Một Người mù trên cầu Saint-Vincent-
Ngày hôm đó là thứ năm, tháng 12, tôi quyết định đến thăm cô bạn gái Mady. Tôi sẽ mang cho cô ấy hai con tem của Camơrun mà bà hàng xóm mới cho. Bà có con trai là giáo viên tiểu học ở Camơrun. Đó là hại con tem đẹp tuyệt vời, mới tinh mà chắc chắn Mady chưa thể có. Tôi chắc cô sẽ thích lắm đây.
Thời tiết bên ngoài dìu dịu và ẩm ướt, như quá "dịu đàng" so với mùa này. Trời không mưa nhưng những hè phố vẫn loáng ướt như sau một trận mưa rào. Tôi vào nhà và thấy cô nhỏ đứng trước bàn bếp, đang sắp xếp bộ tem. Hai con tem tôi mang đến làm cô sướng điên, rồi cô chỉ cho tôi xem cuốn an-bom sưu tập mới, được đóng lại từ những tờ giấy trắng thừa còn lại ở các quyền vở cũ. Rồi cô quay sang chú ý đến Kafi lúc ấy đang ngấn ngơ đứng ngắm những hình chư nhật bé xíu nhiều màu sắc của cô.
- Chú chó dũng cảm của ta, - Cô ôm đầu chú rồi nói. - chắc mày phải thấy mùa đông ở Lyon buồn lắm nhỉ?
Kafi nhìn cô, mắt rạng rỡ vui sướng, rồi nó quay đầu về phía cửa sổ. Mady cười phá lên:
- A! Ta hiểu rồi, chú mày muốn đi dạo chứ gì? Sao lại không nhỉ? Sáng nay trời có lạnh lắm đâu? Cậu nghĩ sao Tidou?
Tôi chấp thuận ngay. Tôi rát thích đi dạo với Mady. Cô mặc thêm một chiếc áo choàng mỏng rồi rủ tôi xuống bến sông Saône.
Chúng tôi tản bộ trên cầu Saint- Vincent, Kafi nhảy nhót theo chúng tôi, sủa với xuống chiếc sàtan trôi chậm chạp dưới cầu.
Đúng lúc chúng tôi vừa sang tới bờ bên kia thì có tiếng lốp ôtô phanh rít chói tai làm hai đứa giật bẳn mình.
- Ôi lạy Chúa! - Mady kêu lên. -
Chiếc xe tải nhỏ chất đầy rau quả vừa đỗ xịch giữa lòng đường. Người lái xe nhảy vội từ trên cabin xuống, mọi người chạy đồ xô tới. Còn người đàn ông bị nạn nằm ngã xoài ra đường, chiếc vali nhỏ của ông đã tuột khỏi tay và cũng đang đồ kềnh bên cạnh.
- Ôi! - Mady lại kêu lên. - Một chiếc gậy sơn trắng này. ông ấy bị mù. Chắc người lái xe đã không chú ý chăng?
Ông già cố gắng đứng dậy, những người qua đường cũng xúm lại đỡ ông. Anh lái xe tải lo lắng hỏi:
- Bác có bị thương không? Quả tình cháu không hề nghe thấy có tiếng va chạm nào, cháu tưởng cháu đa phanh kịp thời?
- Tôi không sao đâu, - ông mù trả lời, - tôi cũng chưa hề bị đụng mà. Xe gây nhiều tiếng động mạnh quá khiến tôi cứ ngỡ nó chồm lên tôi rồi. Đó là lỗi của tôi, le ra tôi phải ở im tại chỗ chờ nó đi qua. Cơ mà tôi hoảng quá và đã trượt chân trên mặt đường trơn ướt.
Quả tình ông già không hề bị đau đớn chỗ nào. Người lái xe bế ông lên và đưa ông qua đường, một bà theo sau xách chiếc vali nhỏ mà bà đã nhặt lên hộ.
- Rất cảm ơn các ông bà! - Người mù vừa xin lỗi vừa nói. - Đây thực sự là lần đầu tiên có chuyện thế này xảy đến với tôi.
