì đó không phải là một sự kiện với đầy đủ mở đầu, diễn biến, kết thúc mà là những mảnh rời rạc về cảm giác, hình ảnh và cảm xúc.
Một sang chấn có thể được chữa trị thành công chỉ khi tất cả những cấu trúc não đều hoạt động. Trong trường hợp của Stan, phương pháp Giải cảm bằng chuyển động mắt và Tái nhận thức (Eye movement desensitization and reprocessing - EMDR) cho phép anh truy cập vào những ký ức về vụ tai nạn mà không bị chúng làm cho choáng ngợp. Khi những vùng não, những khu vực mà sự bất hoạt của chúng gây ra quá trình hồi tưởng có thể hoạt động trở lại trong lúc hồi tưởng những gì đã xảy ra, thì mọi người có thể tích hợp những ký ức đau thương của họ vào quá khứ.
Sự phân ly của Ute khiến cô ấy phục hồi một cách phức tạp theo kiểu khác. Cấu trúc não cần thiết để biết là mình đang ở trong hiện tại đã không còn hoạt động, do đó, Ute không thể đối phó với sang chấn. Cô cần được giúp đỡ để tăng sức chịu đựng trước khi cô có thể đối phó với các triệu chứng PTSD của mình.
Thôi miên là phương pháp điều trị sang chấn phổ biến nhất từ cuối những năm 1800 cho đến sau Thế chiến thứ hai. Trên YouTube, bạn có thể xem phim tài liệu Let There Be Light (Hãy thắp sáng nơi đó) của đạo diễn John Huston. Trong phim có cảnh những người đàn ông đang được thôi miên để điều trị “chứng loạn thần kinh do chiến tranh”.
Từ đầu thập niên 1990, thôi miên không còn được ủng hộ nữa và cũng chưa có nghiên cứu nào gần đây về hiệu quả của liệu pháp thôi miên trong điều trị PTSD. Tuy nhiên, thôi miên có thể mang lại trạng thái bình tĩnh tương đối, từ đó bệnh nhân có thể theo dõi những trải nghiệm gây sang chấn của họ mà không bị chúng làm choáng ngợp.
LIỆU PHÁP NHẬN THỨC HÀNH VI (COGNITIVE BEHAVIORAL THERAPY - CBT)
CBT lần đầu tiên được phát triển để điều trị chứng ám ảnh sợ hãi (phobias) như sợ nhện, sợ máy bay hoặc độ cao, giúp bệnh nhân so sánh những nỗi sợ phi lý với những thực tế vô hại. Bệnh nhân dần bớt sợ những điều vô lý này bằng cách hình dung những gì họ sợ nhất bằng ngôn ngữ và hình ảnh của chính họ (“tiếp xúc tưởng tượng” – imaginal exposure), hoặc họ được đặt vào tình huống chân thực (nhưng thực ra là an toàn) khiến họ lo lắng (“tiếp xúc trực tiếp” - in vivo exposure) hoặc cho họ trải nghiệm thực tế ảo.
Ý tưởng nền tảng của CBT là cho bệnh nhân tiếp xúc nhiều lần với kích thích mà thực sự không xảy ra điều tệ hại gì cả, thế là họ dần bớt sợ, bớt khó chịu, họ sẽ biết rằng nỗi sợ của mình là phi lý và rằng mình hoàn toàn an toàn. CBT cũng cố gắng giúp bệnh nhân giải quyết xu hướng tránh né việc đối diện với nỗi sợ của mình, kiểu như “Tôi không muốn nói đến chuyện đó”34.
Nghe có vẻ đơn giản, nhưng hồi tưởng tình huống gây sang chấn sẽ kích hoạt lại hệ thống báo động của não và vô hiệu hóa các khu vực não quan trọng cần thiết cho quá trình tích hợp quá khứ, làm cho bệnh nhân có thể hồi tưởng lại hơn là giải quyết được sang chấn.
