Chương XII …« Sầu lên ngọn ải!-oán ra cửa phòng»…-NGUYỄN-THỊ-ĐIỂM
Từ khi Nùng Trí-Cao ra đi và Vân-Anh vì thương cha mẹ già không ai nương cậy nhất là vì cái tinh-thần quốc- gia chủng-tộc, đã từ-chối không theo chồng lên biên-giới thì nàng không còn được tin tức gì của Nùng hết, trừ những vang bóng yếu-ớt do phụ thân nàng nhắc lại, mỗi lần ở trong Triều về.
Nàng biết rằng Nùng đã cử binh đánh nhà Tống và chiếm được chín châu: Hoành, Quý, Cung, Tâm, Đẳng, Ngô, Khang và Đoan, thanh-thế lừng-lẫy đến nỗi vua nhà Tống phải cử Bình-Liêu vương Địch-Thanh đem Ngũ hổ-tướng đi dẹp.
Đúng như nàng đã nói với Nùng, cái việc chàng bỏ ra đi không khiến nàng oán-hận chi cả. Nàng, trái lại, còn cảm-phục chàng ở chỗ nhất định không để cho phú-quý, tước-lộc, cả ái-tình nữa, giam cầm được cái chí muôn dặm dọc ngang khẳng-khái.
Vân-Anh chỉ riêng buồn cho nàng mà thôi. Thực vậy, nỗi buồn tê-tái càng lâu càng nẫu nà cả ruột gan nàng. Nàng tự nhủ sao loài người — gồm những đàn ông với các sự tin-tưởng kỳ-cục của họ — cớ sao cứ nhất-định không ăn yên, ở yên được với nhau? Cớ sao họ cứ phải chạy theo những cái bóng hão-huyền đến nỗi thù hằn, chém giết nhau để rồi những kẻ được cũng một ngày kia phải chết?
Hằng ngày, nàng hết quanh ra lại quanh vào để bất kỳ ngồi đâu hay đứng đâu cũng thấy hình ảnh chồng nàng hiện ra trước mắt. Nàng nhiều lúc muốn đi biệt một nơi nào để tránh sự tiếp xúc với các vật quen thuộc. Là bởi mỗi vật ấy đều nhắc nhỏm nàng, đều bắt trí óc nàng phải nhớ lại những ngày dĩ vãng, những ngày càng sáng tươi, rực rỡ bởi đã mất đi không bao giờ lại có.
Quanh mình nàng, hiện nay, có thể nói là chỉ còn rặt những cái xác chết, bởi, ngay dù là cây cỏ cũng là thứ cây cỏ có những mầu xanh linh động và muôn nghìn sắc hương tươi mởn của những ngày đã qua. Sự sống đã theo gót chàng đi lên ải Bắc lâu rồi!…
Chính nàng cũng không sống nữa.
Chính nàng hiện cùng chi là một xác chết biết cử-động, biết ngồi giương bai mắt tuyệt vọng nhìn cái bóng dáng của người yêu phảng-phất trên sự vật để mà não-nùng, mà đau khổ, mà tiếc thương.
Trong khi ấy thì ngày nọ ngày kia cứ nối nhau qua, như những giọt nước rỏ thánh thót xuống làm mòn một tảng đá nó là cuộc đời của con người.
Rồi, thình lình, một buổi chiều kia, một cái tin sực đến khiến Vân-Anh vùng sống lại: có sứ giả của Nùng Trí-Cao sai đến.
Nàng luống cuống bảo a-hoàn:
– Lan-nhi!… Mày ra gọi người ấy vào…trung-đường ta hỏi… À không, vào đây, vào thẳng vườn hoa này, vì ta muốn là người thứ nhất được tiếp tin chàng.
Một lát sau, Lan-Nhi đưa sứ giả của Nùng Trí-Cao đến.
Vân-Anh hớn-hở trỏ ghế cho ngồi và hỏi:
– Anh là sứ giả của Nhân-Huệ Hoàng-đế phải không?
Sứ giả nghiêng mình đáp:
– Bẩm Lệnh Bà, chính tôi là sứ giả của Đức Nhân-Huệ Hoàng-đế.
– Tốt lắm!…. Tốt lắm!… Anh thuật lại cho tôi nghe từng câu mà Ngài đã truyền cho anh…
– Tiểu tướng xin vâng mệnh.
– À! Không, anh kể lại từ đầu kia… Kể lại từ lúc ngài về Đảng Ro và khởi binh chống nhau với Lý Thái-Tông Hoàng-Đế, vì ta muốn được biết rõ từng li, từng tí những việc Ngài đã làm. Ta vì nghĩa quốc-gia chủng-tộc, vì bổn phận làm tôi con, không theo Ngài được nhưng lòng ta thờ kính Ngài chắc quỷ thần hai vai cùng rõ cho ta đấy…
Sự náo nức của Vân-Anh, những câu tha thiết nàng vừa nói làm cho sứ-giả ứa nước mắt. Nhưng, lúc này, Vân-Anh còn có thể chú ý đến cái gì ngoài những cái quan hệ đến chồng nàng được nữa!
– Bẩm Lệnh Bà, sau khi về Đảng Ro, Chúa-thượng toan cử binh đánh Tống thì Lý Triều bỗng sai Thái-úy Quách Thịnh-Dật đem quân lên hỏi tội. Chúa-thượng nổi giận đánh tan quân của Quách Thái-úy. Và nhân thấy Lý Triều cố ý không dung, Ngài liền xin thần phục nhà Tống, nhưng vua Tống cũng không cho. Cùng kế, Chúa-thượng tự lập làm Hoàng-đế rồi kéo quân sang đánh Tầu và cướp luôn được chín châu quận.