Người lái xe tải đã bỏ mặc chiếc xe giữa đường làm tắc nghẽn cả giao thông, anh ta vội chạy lại xe, mọi người cũng tản đần. Còn người mù cũng đã đi xa đọc hè phố, ông dò dẫm Chile gậy sơn trắng đề phát hiện chướng ngại vật. Tôi đưa mắt nhìn theo ông. ông đi được quãng một trăm mét bằng những bước đi khá nhanh và dứt khoát, rồi bỗng nhiên ông có vẻ như gặp khó khăn, ông không tìm thấy đường nữa sao? Bước đi của ông trơ nên ngập ngừng. Cuối cùng, ông phải đứng dựa vào tường rồi rút khăn mùi xoa ra tau trán. Mady níu tay tôi:
- Có lẽ ông ấy ốm đấy! Chúng ta ra đó xem sao.
Cô chạy về phía ông:
- Thưa ông, - Cô nói sốt sắng. - bọn cháu trông thấy ông bị ngã trước mũi xe tải; có lẽ ông còn chưa bình tĩnh lại sau cơn xúc động đâu. ông có muốn bọn cháu đưa giúp ông về nhà không ạ?
Ông mù cố gắng gượng mỉm cười.
- Chẳng sao đâu, ông hơi khó ở một chút! Nghỉ ngơi vài phút là bình thường ngay thôi.
Đó là một người đàn ông quãng sáu mươi tuổi có khuôn mặt gầy hóp, và cũng như mọi người mù khác, ông đeo một chiếc kính đen dày sụ. ông đội một chiếc mũ nồi xứ Bas-cơ để lộ ra những món tóc trắng sáng chói loà xoà. Chiếc áo khoác của ông đã sờn hết khuỷu, đó là một chiếc áo hai lớp cũ kỹ nhưng rất sạch sẽ. Tôi càng thấy lạ hơn nữa, cũng như Mady, trước kiều cách nói năng diễn đạt rất chọn lựa của ông.
- Thôi các con ạ, ta cảm ơn các con. Tạ đã thấy khá hơn nhiều rọi và không cần gì nữa đâu. Các con tiếp tục cuộc dạo chơi với chú chó to bự kia đi!
- Ông biết bọn cháu có một con chó ư?
Ông già mỉm cười yếu ớt:
- Nó là một con chó rất to, phải không nào? Ta đoán ra qua tiếng thở của nó. Những người mù có đôi tài cực nhạy, các cháu biết rồi đấy! Họ nghe thấy những điều mà những người khác không nhạn thấy được. Bọn chó to không thở giống bọn chó con. Con chó của các cháu, nếu theo ta nghe thấy, thì nó vừa chạy tới phải không, hơi thở của nó còn dồn dập lắm. Ta còn cuộc được rằng nó là một con becgiê kiều chó sói nữa.
Sự suy đoán này làm chúng tôi kinh ngạc.
- Vậy ông yêu thích chó không? - Mady hỏi.
- Tất cả mọi người mù đều rất yêu chó!
Rồi ông nói sau một tiếng thở dải:
- Ta mất chú chó của ta tuần trước, hẳn là nó bị xe cán rồi. Ta cho phép nó xuống sân chơi, chắc nó đã chạy ra phố. Tuy nhiên nó là một chú chó thận trọng lắm cơ! Nó đã dẫn ta đi khắp thành pho Lyon này. Tôi nghiệp Briquet! Một con vật mới tốt bụng làm sao... Thế còn chú chó của các cháu tên là gì?
- Kafi ạ.
- Ta có thể vỗ về nó một chút được không?
- Nó chỉ chờ có thế thôi ông ạ
Ông mù duỗi tay ra. Kafi sẵn sàng chờ nhưng cái ve vuốt của ông, nó thậm chí còn liếm tay ông nữa - điều mà rất hiếm khi chú lam vơi người lạ. Rất đỗi xúc động, ông mù để một giọt nước mắt lăn xuống má từ dưới cặp kính đen.
- Kafi dũng cảm của ta! - ông thở dài - Ta cũng đã đoán được rằng con không hề độc ác mà!
Rồi ông cố sức đứng vững lại.
- Bây giờ thì ta cảm thấy khoẻ khoắn hoàn toàn rồi, ta có thể tiếp tục đi. Một lần nữa cảm ơn các con. Các con đi chơi vui vẻ nhé!
Ông chìa tay cho chúng tôi bắt rồi cố bước đi cho thật vững.
