← Quay lại trang sách

Quà cưới

Vui đôi khi cũng là đau…

CHẲNG RÕ CÓ ĐƯỢC MỜI HAY KHÔNG, ÚT HOA đến dự tiệc cưới Tư Khả ngoài dự đoán của nhiều người. Họ đưa mắt nhìn nhau ái ngại, số khác mỉm cười ngầm thú vị, thậm chí hồi hộp, đinh ninh thế nào cũng có sự cố gì đó xảy ra. Thoạt thấy nàng bước vào, chú rể sánh vai cô dâu đứng cạnh nhóm khách ngồi ở bàn bên trái trước hiên giật thót, nốc vội ly rượu ai đó đưa mời, rồi ra vẻ phớt tỉnh.

Áo dài màu tím than nền nã, tóc buộc gọn phô cần cổ trắng ngần, gương mặt phơn phớt tí phấn son không giấu nổi vết thâm quầng viền quanh mắt, hậu quả của nhiều đêm thao thức, và sự mệt mỏi làm trễ khóe môi trên nụ cười nửa miệng, Út trao gói quà tặng vuông vắn bọc giấy trắng cho cô em gái chú rể, theo lời mời không mấy đon đả của cô ta vào ngồi với các bà các cô giữa lúc ban nhạc thuê từ tỉnh về đang gõ, gẩy, hát, uốn éo... rôm rả.

Hôm sau ở quán cà phê Cây Gừa, nơi được coi như “thông tấn xã” của vùng Xẻo Đưng, những kẻ vô công rỗi nghề ưa nhiễu sự, những trai trẻ nhân ngày nông nhàn chụm lại quanh bàn nước râm ran bàn tán. Gã to con mặt mày nâu nhẵn nở nụ cười rộng hết cỡ, hạ thấp giọng:

– Tao sẵn sàng cá mười ăn một là trong cái gói quà mừng đám cưới con Út Hoa mang đến tặng thằng Tư Khả hôm qua không gì khác hơn là cái bào thai ba tháng.

Chị áo sọc xanh ngồi ghếch cả hai chân lên ghế, vừa đổ ly cà phê đen nóng ra đĩa thổi phù phù bỏ vội đĩa xuống xoe tròn mắt:

– Thiệt hôn? À... mà dám lắm à nghen, quà không bọc giấy hoa lại gói bằng giấy trắng, màu trắng là màu tang.

Lắm tiếng “Ồ!” kinh ngạc nổi lên một lượt, đoạn nhiều giọng tranh nhau nói.

– Đáng kiếp cái thằng tham vàng phụ ngãi.

– Con nhỏ tỉnh quá đi chớ! Đàng hoàng tới, đàng hoàng về, còn giúp vui văn nghệ, ca tới hai bài vọng cổ mùi hết biết luôn.

– Đừng có ác khẩu mấy cha, nó hiền lành, hổng làm chuyện thất đức vậy đâu.

– Không tin hả? Cá trăm ăn một nghe, tối nay mầy dám cùng tao lẻn ra sau vườn nhà Tư Khả bốc mộ lên coi không?

Cứ thế, câu chuyện nối dài.

Gói quà tặng ấy thực hư thế nào chưa rõ, điều đáng kể, sau đó Út Hoa, kẻ bị tình phụ lặng lẽ ra đi. Trăng tròn rồi khuyết, ruộng đồng chín biết bao mùa lúa, giữa lúc mọi người hồ như quên bẵng nàng thì Út Hoa bỗng quay về. Mọi điều tiếng lại râm ran phát đi từ quán Cây Gừa:

– Con nhỏ giờ đây trông đẹp, mô đen hết sẩy, Việt kiều hụt à nghe.

– Việt kiều?

– Nghe đâu về từ trại tị nạn Hồng Kông gì đó.

– Dóc, ngó bề ngoài láng coóng thiệt, nhưng có vẻ không được đàng hoàng, Việt kiều Hồng Kông bên hông Chợ Lớn thì có.

– Gì thì gì, giờ Tư Khả có muốn đụng tới cái móng chưn chưa chắc nó đã cho.

– Ờ thì để coi, tình cũ không rủ cũng tới...

Vân vân và vân vân. Đại để thế, thiên hạ vùng Xẻo Đưng chưa ngớt xôn xao về tin cô con gái rượu của ông Năm Đảnh sau một thời gian biệt xứ vừa “qui cố hương” thì một buổi sáng ngang qua Vàm Trụi ai cũng ngẩn đớ ra bởi thấy cái chòi chăn vịt của ông Năm vốn chỉ có cái mái lá, trống hoác tứ bề đã trở thành một cái quán hẳn hoi. Cũng chỉ tre lá thôi, nhưng ở các khung cửa lớn, cửa sổ treo diềm nylông xanh đỏ, nửa kín nửa hở màn che. Rồi sau đó đêm đêm xuồng ghe từ các con rạch chằng chịt không hẹn mà cùng tụ về điểm hẹn tù mù ánh đèn dầu, vang rân tiếng đàn hát, tiếng cười đùa trai gái. Gái bán quán và trai đa số là thanh niên, đôi khi có cả lứa sồn sồn.

