Hai Chiếc đại dương cầm của Franz Liszt-
Cho mượn Kafi! Ý tưởng ấy cũng vừa đến với tôi, mặc đầu ý nghĩ phai chia ly với nó làm tim tôi đau thắt. Kafi thông minh thế thì việc dẫn đường cho một người mù đâu có khó khăn gì. Tuy nhiên, nó không hoàn toàn chỉ thuộc về tôi. Chú là của cả "Nhóm bạn đồng hành ở đồi Chữ Thập Hung" nữa. Tôi phải nói điều ấy với các bạn mình.
Hôm sau tới trường, khi tôi kề chuyến viếng thăm và dự định của Mady cho các bạn.
Bọn chúng đều không đồng ý. Chỉ cộ Guille là đong tình VỚI tôi. Lúc biết gần như tát cả mọi người trong nhóm đều phản đối chúng tôi, Mady nổi cáu đùng đùng. Tôi phải cố gắng lắm mới làm cho co chịu chấp nhận rằng các bạn chống lại chỉ vì sợ sẽ mất Kafi.
- Thật là một lũ ích kỷ, không có trái tim! - Cô tức tối kết luận. - Cậu báo các bạn ấy chiều nay học xong, mình sẽ gặp ở căn cứ.
Thế là ngay chiều hôm đó, trong căn hầm quen thuộc, cuộc bàn luận diễn ra sôi nồi dù thời tiết vô cùng lạnh giá. Cả Corget và Gnafron đều không muốn từ bỏ quan điểm của mình. Ca Tondu cũng vậy, cậu này vốn rất yêu quý Mady, nhưng cũng không chịu đồng tình với cô.
- Nếu cậu muốn, - Hắn nói. - bọn mình sẽ tiết kiệm tiền để mua cho ông ấy một con chó khác, nhưng hãy giữ Kafi lại!
- Thôi được rồi. - Mady phật ý và thất vọng. - Chúng ta đừng nói đến chuyện này nữa! Tớ chỉ đề nghị các cậu một điều rất nhỏ này thôi: Tidou và tớ đã nói với ông mù về các cậu. Bọn tớ nghĩ chúng mình sẽ cùng nhau trở lại tham ông ay. ít nhất thì các cậu hãy hứa đồng ý đi cùng bọn mình!
- Đồng ý, - Corget nói. - bọn mình sẽ cùng đi.
Thế là thứ năm sau, cả lũ chúng tôi cùng tụ họp tại căn cứ để cùng đi ra bến sông Saône, trong màn sương mù mịt. Các bạn tôi đều biết con dốc Saint- Barthélemy, nhưng ít người đã trèo lên tận đỉnh. Họ cùng nhăn nhó mặt mày khi bước vào sân khu nhà tồi tàn cũ kỹ.
- Nhà cửa gì mà quái quỷ thế này, - Gnafron nói. - phải, có thể nói đây là một ngôi nhà quái gở. Chỗ này mà cậu muốn đề lại Kafi a?
Trèo hết tầng nậy đến tầng kia rồi cũng tới nơi. Mady tiến lên trước, cô nói to trước cửa:
- Cháu đây ông ơi, ông có nhận ra không ạ? Cháu dẫn các bạn cháu đến thăm ông!
Cũng như lần đầu, tôi nghe thấy tiếng chìa khoá lách cách, rồi tiếng xoay ồ khoá. Ông mù xuất hiện. Đúng hôm nay là thứ năm nên ông có ý chờ bọn tôi tới. Ông vừa tắm rửa xong: tóc chải gọn ghẽ, cravat thắt nghiêm chỉnh, ông mặc một bộ véttông màu sẫm - một bộ khrê cồ lồ nhưng rất sạch sẽ, quần là phẳng phiu.
- Sao đông thế! - ông kêu lên khi tình cờ quơ tay lên. - Ta mong chờ các con lắm, các bạn nhỏ ạ!... Và cả chú nữa, chú chó tốt bụng của ta!
