← Quay lại trang sách

Chương 10

Tôi thức dậy lúc mặt trời còn ủ kín trong sương. Trên những ngọn lá non, ánh sáng ấm áp của những tia nắng đầu tiên, chiếu qua màn sương, tựa trong suốt. Những tiếng chim sâu kêu liếp chiếp dưới vườn vọng vào tận trong giường. Trời xanh không gợn một áng mây nhìn thấy sau những rặng núi xa. Mùa hè cao nguyên có thể cảm thấy trong mùi lá cây bị nắng hơ nóng, mùi đất ẩm, mùi của những bông hoa đã héo rụng. Tôi trở dậy, đánh răng, rửa mặt, xuống nhà ăn sáng. Sau đó, chú Quyên đi đến hãng của ông. Tôi, Lãm và Khôi ra phố chơi. Chúng tôi thực hiện tất cả những ý muốn đã định từ trước, dạo phố, leo núi, cưỡi ngựa, bơi thuyền. Trong những ngày kế tiếp, Khôi còn dẫn tôi đi thăm các vườn trái cây, ăn mận và dâu hái tại chỗ. Đó là lần thứ nhất tôi nhìn thấy những cây dâu. Trong đám lá xanh bò lan sát mặt đất, những trái dâu chín đỏ trông quyến rũ lạ lùng.

Khôi bảo:

- Coi chừng thuốc sát trùng. Ăn vào đau bụng chết.

Lãm nói:

- Không sao. Có lẽ mình cũng nên sát trùng tận ruột một lần.

Những trái mận non đắng ngắt. Nhưng thích thú là bứt từ trên cành xuống bỏ vào miệng.

Tôi cũng nói đùa với Khôi:

- Nụ hoa không đụng tới của Khôi, đôi khi cũng chỉ kết thành những trái đắng chát này thôi.

Đứng trên sườn núi nhìn xuống những rừng thông, những vườn cây trái xanh mướt, tôi tưởng chừng như mùa xuân ẩn nấp đâu đó chỉ cần một ngày, một trận gió lướt qua, sẽ hiện ra bằng những búp nõn, hoa nụ.

Có những buổi trưa chúng tôi không về nhà, rủ nhau đi ăn tiệm, lang thang trong các khu phố, vào quán ngồi uống cà phê. Ở Đà Lạt có sự sung sướng nhất là hình như thời tiết làm cho người ta không biết mệt. Không khí trở thành một thứ mật bổ dưỡng, chúng tôi đã bơi trong biển mật đó. Có những buổi chiều, mặt trời vàng chiếu trên các cánh rừng xa, trông tưởng như tất cả lá đều biến thành hoa. Cũng có hôm trời chuyển mưa bất chợt, những cơn mưa làm cho trời thấp xuống, chúng tôi đạp thuyền vội vàng vào bờ, nhưng có khi ngồi chán chê trong quán, vẫn chưa thấy mưa.

Mặt hồ như tấm gương soi nhan sắc Đà Lạt. Trong những cơn giông muộn màng của những ngày thời tiết biến chuyển đột ngột đó, Đà Lạt trông xanh xao, và chúng tôi tha hồ nô giỡn trên các quãng đuờng vắng vẻ.

Khôi cũng giữ đúng lời hứa, ngồi canh cho tôi ngủ một giấc ngoài hiên nhà thủy tạ. Đó là buổi chiều, không, đúng hơn, một hoàng hôn, mặt trời đã lặn từ lúc nào khi chiều chưa hết, và tôi có cảm tưởng bao nhiêu hương mật của đêm đã quần tụ dưới những đám mây đen đang sa trên các đỉnh núi, mật và hương thơm đầy trong nếp áo. Tôi ngủ. Tôi đã cố ngủ trong khi hai tai vẫn muốn dỏng lên nghe những tiếng gió thổi từ mặt hồ lên, hút qua khe những sợi giây đan ghế và nghe những tiếng rì rào từ cánh rừng đâu đó, đang cùng với bóng đêm bủa xuống vây kín thành phố, giống như một tấm màn buông trên chiếc nôi.

Tôi sung sướng trong tưởng tượng của mình và còn đuợc ru bằng tiếng hát khẽ của Khôi ở bên cạnh:

Em có biết một ngày

Mặt trời không mọc ở phía đông

Không lặn ở phia tây?

Nhưng làm gì có một ngày như thế.