- Tội nghiệp ông già! - Mady thở dài. - ông ấy có vẻ không muốn ai đưa về tận nhà. Song ông còn nhợt nhạt lắm! Thôi, miễn là không có điều gì xảy đến với ông ấy nữa!
Cuộc gặp gỡ đó cứ ám ảnh tôi mãi. Buổi chiều, tại căn cứ, tôi đã kề lại câu chuyện gặp gỡ ban sáng cho các bạn. Người đàn ông đáng thương đứng không vững ấy có thề lại ngã một lần nữa sau khi chúng tôi bỏ mặc ông. Tôi cảm thấy mình phải có trách nhiệm, vì đã không cố nài để được đưa ông về nhà.
Ngày hôm sau và cả hôm sau nữa, tôi vẫn còn nghĩ tới ông ấy, tôi lo lắng tới những gì xảy đến với ông. Hôm chủ nhật, khi đang tự hỏi liệu có nên dạo quanh bến sông Saône để xem có gặp lại ông không, bỗng Kafi sủa ầm ĩ, có tiếng bước chân lên cầu thang. Thật ngạc nhiên lầm sao!
Hoá ra đó là Mady! Hiếm khi tôi gặp cô vào chủ nhật lắm, cô thường hay đi chơi với bố mẹ vào những ngày này. Cô có cái vẻ bối rối kỳ lạ làm tôi ngạc nhiên.
- Tidou này, cậu có biết tại sao mình tới đây không?... ông mù trên cậu Saint-Vincent ấy, cậu còn nhớ chứ? ờ, mà thật dở hơi, mình không lúc nào hết lo lắng cho ông áy! Vừa đêm qua trong lúc mơ, mình như nghe thấy tiếng rít hai hùng của phanh xe tải. Mình chắc rằng ông già bat hạnh đã bị một cú không vừa đâu. Nếu cậu muốn...
Tôi chẳng để cho cô kịp nói hết câu.
- Mình hiểu rồi, Mady ạ!
Thế là chúng tôi cùng chung một ý nghĩ, và vì thế cô ấy đã cảm thấy nhẹ người. Song, làm sao tìm được ông già tóc bạc ấy bây giờ?
- Có lẽ mọi người trong khu phố biết ông đáy, - Mady nói - bọn mình đi hỏi thử xem sao.
Tôi khoác vội măng-tô rồi cùng cô và Kafi lên đường. Từ hôm thứ năm, thời tiết đã thay đổi. Cái lạnh cắt da đã thay thế tiết trời ẩm ướt. Và đêm còn có băng giá. Một đợt gió dông, rất hiếm thấy ơ Lyon, tưởng cứa đứt được cả tai bạn. Lúc rời phố Mảnh Trăng, cả Mady và tôi thọc sâu tay vào túi áo, còn Kafi thì xù bộ lông ấm áp đẹp đẽ lên để chống đỡ với cái lạnh gai người. Bến sông Saône vắng ngắt. Còn vài ba người qua đường hiếm hoi thì chẳng ai cho chúng tôi một chỉ dẫn nào cả. Tuy vậy, ở một góc quảng trường Saint-Paul, ông chủ tiệm cà phê cũng lên tiếng.
- Một người mù tóc bạc ư?... Hay xách chiếc vali nhỏ à? Đúng rồi, tôi biết các cháu nói tới ai rồi! Có lần tôi gặp ông ấy trên con dốc Saint-Barthémy đấy. Các cháu thử tới đó xem sao.
Chúng tôi biết con dốc Saint- Barthémy, chạy thẳng lên ngọn đồi Pourvière. Thật không may, là nó vắng ngắt như tờ, có lẽ cũng vì thời tiết xấu. Chúng tôi chỉ gặp có ba người đang lên nhà thờ, họ lại chẳng phải dân ở đây nên không biết gì về người mù cả.
Cuối cùng, tôi dừng lại hỏi một người đàn ông đang lúi húi sửa xe. ông ta lên tiếng:
- À, ông già mù ấy hả? "ông mù xách vali", dân phố gọi thế đấy! ông ta sống trong ngôi nhà cũ kỹ kia kìa. Các cháu cứ vao thẳng trong sân đi, thế nào cũng có người chỉ dẫn.