Người thuộc phim Tây Du Ký đoan quyết đó là tổ của “bảy con yêu nhền nhện”, có kẻ rành hơn, đính chính: “tới mười hai chớ bảy gì?”, và thêm vài chi tiết ly kỳ. Rằng, lần “qui cố hương” này cô Út bỏ hẳn cái tên Út Hoa tầm thường, tự xưng là Út Cô Đơn, mười một cô em ở độ tuổi trăng tròn cũng mang những biệt danh ngộ không kém như cô Ba Sầu Riêng, Bảy Dỗi Hờn, Sáu Mộng Mơ, Chín Ô Môi...

Quán tưng bừng chừng một tháng, nghe làng nước mè nheo dữ quá, ông bí thư xã đành chọn một đêm đẹp trời thử đóng vai Đường Tăng tới tận tổ xem sao. Thoạt thấy ông bước vào cả chủ lẫn khách cùng nhào ra mời chào tở mở. Ông làm mặt nghiêm, lừ mắt, cả đám khép nép dạt lui, không phải chạy trốn mà rút êm xuống các xuồng nhỏ ghe to bập bềnh trên ngã ba kinh tiếp tục cuộc... nhộn. Sau cùng chỉ còn mỗi đại diện chính quyền địa phương đối mặt Út Hoa và hai cô em ngồi chầu chực hai bên. Ông bí thư vặn to ngọn đèn dầu trên bàn, cười khẩy:

– Cô biểu chỉ bán cà phê, giờ ràng ràng bia ôm, chỉ đăng ký tạm trú cho hai cô em kết nghĩa, giờ lổm ngổm tới mười mấy mống, bộ tính qua mặt tôi sao? Bà con phản ảnh cô đang biến bọn trai tráng thành trộm cắp hết, lúa nhà nào cũng bị mấy ông con ông cháu rậm rựt ăn cắp mang tới đây đổi món thịt tươi.

– Năm nay trúng mùa lớn, lúa lại sụt giá, rẻ rề – Cô Út cười xẻn lẽn, nhỏ nhẹ nói – Em đâu ép ai, thuận mua vừa bán, mỗi ký lúa đổi ngang một chai bia lên cơn thì mắc mỏ gì?

– Lời chán ấy chớ.

– Nhưng quán em vừa sinh hoạt văn nghệ vừa đổi chác kiểu này còn hơn để bọn đầu nậu các nơi khác đến thu mua ép giá gấp năm gấp mười.

– Chà, nhơn nghĩa dữ! Thôi, ngày mai dẹp đi nghen, muốn thu mua lúa tôi cấp cho cái giấy phép lập trạm.

Út Hoa điệu đàng nháy mắt, hai cô em xáp tới thành hai gọng kềm nõn nường. Bia mở kêu lốp bốp, không phải bia lên cơn mà bia Tiger. Mặt đanh rắn, khách lánh mình ra khỏi hai cánh tay và bốn chỏm vú nhọn sực nức dầu thơm kẹp chặt bật lên, lừng lững bước ra ngoài. Nhan sắc đang tươi vụt sa sầm: Út Hoa rảo bước theo.

Gió lao rao. Trăng bàng bạc. Họ ngậm tăm im lặng mãi đến lúc ra tới lối mòn cạnh cái lò gạch sạt lở, hoang phế đâu từ thời chiến tranh, khách thốt dừng lại, đanh giọng:

– Chắc cô chưa hề quên món quà cưới ác độc thuở nào. Út à, cô định phá quấy tôi tới bao giờ hả?

Quà cưới! Món quà gói trong lớp giấy màu tang tóc chẳng phải cái bào thai ba tháng như lời đồn đãi huyễn hoặc, đầy ác ý cường điệu giật gân, ly kỳ hôm nào ở quán Cây Gừa mà là một vuông khăn trắng. Vuông khăn lưu giữ một vệt máu hệt cánh hoa tàn úa, dấu tích của nỗi đau lẫn sự hoan lạc đầu đời do gã phụ tình để lại sau lần nàng đã khờ khạo u mê trao thân cho gã, dấu tích gã không hề ngờ nàng đã kín đáo giữ lại, và đã quá quắt mang đến tặng gã nhân ngày cưới. Mắt long lên ánh nanh nọc, Út Hoa nấc tiếng cười cụt, ưỡn nẩy bộ ngực sau làn áo mỏng phập phồng khiêu khích:

– Có phá quấy anh tới lúc chết, tôi cũng đâu đòi lại được sự trinh trắng đã ngu dại biếu không cho anh.