Tôi chỉ nhớ một ngày

Người yêu dấu của tôi đã chết.

Một bài hát tôi chưa từng nghe ai hát, trong bóng tối nhòe nhoẹt, trong giấc ngủ không đến hẳn, nghe âm vang như từ một cõi xa xôi nào, từ một cõi mơ. Có phải có những giấc mơ không cần ngủ?

Tôi hỏi:

- Bài Khôi hát đó của ai vậy?

Khôi không trả lời thẳng câu hỏi của tôi.

Hắn hỏi lại tôi:

- Chị có biết một cây cầu nào chưa ai đi qua?

- Có. Cầu vồng?

- Chị có biết cánh đồng nào ngướ ta trồng một thứ cây không mọc?

- Có. Cánh đồng xương cốt.

- Chị có biết đêm ở nơi nào không có bóng tối?

- Đêm của những người mù, phải không?

Khôi cười bào tôi:

- Đó là những gì tôi muốn viết thành những bài hát của tôi.

Tôi bảo Khôi:

- Sao Khôi không hát hết cho tôi nghe một bài?

- Đó là những bài hát chưa thành hình thù rõ rệt của tôi. Tôi chưa hát cho ai nghe bao giờ. Những gì chị vừa nghe là những câu thứ nhất.

Tôi hỏi:

- Tại sao Khôi không viết cho xong?

- Vì tôi thấy nó không được hạnh phúc.

Tôi nghe Khôi nói và tôi xúc động. Có lẽ Khôi có thể trở thành một người viết ca khúc có tài. Có lẽ chúng tôi không được hạnh phúc.

Lúc đó trăng đã lên. Trăng sau những ngày mưa vẫn xanh biếc như thuở nào. Trăng mà tôi biết cò người đã dẫm lên trên đó. Sau những đám mây đen, ánh sáng trông buồn rũ rượi.

Khôi cũng nằm im không nói gì nữa.

Chúng tôi nhìn nhau qua khe hở của của những sợi dây đan chiếc ghế mình đang nằm.

Tôi nói với Khôi:

- Nghe sóng vỗ dưới chân hệt như mình đang nằm trên một boong tầu vậy.

Khôi hỏi:

- Chị có thích bỏ đi xa không?

- Chưa bao giờ tôi nghĩ đến điều đó cả.

- Bữa cơm chiều nay chú Quyên lại mất công chờ mình.

- Đã có bé Lãm ngoan ngoãn của chúng ta đại diện rồi.

- Còn bao nhiêu ngày nữa chúng ta sẽ trở về Sài Gòn?

- Một tuần.

- Tôi cũng bắt đầu thấy chán Đà Lạt rồi.

- Chị không vui trong kỳ hè này sao?

- Thì cũng chỉ như một giờ ra chơi.

- Chúng ta sẽ gặp lại nhau chứ?

- Bao giờ?

- Môt năm. Hai năm. Ngày trở về Sài Gòn. Tôi không hẹn với Khôi, nhưng nếu Khôi muốn gặp lại tôi không có gì khó.

- Khó chứ. Bởi vì chị không hẹn nên tôi không có cớ.

- Khôi không tạo ra cớ một mình được à?

- Tưỏng tượng bây giờ nên dành cho con gái.

- Thế con trai làm gì?

- Chờ.

- Khôi muốn tôi hứa hẹn với Khôi gì bây giờ?

- Chị hẹn chứ đừng hứa.

- Khôi sẽ hát cho tôi nghe một lần bài hát của Khôi khi Khôi viết xong nhé?

- Nhưng... nếu tôi không viết được?

- Thì Khôi hãy cho tôi hay là Khôi không viết được.

- Tại sao lại những bài hát?

- Chỉ là cái cớ Khôi muốn tôi nói với Khôi thôi mà.

- Có lẽ sẽ khó khăn. Kỳ hè này là cơ hội tốt nhất, nhưng chúng ta đã chẳng làm nên trò trống gì.

- Bởi vì tôi chưa muốn gây ra một chuyện nào cả.

- Trở lại Sài Gòn sẽ chẳng có dịp nào tôi được ngồi với Thục thế này nữa.

- Bây giờ Khôi gọi tôi bằng tên trống không thế à?

- Tôi còn muốn đổi cách gọi chị một lần nữa.

- Khôi có thể gọi tôi thế nào cũng đuợc. Nhưng tôi không thay đổi nhanh chóng.