Phơi nhiễm kéo dài đã được nghiên cứu kỹ lưỡng hơn bất kỳ biện pháp điều trị PTSD nào khác. Bệnh nhân được yêu cầu “tập trung chú ý vào tình huống khiến họ bị sang chấn và không phân tâm với những ý nghĩ và hoạt động khác”35. Nghiên cứu cho thấy phải bị phơi nhiễm đến gần 100 phút (trong đó họ bị kích thích gây lo lắng ở cường độ cao và kéo dài) trước khi bệnh nhân bắt đầu giảm lo lắng. Phơi nhiễm đôi khi giúp giải quyết nỗi sợ hãi và lo lắng, nhưng không được chứng minh là có hiệu quả với cảm xúc tội lỗi hoặc những cảm xúc phức tạp khác*7.
Mặc dù CBT có hiệu quả trong chữa trị những nỗi sợ phi lý như sợ nhện, nhưng nó lại không hiệu quả đối với những người bị sang chấn, đặc biệt là những ai có tiền sử bị lạm dụng khi còn bé. Chỉ có khoảng một phần ba người tham gia cuộc nghiên cứu chữa trị PTSD bằng CBT cho thấy có một số cải thiện. Những người hoàn thành quá trình điều trị với CBT thường giảm được triệu chứng PTSD nhưng hiếm khi họ hồi phục hoàn toàn: Đa số họ tiếp tục gặp vấn đề với sức khỏe, công việc hoặc tinh thần.
Trong nghiên cứu lớn nhất được công bố về áp dụng CBT để chữa trị PTSD thì hơn một phần ba số bệnh nhân bỏ cuộc; những người còn lại có một số phản ứng ngoài ý muốn (adverse reaction) đáng kể. Hầu hết phụ nữ vẫn bị PTSD sau ba tháng tham gia nghiên cứu, và chỉ có 15% không còn các triệu chứng chính của PTSD. Một phân tích kỹ lưỡng về tất cả các nghiên cứu khoa học của CBT cho thấy nó có hiệu quả dưới dạng một liệu pháp hỗ trợ. Kết quả tệ nhất trong điều trị phơi nhiễm là khi áp dụng với những bệnh nhân bị “thất bại về tinh thần” – những người đã bỏ cuộc 42.
Sang chấn không chỉ là vấn đề nạn nhân bị mắc kẹt trong quá khứ mà còn là việc nạn nhân không thể sống trọn vẹn trong hiện tại. Các nghiên cứu gần đây trên các cựu chiến binh Úc cho thấy bộ não của họ bị thay đổi để cảnh giác với các tình huống khẩn cấp, với cái giá phải trả là họ không thể tập trung vào những chi tiết nhỏ trong cuộc sống hàng ngày. (Chúng ta sẽ tìm hiểu thêm về vấn đề này trong chương 19, phần phản hồi thần kinh.)
Bệnh nhân chỉ có thể nhận được lợi ích từ hồi tưởng lại tình huống gây sang chấn của mình chỉ khi họ không bị quá trình hồi tưởng ấy lấn át. Một ví dụ tốt để minh họa điều này đó là công trình nghiên cứu của Roger Pitman, đồng nghiệp của tôi, thực hiện đầu thập niên 1990, trên các cựu chiến binh Mỹ tham chiến tại Việt Nam“. Ông và các đồng nghiệp đã thúc đẩy các cựu chiến binh kể đi để lại nhiều lần mọi chi tiết về trải nghiệm của họ tại Việt Nam. Nhưng các nhà nghiên cứu phải ngừng cuộc nghiên cứu lại vì nhiều bệnh nhân trở nên hốt hoảng trước những hồi ức của mình và nỗi khiếp sợ thường dai dẳng đến tận sau khi kết thúc buổi trị liệu. Một số người không bao giờ quay trở lại. Còn trong số những người tiếp tục tham gia nghiên cứu, nhiều người đã trở nên trầm cảm hơn, bạo lực hơn và sợ hãi hơn; một số sẽ đối phó với những triệu chứng ngày càng nặng hơn này bằng cách uống rượu, dẫn đến bạo lực và hành hung người khác đến mức vài người đã bị gia đình nhờ cảnh sát đưa đến bệnh viện.