Trong các loài động vật có vú, ăn thịt, đàn bà có lẽ là loại duy nhứt vô địch về môn... thù dai! Kêu thầm, người đàn ông thoáng rùng mình. Phụ rẫy cô gái nghèo, yêu nhau từ thuở còn học chung lớp cấp ba ở trường huyện, cưới “tiểu thơ” của một ông chủ nhà máy xay xát giàu nhất vùng, qua bao mùa hương lửa chưa có lấy một mụn con để ẵm bồng, lâu lâu món quà cưới tai ác kia lại được vợ gần xa nhắc nhở, dằn vặt chồng. Từ ngày nàng bất thần quay về, nó càng được nhắc kỹ và thường xuyên hơn, hệt cái mồi lửa làm cháy phừng lắm trận ghen tuông, cãi vã. Gặp nhau ở chốn đông người họ thường tỏ ra lạnh lùng, nhưng đêm nay dưới ánh trăng, giữa đồng trống, anh ta cảm thấy hình như có một hấp lực kỳ bí phát ra từ cái da cái thịt bảy phần phổng phao ba phần mũm mĩm kia cứ chực quấn siết lấy mình. Bất giác nghe cổ họng khô khốc, không cưỡng nổi, Tư Khả ôm chầm lấy nàng vỗ về:

– Tha lỗi cho anh, thông cảm cho anh Út à! Ai cũng biết mình vốn là nhân tình nhân ngãi trước đây, giờ cái quán em nức tiếng như vầy, không dẹp người ta cho là anh bao che, tiếng tăm lên tới huyện... Anh vẫn còn rất thương em, nhưng...

– Nhưng chỉ muốn em chết cho khuất mắt, hổng còn cản bước thăng quan tiến chức của anh chớ gì? Được thôi, để em chết cho anh vừa lòng hả dạ.

Òa khóc, Út Hoa vùng vằng rẫy thoát, chạy vụt vào lò gạch. Khựng hẫng mất vài giây, người đàn ông hụt hưỡi bước theo.

Chẳng biết do tai vách mạch rừng nào mách bảo, sau cái đêm hôm ấy, từ quán Cây Gừa phát đi tin đồn rằng, đang khi rơm xưa bén lửa cũ, trận mây mưa còn dập dồn, hai cô em kết nghĩa của cô chủ quán thình lình ập vào lò gạch, nghe “bà chị” khóc lóc, hô hoán mình bị hãm hiếp, bèn một mực đòi kêu công an tới lập biên bản, báo hại ông bí thư phải năn nỉ muốn gãy cả lưỡi, sau đó đành chịu lép vế, rút thêm bài học: đàn bà, ngoài sự thù dai, còn lắm mưu ma chước quỷ! Chẳng rõ tin đồn ấy chứa bao nhiêu phần trăm sự thật, nhưng rồi cái quán vẫn tồn tại, ít ồn ã hơn. Đêm đêm khách đến đón bia bọt và gái góc từ quán lặng lẽ xuống ghe thuyền tản mác trên những đoạn kinh rạch khuất vắng. “Tiếng lành” đồn xa, cách trao đổi hàng hóa độc đáo của cô Út đạt hiệu quả ngoài dự kiến. Không chỉ lúa, cả phân bón, thuốc trừ sâu, xăng dầu, xi măng... cũng được khách lén lút mang đến từ các nông trường, xí nghiệp, trạm trại gần xa.

Bây giờ ngang qua Vàm Trụi chẳng còn ai ngạc nhiên khi thấy căn quán lá đã lợp ngói, thưng vách ván hẳn hoi, nom chưa hẳn khang trang nhưng không xập xệ nữa. Kịp lúc điện kéo vào tới Xẻo Đưng, cô Út nắm lấy thời cơ giăng đèn xanh đỏ chớp tắt, sắm ngay tivi, đầu máy karaoke... phục vụ khách. Khách mua vui không còn giới hạn trong vùng, khách ngoài thị trấn cũng chịu khó tìm vào để đổi gió, hưởng hương vị đồng quê.

Một buổi sáng ngồi uống cà phê ở quán Cây Gừa, Tư Khả bỗng cau ríu mày, nghe cổ họng đau thắt như có bàn tay phải gió, vô hình nào bóp nghẹt khi nghe một ông thầy giáo đã nghỉ hưu nói với ông bạn lão nông ngồi bàn kế bên:

– Từ cái chòi chăn vịt đi lên thành quán đèn mờ quả là một bước tiến đại nhảy vọt. Nếu ai sau một thời gian phiêu bạt giang hồ về cũng có sáng kiến mần ăn như cô Út Hoa thì việc đô thị hóa nông thôn coi bộ không mấy khó! Và nhứt là, thanh niên ở các vùng nông thôn đâu có thiếu những “Trung tâm sinh hoạt văn hóa” trầm trọng như hiện nay!?

Cần Thơ 1994