- Tại sao chị khó khăn quá thế?

- Khôi không cho là phải à?

Chúng tôi nói chuyện với nhau, ném trả những lời đối đáp, và một lát sau tôi cảm thấy choáng váng. Hình như tâm não tôi chùng hẳn xuống trong sự loãng nhạt, buồn bã. Tách nước lạnh ngắt trong tay, tôi cầm lên nhưng không uống. Tôi cũng chẳng muốn đổi một tách nước mới. Đêm xuống từ bao giờ, sao lấp lánh trên cao, tiếng sóng nước vỗ dưới hồ trở thành nhịp đưa đẩy, tách nước muốn rớt khỏi tay, tôi đặt lại vào trong chiếc đĩa nhỏ, ánh sao gợn trên mặt vàng của tách trà. Tất cả cái ẩm lạnh của cao nguyên len lỏi trong những đám sương gió cuốn bay lướt thướt. Đêm trên những rừng thông bắt đầu đen sẫm lại, tiếng reo xào xạc thổi tới từng hồi lẫn với tiếng chuông nhà thờ làm rung cả ngực [hồi chuông giống như ngày tôi đặt chân xuống Đà Lạt], những tiếng chuông bây giờ đã vương vất nỗi nhớ nhung, đã chứa trong nó một quá khứ ngắn ngủi, những tiếng chuông có lẽ sẽ có lúc tôi nhớ lại một ngày nào đó khi trở về Sài Gòn.

Khôi bảo:

- Chị muốn ăn cơm nhà hay cơm tiệm?

Tôi nói:

- Tùy Khôi.

Đi trong đêm Đà Lạt là đi trong hơi thở của núi rừng. Những cây anh đào vươn các cành trơ trụi trong sương, mùa hoa còn lâu lắm mới tới.

Chúng tôi leo dốc lên phía chợ vào một tiệm ăn. Khôi chiều chuộng tôi trong bữa ăn. Trong căn phòng kín, nhìn sâu qua những tấm kính chắn, bên ngoài trời đen thấp thoáng ánh đèn vàng rọi trên những vỉa hè sạch sẽ. Trời lạnh cóng, những lá xà lách và cà chua ăn lạnh miệng. Quán vắng người, chỉ loáng thoáng một vài thực khách ngoại quốc. Một người đàn bà tóc vàng ngồi hút thuốc lá, nói chuyên luôn miệng với người đàn ông ngôì đối diện, tôi đoán chừng họ là những nguời Pháp. Giữa bữa ăn, chúng tôi trông thấy Lãm đi qua ngoài cửa kính. Lãm giơ tay vẫy chúng tôi trước khi đi khuất.

Tôi nói với Khôi:

- Chúng mình bỏ cơm nhà hoài, chú Quyên la chết.

Khôi nói:

- Không đâu. Ổng đã quen với lối sống ấy quá rồi.

Tôi ngó Khôi và thấy hắn trở lại vẻ lầm lì cũ. Hai mắt Khôi cúi nhìn đĩa thức ăn làm cho cái quầng mắt trũng thêm xuống.

Tôi nói:

- Cứ kể làm những người khách lạ trong một thành phố cũng thích.

Khôi hỏi:

- Chị uống trà nữa không?

- Tôi bắt đầu sót ruột vì trà của Khôi rồi.

Tuy nhiên chúng tôi vẫn kêu một tách trà nóng.

Khôi bỏ đường, vắt chanh vào tách cho tôi.

Tôi hỏi Khôi:

- Tại sao trong bài hát thứ nhất của Khôi, Khôi đã nói đến người chết?

Khôi nhìn tôi, hai mắt đăm đăm làm tôi sợ.

Khôi nói:

- Sửa soạn đi về. Sắp tới giờ giới nghiêm rồi

Chúng tôi ra khỏi quán. Đường phố đã vắng, chỉ còn những người dọn hàng ở chợ về muộn, một vài người ngoại quốc và những cặp trai gái cũng đang trên đuờng trở về nhà đi trên các ngả đường ở phía xa. Chúng tôi đi bộ về nhà.

Gió kéo luớt trên các lối đi thổi vào chân. Mặt hồ lúc ấy lao xao những đợt sống vàng chói ánh trăng và sương mù phủ kín trên những cành thông nhìn thấy ngang tầm mắt dưới cuối dốc.