Rồi ông để chúng tôi vào phòng, hôm nay trong này thật ấm áp dễ chịu làm sao: ông đã nhóm lò sưởi lên, vả chắc chắn là vì sự hiện diện của chúng tôi rồi!
- Ông thấy không, các bạn cháu đã đến đây này! ông có muốn cháu giới thiệu họ với ông không? - Mady vui vẻ nói.
- Ồ không, con hãy đề họ tự giới thiệu, cái đó giúp ta sau này nhận ra giọng họ.
Gnafron, vốn xưa nay chả hề nhút nhát bao giờ, mở đầu:
- Tên cháu là Gertand nhưng mọi người đều gọi là Gnafron. Cháu hơn mười ba tuổi, cháu nhỏ người lắm. Các bạn bảo rằng cháu phải chải đầu bằng bồ cào vì tóc cháu cứ luôn xù lên như tổ quạ ấy! Cháu thích chơi bi và nhất là chơi bài tây.
Đến lượt mình, Corget kề rằng hắn sống gần "Mái nhà của Những Người Thợ dệt", hắn yêu chó và thích đọc sách, rồi Tondu tự thú nhận rằng hắn bị trọc vì một căn bệnh thủa nhỏ, còn Bisteque thì kề rằng bố làm nhân viên văn phòng trong một cửa hàng thịt.
Trong tất cả mọi người thì người nhút nhát nhất chắc chắn là Guille rồi! Hắn chẳng thích nói về mình chút nào.
- Cháu, - Hắn lên tiếng. - cháu thích đọc sách, và môn toán không khá lắm.
- Nhưng đây lại là nhà vô địch trượt patín! - Gnafron sôi nồi nói thêm. - Và giá mà ông được nghe bạn ấy thổi kèn armónica nhỉ!
- A! Kèn armónica! - ông mù hào hứng. - Cháu cũng học nhạc à?
Guille ngượng đỏ mặt, nhưng cái đó chẳng quan trọng vì ông mù đâu có nhìn thấy, rồi hắn thú nhận rằng hắn thậm chí còn chẳng biết đọc lấy một nốt nhạc!
Gnafron nói thêm:
- Dù sao cậu ấy vẫn chơi được bất cự một giai điệu nào và không hề sai. Nếu ông muốn nghe, cháu chắc chắn cậu ấy có cây kèn trong túi áo đấy!
- Chắc chắn là ta muốn rồi. - ông mù đồng tình. - Ta sẽ rất vui được nghe cháu thổi ngay cả khi cháu không biết lấy một nốt nhạc nào!
Vì thiếu ghế nên chúng tôi phải ngồi cả xuống sàn. Chỉ còn mọt mình Guille đứng, hẳn rút cây kèn armónica trong túi ra và bắt đầu thổi. Hai tay chống cằm, ông mù hết sức chăm chú lắng nghe,
- Hoan hô con trai! - ông nói. - Con có thể chưa bao giờ học nhạc nhưng con hiểu âm nhạc đấy, con thổi có hồn lắm và hợp âm rát khá. Thật tiếc là con chưa học hành gì cả!- Mà có lẽ cũng chưa muộn đâu, nếu con muốn trở lại đây thăm ta...
Rồi ông quay về phía chúng tôi:
- Còn các con, âm nhạc không thu hút các con ư? Các con có muốn nghe một chút gì đó không?
Ông già rời ghế, tiến đến gần và bằng một cử chỉ vô cùng trang trọng, ông mở nhạc cụ kỳ diệu ấy ra. Các bạn tôi không ai nện nồi một tiếng trầm trồ thán phục. Chắc chắn ông cũng đã định sẽ cho bọn tôi chiêm ngưỡng nó rồi, mặt gỗ vecni được đánh bóng kỹ lưỡng, sáng như gương, phản chiếu các đồ vật khác trong căn phòng.