Ngôi nhà mà người đàn ông chỉ là một toa nhà cũ kỹ bon tầng, trông tróc lở đến thảm hại và ở trong tình trạng xuống cấp tới mức đáng bỏ đi từ lâu rồi. cồng ra vào có hai cánh như có mỗi một bản lề, xệ nghiêng xuống rất chênh vênh nguy hiểm, ờ một ô cửa sổ, những tấm bìa được cài vào thay cho các ô kính vỡ. Ban công tầng hai gỉ hoen bong lở đến mức tôi chẳng đời nào dám mạo hiềm bước lên. Tuy nhiên, nhìn vào lối kiến trúc cầu kỳ, ta cũng đoán ra được rằng ngôi nhà này xưa kia sang trọng lắm. Mady ngạc nhiên nhìn tôi:
- Không thể thế được, Tidou ạ! ông mù hôm trước trông chỉn chu sạch sẽ lắm cơ mà. Ông ấy mà sống trong ngôi nhà này ư?
Cồng dẫn vào hành lang trông ra sân, tới đó, Mady phải lùi lại đề toi đi trước. Sân tối om, ngồn ngộn những túi giẻ rách, xe bò kéo, bánh xe đạp, balô rách... Một người đàn bà đang giặt quần áo trong một chiếc bồn tắm trẻ con, dưới vòi nước. Thấy chúng tôi hỏi thăm, bà ta nói:
- À, tìm lão mù chứ gì! Tầng trên cùng, bên phải!... Mà chắc chúng mày không gặp lão ấy đâu. Hai ba ngày nay chẳng ai thấy lão ta...
Tôi và Mady đưa mắt nhìn nhau. Đã hai ba ngày rồi ư? Có nghĩa là từ hôm thứ năm! chẳng lẽ ông ay đã không đủ sức lê nồi về nhà mình sao?
Nắm chặt tay Mady, tôi bước lên cầu thang tối om cũ kỹ.
Dò dẫm từng bậc từng bậc một, cuối cùng chúng tôi cũng lên được tầng trên cùng, cũng hư hỏng chẳng kém nhưng còn sạch sẽ. Mỗi cánh cửa vào mỗi phòng đều mang dấu ấn của sự sang trọng ngày xưa, nhưng liệu đã bao lâu rồi chúng không được đánh vecni lại? Đúng lúc tôi định gõ cửa căn phòng bên phải thì Mady giữ tôi lại:
- Đừng Tidou, bọn mình đừng vào! Bây giờ mình nghĩ là mình đã hiểu. Hôm đó ông ấy đã cư nhất định không muốn ai đưa vệ, ông ấy không muốn đề mọi người biết ông ấy sống trong một xó tồi tàn thế này. Nếu bọn mình vào, ông ấy sẽ tức giận đáy!
Mặc dù cô ngăn cản, nhưng tôi vẫn gõ cửa. Không hề có tiếng trả lời. Tôi lại đập cửa một lần nữa, mạnh hơn.
- Ai đấy? - Một giọng nói vang lên.
Tôi nhận ra đó là giọng ông mù, giọng ông có vẻ lo lắng.
- Ai ngoài đó đấy? Có phải bà không, bà Tazergue? Tôi khó phân biệt bước chân bà quá!
- Ông đừng sợ. - Mady kêu lên - bọn cháu là hai đứa đã nói chuyện với ông hôm thứ năm, sau lúc ông ngã ấy! Hôm đó bọn cháu dẫn một chú chó theo. Chúng cháu đến đây hỏi thăm ông mà!
Qua cửa, tôi nghe thấy một tiếng thở phào nhẹ nhõm, rồi tiếng lách cách của chìa tra vào ồ khoá. ông mù xuất hiện, ông mặc một chiếc áo khoác như đang sắp sửa đi đâu, nhưng vẫn đề đầu trần và mái tóc bạc như cước của ông như toả ra một vầng hào quang bên trên khuôn mặt gầy guộc.
- Sao?... Các cháu... sao lại ở đây? Ai chỉ đường cho các cháu đấy?
- Người trên phố ông ạ, và một bà đang giặt dưới sân.
Ông giơ hai tay lên trời:
- Ôi, các con tội nghiệp của ta! Các con dám phiêu lưu vào căn nhà ồ chuột này à?