Vân-Anh gật đầu:
– Ừ, thì làm tài trai ở đời, chẳng gì cũng một phen tỏ mặt phi thường với thiên hạ chứ! Bỉ trượng phu hề ngã trượng phu…
– Vua Tống thấy lực-lượng của ngài mạnh quá, toan cầu viện với Lý Triều để hai mặt cùng tiến công, nhưng, Địch-Thach can ngăn, cho rằng có một đám giặc cỏ ở biên cương mà Thiên-triều không dẹp nổi e thất thể diện với các nước cống thần.
– Thất thể diện hẳn đi chứ còn gì!
– Tống Hoàng-đế mới sai bọn Dư Tĩnh, Tôn Miện đem quân đi đánh. Hai tướng này bị thua tan nát, thành thử Bình-liêu vương Địch Thanh phải thân hành đem Ngũ-hổ-tướng đi dẹp.
– Trận đánh này hẳn ác liệt?
– Bẩm Lệnh Bà, trận đánh này quả thực là ác liệt. Ấy cũng là nhờ có quân-sư Quái Đầu Đà và nữ tướng Đoàn Hồng-Ngọc bày trận Bát-quái dùng phép vây đánh quân Địch Thanh thu xiểng-niểng
Vân-Anh khẽ chau đôi mày liễu:
– Nữ tướng Đoàn Hồng Ngọc?…
– Bẩm Lệnh Bà, chính Đoàn Hồng-Ngọc con gái Đoàn Hồng. Người ấy giỏi lắm và rất được Ninh-Đức Thái-hậu quý mến.
Vân-Anh mím môi:
– Hừ! Thế.. sao nữa?
– Bẩm Lệnh Bà, không ngờ về sau Đoàn Hồng-Ngọc làm phản.
Vân-Anh đứng phắt dậy:
– Đoàn Hồng-Ngọc làm phản!
– Dạ.
– Tại sao?
– Nguyên do vì Hồng-Ngọc trước có đem lòng thầm yêu trộm nhớ Chúa-thượng…
Vân-Anh nói như nói với mình:
– Ừ, ta đoán quả không sai.
– Nhưng khi thấy Chúa-thượng đã có Lệnh Bà, và dù khi xa Lệnh Bà, Chúa-thượng vẫn hằng ngày tỏ lòng mong nhớ nên nàng tuyệt vọng….
– À ra thế!
Vân-Anh mỉm cười với hai giọt lệ long lanh trong khóe mắt.
– Đến khi nàng ra trận gặp Tống tướng là Địch Long, diện mạo rất khôi ngô, nàng mê ngay rồi đem hết các bí mật của trận bát-quái mách bảo quân thù, chẳng kể gì đến cái tình vua và cha nữa! Giặc Tống vì vậy phá tan quân ta.
Vân-Anh giật mình;
– Trời, thế quân ta thua to à?
– Bẩm Lệnh Bà, quân ta thua tan nát. Các danh tướng như Quái Đầu Đà, Hoàng Sư-Mật, Đoàn Hồng, Nguyễn Dư-Khương, Đinh Ứng-Lang đều tử trận.
Như bị một mũi dao đâm trúng ngực, Vân-Anh vội hỏi sứ giả:
– Thế còn Chúa-thượng?
Sứ giả cúi đầu thấp giọng:
– Chúa-thượng đem mấy thủ hạ chạy sang nước Đại-Lý.
– Ngài đi rồi?
– Bẩm Ngài đi rồi.
– Ngài sai ngươi về đây làm gì?
Sứ giả thò tay vào túi lấy ra một quả ấn ngọc và cởi thanh gươm bên mình dâng Vân-Anh và nói:
– Bẩm Lệnh Bà, Chúa-thượng sai tiểu tướng về trình với Lệnh Bà rằng ngài đi phen này mười phần thì chín chắc chết. Bởi vậy ngài gửi thanh gươm báu và quả ấn Nhân-Huệ Hoàng-đế để Lệnh Bà giữ gọi là ghi lại một chút cái giấc mộng đế-vương chóng tàn…
Vân-Anh tiếp lấy hai vật báu, ngồi lặng đi giờ lâu, hai hàng nước mắt tràn ra ướt má.
Sau cùng nàng ngửa mặt thở dài đoạn buồn rầu bảo sứ giả:
– Ta tiếc rằng lúc này ta không có cánh bay theo Chúa-thượng để được luôn luôn chầu chực bên Ngài, như nàng Ngu-Cơ đời Tây Hán. Nhưng, không được cái may gang tấc mặt rồng, ta ít ra cũng có cái cử động cuối cùng của Ngu Mỹ-nhân lúc biệt Sở Bá-vương trên bờ Ô-Giang.
Vân-Anh đứng dậy lấy ra một nắm vàng ngọc đưa cho sứ giả:
– Ta khuyên người nên từ giã đất này và phiền ngươi cố tìm cho được Chúa-thượng. Nếu ngươi đến còn kịp, xin ngươi làm ơn tâu hộ ta rằng: Tạ Vân-Anh này đã trọn đạo tôi con cùng vua và cha mẹ nay xin vẹn tiết cùng chồng. Vậy ngươi giúp ta, ấy là ơn to trời biển, dù ta sinh ra muôn kiếp nữa, nguyện sẽ báo đền ngươi. Ngươi nên đi ngay, kẻo lụy. Và, sau khi ngươi ra khỏi chỗ này, ta sẽ dùng thanh bảo kiếm Chúa-thượng ban cho mà kết liễu một đời bạc mệnh…
HẾT