Ông già lại gần ghế đẩu, ngồi xuống trước phím ngà. Rồi ông xoay người lại phía chúng tôi và nói:
- Ta đã giải thích cho Mady và Tidou về nguồn gốc chiếc đàn này. Nó là của nghệ sỹ nồi tiếng Franz Liszt, ông đã soạn trên chiếc đàn này rất nhiều bản trong số những bản rapxôđi của ông... Các con có muốn ta chơi một bản, bản nổi tiếng nhất, bản "Rapxôđi Hungari số 2" không? Chắc chắn các con sẽ nhận ra nó vì đã nghe trên đài rồi!
Và rồi, lắc lắc mái đầu bạc trắng rạt đẹp, ông già có bề ngoài thanh khiết ấy dạo một đoạn hoài âm dữ dội đến nỗi cửa kính rung lên bần bật.
Cho tới ngày hôm đó, không ai trong số chúng tôi có niềm say mê đặc biệt với pianô. Chúng tôi vẫn thích ghita điện hơn. Đây thực sự là khám phá. Chưa bao giờ chúng tôi tưởng tượng được rằng mình lại có thể xúc động đến thế! Khi bàn tay điêu luyện của người nghệ sỹ mù múa trên phím đàn, chúng tôi thực sự đã bị mê hoặc, phải, bị mê hoặc! Những ngón tay ông khi thì đập mạnh như điên cuồng lên phím, khi thì chỉ thoáng lướt qua như vuốt ve! Bằng một sức mạnh thần diệu nào đó, chúng tội đã bay sang một thế giới khác, có thể về phía những bình nguyên bát ngát mênh mông cua xứ sơ Hungari, đuổi theo những chú ngựa hoang đang phi nước đại...
Khi tiếng đàn ngừng bặt, chúng tôi đang còn mộng mơ ở đâu đó rất xa, không ai động đậy.
Rồi cuối cùng, Mady đột ngột đứng dậy và cúi xuống ôm hôn ông mù.
- Ông chơi nữa đi! - Cô kêu lên xúc động.
- Nữa đi ông! - Guille cũng lên tiếng.
- Ông chơi nữa đi! - cả nhóm cùng đồng thanh.
Ông mù, lúc ấy đã đứng lên, vô cùng xúc động, ông lại ngồi xuống ghế nhưng, đúng lúc ông duỗi tay ra sắp dạo đàn bỗng đột ngột dừng lại, quay về phía chúng tôi:
- Nếu các con muốn, bây giờ ta sẽ chơi cho các con nghe một bản mà ta soạn, các con là những thính giả đầu tiên đấy!
Và thế là ông lại bắt đầu chơi. Từ trước tới giờ tôi chẳng hiểu biết gì về âm nhạc cả, song tôi van hiểu rằng đoạn nhạc này khác nhiều so với bản rapxôđi của Liszt. Bản nhạc của Liszt với tôi có vẻ có chất gì đó mạnh mẽ, tàn bạo hơn, ngắt quãng nhiều. Còn bản này chỉ toát lên ve êm dịu, nhẹ nhàng, vơi những thanh âm lên rất cao, như những tiếng hát trên không trung. Người nghệ sỹ như chỉ một mình với thế giới âm nhạc của mình. Chúng tôi càng cảm thấy bị thôi miên hơn, bị lôi cuốn hơn.
Nhưng, chuyện gì xảy ra vậy? Chúng tôi đang mê mẩn lắng nghe đoạn nhạc có vẻ khá dài thì đột ngọt, tất cả bỗng im sững, các nốt nhạc ngừng bặt. Ông mù buông thõng cánh tay, chậm rãi quay lại phía chúng tôi, nét mặt buồn bã u ám.
- Các con của ta, cho ta xin lỗi!
- Ông làm sao thế? - Mady lo lắng hỏi. - ông thấy khó chịu trong người ư?
Ông lắc đầu:
- Ồ, không sao đâu... không, ta chẳng đau ốm gì cả. Chỉ đơn giản là trong lúc chơi, một ý nghĩ chợt đến với ta, một nỗi sợ hãi thật ngớ ngẩn.
- Một nỗi sợ hãi ư?
- Một linh cảm. Ta có cảm giác rằng đây là lần cuối cùng ta được chơi trên chiếc đàn này. ôi! Giá mà các con biết!