- Bọn cháu lo lắng quá. Hôm nọ bọn cháu cứ áy náy mãi là đã để mặc ông một mình. Người ta bảo rằng ông chẳng đi đâu từ hôm thứ năm. ông ốm ạ?
- Không hẳn là ốm, ta chỉ hơi bị bầm tím một chút thôi. Ta đang nằm, hay chính xác hơn là đang "dán" trên giường lúc các cháu gõ cửa
Ông gượng mỉm cười rồi đưa tay lên vuốt lại mái tóc trắng như cước cho nghiêm chỉnh, ông còn chỉnh lại chiếc ca vát.
- Vào đi các con!... cả mày nữa, vào đi, chú chó tốt bụng của ta!
Căn phòng mà chúng tôi bước vào rất rộng, giống như mọi căn phòng của các ngôi nhà cổ khác. Toàn bộ lớp thạch cao trên trần đã bọng tróc gần hết, để lộ lớp tatit bằng gỗ bên trên. Khó có thề định rõ màu của lớp giấy bồi tường nhưng ngay từ cái nhìn đầu tiên, vẻ sạch sẽ của căn phòng đã khiến nó gần như đối lập với những gì chúng tôi nhìn thấy trong khu nhà tồi tàn này từ nãy tới giờ.
Hai cửa sổ mở xuống phố, từ đây có thể thấy hết các mái nhà, và nhìn rát xa, tới tận đồi Chữ Thập Hung. Trong một góc phòng có một chiếc giường gỗ, bên cạnh là một lò sưởi bằng gang chắc chắn đang nguội lạnh vì nhiệt độ trong phòng không ấm áp hơn ngoài trời chút nào.
Song, điều đập vào mắt chúng tôi mạnh nhất là một đồ gỗ lớn nằm chính giữa phòng và được phủ cẳn thận một tấm vải trùm xuống tận sàn.
- Các con đừng đề ý gì tới sự sắp xếp lộn xộn nhé! - ông mù lên tiếng, chắc ông đoán được cái nhìn của chúng tôi - Các con hãy lấy ghế và ngồi xuống!... Tha lỗi cho ta vì sự xúc động lúc mở cửa nhé! Ta ít khách lắm cơ! Hơn nữa ta cũng chẳng muốn... nhưng còn các con thì ta luôn sẵn sàng... ca chú chó của các con nữa!
Ông đã mỉm cười, nhưng nụ cười vẫn nhợt nhạt chứng tỏ ông chưa hoàn toàn bình phục sau cú ngã. ông dò dẫm khua tay trong khoảng không để tìm Kafi, rồi ong vuốt ve âu yếm nó hồi lâu.
- Các con ạ, - ông thở dài. - ta xấu hổ lắm khi đón tiếp các con trong ngôi nhà xấu xí như thế này! Các con sẽ nghĩ gì về ta đây?
- Ông sống một mình ư? - Mady hỏi liều.
- Chao ôi! Con gái ạ, phải, ta đã sống một mình từ ba tháng nay rồi. Bất hạnh làm sao cái ngày hôm ấy, ngày ta mất đi cô em gái sống cùng ta suốt bao năm trời.
- Bây giờ ai chăm sóc, dọn dẹp, nấu nướng cho ông?
- Bà hàng xóm, bà Tazergue ấy. Đó là một người đàn bà dũng cảm đã rủ lòng thương ta, bà ấy là người duy nhất hợp với ta trong toà nhà này, nhưng rồi ta cũng tự xoay sở được. Khi ta còn con chó, ta vẫn tự đi mua bán, thậm chí còn mua hộ cho cả bà ấy nữa, vì bà ấy đi lại khá khó khăn, ôi! Briquet đáng thương! Ta không ngờ rằng ta nhớ no ghê the!
- Ông không định thay nó bằng một chú chó khác à?
Ông mù thở dài đánh thượt:
Tất nhiên là không có chó, ta di chuyển thật khó khăn. Cứ như ta bị mù gấp đôi ấy! Briquet đã nhìn hộ ta. Liệu ta có dũng cảm thay thế bằng một con khác không? vả lại, một con chó thì đắt lắm!
Rồi tất cả cùng im lặng. Bất giác chúng tôi lại đưa mắt nhìn vật lạ được giấu kín dưới tám vải phủ một lần nữa. Ông mù như đã đoán được nỗi tò mò của chúng tôi.