⚝ ✽ ⚝
LIỆU PHÁP GIẢI MẪN CẢM HỆ THỐNGLiệu pháp giải mẫn cảm hệ thống (systematic desensitization) giúp bệnh nhân trở nên ít phản ứng hơn trước cảm xúc và cảm giác nhất định. Nhưng đây có phải là mục tiêu đúng đắn? Có lẽ vấn đề không phải là giải mẫn cảm mà là tích hợp, nghĩa là đưa sự kiện có tính sang chấn vào vị trí thích hợp của nó trong vòng cung tổng thể của cuộc sống một người.
Giải mẫn cảm khiến tôi nghĩ đến chuyện tôi từng chứng kiến về một cậu bé khoảng 5 tuổi và người bố. Người bố la hét phía sau khi cậu bé lao chiếc xe đạp ba bánh xuống đường. Tim tôi đập loạn xạ khi chứng kiến cảnh đó, chỉ muốn đấm cho ông bố một cú, nhưng đứa bé chẳng hề nao núng, vẫn cứ lao xe đi. Tôi tự hỏi đứa trẻ ấy đã phải trải qua bao nhiêu sự tàn bạo mới trở nên trống rỗng trước hành động hung dữ của bố mình như vậy? Sự thờ ơ của em đối với tiếng la hét của người bố hẳn là kết quả của việc bị chửi mắng triền miên, nhưng tôi tự hỏi, cái giá phải trả ở đây là gì?
Chúng ta có thể dùng thuốc để làm phai nhạt cảm xúc hoặc chúng ta có thể học cách giải mẫn cảm chính mình. Tuy nhiên, nhà khoa học thần kinh Jean Decety ở Đại học Chicago cho rằng việc mất sự nhạy cảm đối với chính nỗi đau của mình hay nỗi đau của người khác có thể sẽ khiến ta mất đi toàn bộ sự nhạy cảm đối với cảm xúc 45.
Một báo cáo năm 2010 với 49.425 cựu chiến binh từ cuộc chiến Iraq và Afghanistan mới được chẩn đoán PTSD cho thấy chưa tới 10% số họ thực sự hoàn thành việc điều trị được đề nghị. Điều này cho thấy việc điều trị ít có tác dụng. Chúng ta chỉ có thể “xử lý” các trải nghiệm khủng khiếp nếu chúng không áp đảo chúng ta. Và điều đó có nghĩa là cần có thêm các cách tiếp cận khác.
DÙNG CHẤT KÍCH THÍCH MỘT CÁCH AN TOÀN?
Năm 2000, Michael Mithoefer và các đồng nghiệp ở Nam Carolina được FDA cho phép tiến hành thí nghiệm với MDMA (thuốc ecstasy). MDMA được phân loại là thuốc bị kiểm soát vào năm 1985 sau nhiều năm được sử dụng như một loại thuốc giải trí. Cũng như Prozac và các thuốc tâm thần, chúng ta không biết chính xác MDMA hoạt động như thế nào, nhưng nó được biết là làm tăng nồng độ của một số hormone quan trọng bao gồm oxytocin, vasopressin, cortisol và prolactin*7. Điểm liên quan nhất đối với điều trị sang chấn là thuốc MDMA làm tăng nhận thức của con người về chính họ, giúp họ đồng cảm, tò mò, rõ ràng, tự tin, sáng tạo và kết nối với mọi người hơn. Mithoefer và các cộng sự đã tìm kiếm một loại thuốc có thể làm tăng tính hiệu quả của liệu pháp tâm lý. Rồi họ quan tâm đến MDMA vì nó làm giảm sự sợ hãi, phòng thủ và trống rỗng cũng như giúp tiếp cận với các trải nghiệm bên trong 18. Họ nghĩ MDMA có thể cho phép bệnh nhân không bị quá ngưỡng chịu đựng để có thể nhớ lại ký ức gây sang chấn mà không bị ảnh hưởng quá mức từ kích thích thể chất lẫn cảm xúc.