- Cái này làm các con ngạc nhiên phải không? - ông vừa nói vừa sờ sờ tấm vải phủ. - Ta sẽ giải thích cho các con ngay đây!
Thê là ông mù bắt đầu kể câu chuyện của mình, ông bị mù bẩm sinh, người ta đã gửi ông vào một trường đặc biệt đành cho người mù và ông đã học đọc bằng chữ noi. Thật bất hạnh, bố mẹ ông lại mất sớm, vậy là ông không thể tiếp tục việc học hành được nữa. ông sống cùng bà em gái kém ông vài tuổi, bà ấy đã gần như hy sinh cả đời mình để tận tâm tận lực chăm sóc ông. Khi họ tới sống ở đây, ngôi nhà còn sang trọng lắm. Nhưng rồi tới một mùa đông, những đợt mưa lớn đã làm sụt đất đồi Fourvière khiến cho nhiều ngôi nhà bên cạnh đã sụp hoặc nứt vỡ hết Quá khiếp sợ, dân sống trong khu nhà ông bỏ đi cả. Những người bình dân hơn, thậm chí cả những người không nhà cửa bắt đầu kéo đến ở. Rút cục, toà nhà lớn bị xâm chiếm hết bởi dân bán đồ cũ, dân nhặt giẻ rách, họ chất đống "hàng hoá" của mình trong sân.
- Sao ông không rời đây đi? - Mady hỏi
- Chao ôi, cô bé ơi, bố mẹ ta có để lại cho chúng ta nhiều tiền lắm đâu! Từ thời đó giá thuê nhà cũng đã rất đắt rồi. Hơn nữa, khu phố này đã quá gắn bó với ta, nó là của ta, của những khách hàng của ta.
- Của khách hàng của ông ư?
- Ừ phải, như rất nhiều người mù khác, ta đã học nghề so đây đàn pianô. Chính vì thế mà hôm trước lúc các con gặp ta, ta đang xách một chiếc vali đấy, ta xếp đồ nghề vào đó. Nhưng khách ngày càng ít Người ta chẳng còn mấy thời gian học đàn pianô nữa... hơn nữa, bây giờ ta đã mất chú chó rồi... Xin lỗi các con nhé, lẽ ra ta không nên nói với các con những chuyện buồn... ít nhất các con cũng không bị lạnh chứ? Đề tiết kiệm than, ta đã không nhóm lò sưởi, ta cứ khoác chiếc măngtô lên người như thế này này..
Rồi ông rướn người, dường như tiếc là đã thồ lộ những đau buồn của cuộc đời mình, ông đứng dậy dò dẫm đi về phía thứ đồ gỗ lớn đặt choán cả khoảng rộng giữa phòng.
- Cũng may mà ta còn cái này! - ông vừa noi vừa tự hào lắc lắc mái tóc trắng muốt rất đẹp.
Bằng một cử chỉ vung tay rộng, ông kéo tấm vải phủ, nó trượt xuống và rơi xuống đất. Một chiếc đàn pianô xuất hiện, đó là một chiếc đàn đồ sộ tới mực cả Mady và tôi chưa bao giờ trông thấy một chiếc giống thế. Nó có vẻ còn mơi và được giữ gìn rất cẩn thận.
- Phải, - Ông mù giải thích.- đây là một chiếc đàn chơi trong cả dàn nhạc, một chiếc đại dương cầm.
Rồi ông nói tiếp sau một lát ngừng lại:
- Các con đã bao giờ nghe nói đến Liszt chưa?
Liszt ư! Cái tên này không phải là không quen thuộc với tôi! ờ trường, thầy giáo tôi đã nhắc tới nó. Cộ đúng đó là tên của nghệ sĩ dương cầm vĩ đại không nhỉ?
- Phải, đó là một nhạc sĩ vĩ đại. - Ông mù nói tiếp. - Nghệ sỹ dương cầm vĩ đại nhất của thế kỷ trước. Nhạc cụ tuyệt vời này là của ông ấy đấy. ông ấy đã dùng nó để soạn rất nhiều bản nhạc nồi tiếng. Khi Liszt vĩ đại rời Pháp, năm 1847, ông ấy đã để lại chiếc dương cầm cho một học trò mà ông yêu quý. Lúc người này chết, ông đã tặng cho một nhạc sĩ pianô mù, rồi tới lượt ông mù ấy giao lại cho ta trước lúc chết, thế là đã ba mươi năm trôi qua rồi.
Rồi, ông cúi xuống mặt gỗ đen sáng bóng:
- Hơn nữa, các con nhìn đây này: 1843, năm sản xuất của chiếc đàn, và rồi hai chữ cái này nữa: F.L, dấu ấn của Franz Liszt. Nhạc cụ này vô giá!
- Ôi! - Mady kêu lên. - Vậy ra ông
không chỉ là thợ so dây đàn ư? ông cũng là nhạc sĩ?
Một vẻ buồn bã chợt thoáng qua trên khuôn mặt người mù.
- Lúc ba mẹ ta chết, ta buộc phải bỏ dở việc học hành, song ta vẫn vô cùng yêu âm nhạc, ta tiếp tục cặm cụi học một mình, chỉ cho mình thôi, để giải trí thôi.
Ông vuốt ve âu yếm những phím đàn, rồi đột nhiên, khuôn mặt ông chợt đanh lại. ông vội vã thu tấm vải phủ rồi trùm ngay lên chiếc đàn. ông lại tới ngồi trong chiếc phô-tơi cũ kỹ và gọi Kafi lại vuốt ve.
- Chú chó tốt bụng của ta, chú giống "đứa" mà ta đã mất lắm! Nó cũng là mọt chú chó becgiê kiểu chó sói, nhưng nhỏ hơn, cũng thông minh như chú mày ấy. Nó là kẻ dẫn đường tuyệt diệu cho ta, nó cứ gừ gừ hoặc sủa phía trước ta, giúp ta tránh nguy hiểm... Thiếu sự bảo vệ của nó, hôm trước ta đã phát hoảng lên như thế đấy... Thôi nào, bây giờ các con của ta, các con hãy nói về mình đi nào. Các con là ai? Cũng sống ở khu phố này à?
Mady giải thích cho ông rằng chúng tôi ợ khu phố Chữ Thập Hung, rằng rất nhiều bạn bè của chúng tôi sẽ rất sung sướng được tới thăm ông.
- Các con không hề làm phiền ta đâu, - Ông trả lời sốt sắng. - mà trái lại cơ! Hôm trước, ta không muốn các con tới tận đây là vì ngôi nhà này: ta hơi xấu hồ, nhưng còn bây giờ, khi các con đã biết rồi...
Ông còn nói thêm:
-...Và đừng quên dắt theo chú chó nhé!
Ông đứng dậy tiễn chúng tôi ra cửa. Cuộc viếng thăm của chúng tôi làm ông rất vui. Song, vào phút cuối, ông lại có vẻ lo lắng, vẫn vì chiếc dương cầm, và ông nói thêm với chúng tôi là không được kể với bất kỳ ai. ông lưu ý thêm:
- Lúc nào các con đến thì đừng quên nói tên khi tới cửa nhé. Ta sẽ không mở cho bất kỳ ai khác đâu, ta sẽ biết đó là các con!
Ông quay vào và chúng tôi lại nghe thấy tiếng xoay chìa lách cách trong ổ khoá, tiếng rút chìa.
- Ông mù tội nghiệp! - Mady lên tiếng. - Sao ông ấy phải "phòng thủ" ghê thế nhỉ? Chẳng có gì ghê gớm lắm để ăn cắp được ở nhà ông, ngoại trừ cây đàn pianô. Mà ai có thể mang đi một đồ gỗ đồ sộ đến thế? Phải khiêng xuống hành lang cơ mà?
Ngoài trời, màn đêm đã bắt đầu buông xuống, trời lạnh buốt. Tới trước cầu Saint-Vincent, chúng tôi nhìn lại chỗ ông mù đã suýt bị xe cán.
- Cái ông cần bây giờ là một chú chó! - Mady lên tiếng.
Chúng tôi qua cầu, có cảm tưởng gió có thể cuốn bay chúng tôi. Đến bờ bên kia, Mady đừng lại, nhìn tôi, rồi cô ngại ngùng hỏi:
- Liệu chúng ta cho ông ấy mượn Kafi?...