Các nghiên cứu thí điểm ban đầu đã ủng hộ kỳ vọng nàyº”. Nghiên cứu đầu tiên, liên quan đến cựu chiến binh, lính cứu hỏa và cảnh sát mắc PTSD, đã mang lại kết quả khả quan. Nghiên cứu tiếp theo thực hiện trên một nhóm 20 nạn nhân của bạo hành, những người không đáp ứng với các phương pháp trị liệu trước. 12 bệnh nhân được nhận MDMA, 8 người nhận giả dược. Họ ngồi hoặc nằm trong một căn phòng thoải mái, và tất cả đều được tham gia hai buổi trị liệu tâm lý, mỗi buổi dài 8 giờ, chủ yếu sử dụng liệu pháp hệ thống gia đình nội bộ (internal family systems – IFS). Hai tháng sau 83% bệnh nhân nhận được MDMA cộng với trị liệu tâm lý được coi là hoàn toàn khỏi bệnh, so với 25% của nhóm giả dược. Không có bệnh nhân nào có phản ứng phụ ngoài mong muốn. Có lẽ thú vị nhất là khi phỏng vấn những người tham gia sau hơn một năm nghiên cứu được hoàn thành thì họ vẫn duy trì được tình trạng của mình.
Khi ta có thể quan sát sang chấn trong trạng thái bình tĩnh, tỉnh thức (IFS gọi trạng thái này là Bản ngã), tâm trí và bộ não có thể hòa hợp được sang chấn vào toàn bộ cuộc sống. Điều này rất khác so với các kỹ thuật giải mẫn cảm truyền thống vốn chỉ làm giảm phản ứng của một người đối với những nỗi kinh hoàng trong quá khứ. Đây là về sự kết hợp và tích hợp – khiến một sự kiện quá khứ khủng khiếp làm bạn bị choáng ngợp trở thành một ký ức về điều gì đó đã xảy ra cách đây rất lâu.
Tuy nhiên, chúng ta cần cẩn thận khi sử dụng các chất gây ảo giác khi điều trị sang chấn, nghĩa là ta cần thiết lập và duy trì những ranh giới trị liệu nhất định.
CÁC LOẠI THUỐC THÌ SAO?
Khi cảm thấy tuyệt vọng, con người thường tìm đến các chất kích thích, chất gây nghiện như rượu, cần sa, thuốc giảm đau, thuốc an thần, bất cứ thứ gì để khiến họ bình tĩnh hoặc tự chủ hơn.
Tâm thần học tuân theo truyền thống này. Trong thập kỷ vừa qua, Bộ Quốc phòng và Bộ Cựu chiến binh Hoa Kỳ đã cùng chi hơn
4,5 tỷ đô-la cho thuốc chống trầm cảm, thuốc chống loạn thần và thuốc chống lo âu. Một báo cáo nội bộ tháng 6 năm 2010 của Trung tâm Kinh tế dược học thuộc Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ tại Fort Sam Houston ở San Antonio cho thấy trong số 1,1 triệu binh lính tại ngũ được khảo sát có 20% đang dùng một số loại thuốc hướng thần: thuốc chống trầm cảm, thuốc chống loạn thần, thuốc ngủ an thần, hoặc các thuốc được kiểm soát khác.
Tuy nhiên, thuốc không thể “chữa” sang chấn mà chỉ có thể làm giảm các triệu chứng sinh lý bị xáo trộn. Thuốc không thể giúp ta làm chủ bản thân về lâu về dài. Chúng có thể giúp kiểm soát cảm xúc và hành vi bằng cách ngăn chặn các hệ thống hóa học điều chỉnh lòng cam kết, động lực, đau đớn, và niềm vui và người uống luôn phải trả một cái giá nào đó.
Chỉ vài nhóm các thuốc hướng tâm thần đã được sử dụng để điều trị một số khía cạnh của PTSD. Các chất ức chế tái hấp thụ serotonin (s