Tôi nhìn Mady, cô cũng ngạc nhiên vì sự dừng chơi đột ngột và vì thái độ của ông già. Cô hỏi:
- Tại sao ông lại có linh cảm? ông lo lắng gì chăng?... ông không được khoẻ ạ?
Ông không trả lời. Với tâm trạng nặng nề, ông tựa vào chiếc pianô, đầu cúi gục, tay ôm trán. Tôi cùng Corget giúp ông đi vài bước tới chiếc phô-tơi. Ông thả mình nặng nhọc xuống ghế.
- Hãy tha thứ cho ta. - ông nói khi biết chúng tôi đang vô cùng bối rối xúc động vì ông. - Ta thật nực cười làm sao! Đó la vì gã đàn ông ấy.
- Người đàn ông nào ạ?
- Một gã lạ mặt đã tới tìm ta.
- Lúc nào ạ?
- Tháng trước, hai lần liền, rồi hôm kia cũng tới gõ cửa nhà ta lần nữa. Ta chắc chan gã muốn gây khó dễ với ta.
- Khó dễ ư? - Mady thốt lên.
- Vì cây đàn pianô ấy, hắn muốn mua. Còn ta thì lại không đổi chiếc đàn lấy tất cả vàng trên thế giới này! Nhưng hom kia, ta đa hiểu rằng gã ta sẽ không bao giờ chịu đầu hàng. Các con hãy tin ta, dù gã có cái kiểu nói rất ngọt ngào dễ chịu, ta vẫn biết rằng gã sẽ làm bất cứ điều gì để đạt được mục đích của mình!
Ai cũng cố gắng xoa dịu ông, mọi người nói rằng không ai có thể ép buộc ông bán một vật thuộc sở hữu của ông. Ông vẫn lắc đầu quầy quậy.
- Tất nhiên rồi! Song ta không nhầm đâu, hắn muốn gây khó dễ cho ta mà.
Tôi hỏi ông những thông tin kỹ càng về gã lạ mặt nọ.
- Chao ôi, ta đâu có thề nhìn thấy gã. Ta chỉ có thể nói với các con rằng gã ta tầm vóc thấp nhỏ, vì ta xác định nhờ chiều cao tiếng nói của gã lúc gã cạnh ta; khi gã đi lại, sàn chỉ hơi rung nhẹ, chắc chắn gã cũng chẳng vạm vỡ gì rồi. Hai lần gã đến, ta đều ngửi thấy mùi thuốc lá vàng chanh toả ra từ quần áo gã, ta khẳng định rằng gã hút thuốc "xịn". Nhưng cái mà ta có thể miêu tả kỹ càng hơn là giọng nói, giọng gã cao, hơi nặng âm mũi
- Gã có xưng tên không ạ?
- Gã chỉ nói gã là người bán đàn dương cầm thôi.
- Thế theo ông thì tại sao gã lại theo đuổi đến cùng cây đàn của ông?
- Hiển nhiên là vì gã biết được chiếc pianô này vô giá; nên gã mới trả cao như thế.
Ông thở dài rồi cố gượng cười:
- Mà thôi, các bạn trẻ ạ, có khi chính ta cứ tự nghĩ ra những điều ngớ ngẩn. Khi người ta không nhìn thấy ai thì có thể tưởng tượng ra đủ thứ! Nói được cho các con nghe những lo lắng ấy là ta đã thấy nhẹ cả người rồi.
Mady giúp ông trùm tấm vải phủ lên chiếc đàn quy giá rồi chúng tôi bắt đầu trò chuyện. Khi màn đêm đã buông xuống, chúng tôi phải ra về. ông mù cảm ơn chúng tôi nồng nhiệt lắm, ông rất vui vì chúng tôi đã tới thăm ông. Và thế là tự đáy lòng, mọi người đều tự nhủ sẽ quay trở lại. Trước khi để chúng tôi về, ông còn vuốt ve Kafi hồi lâu:
- Chú chó tốt bụng của ta! Đúng là chú đã làm ta nhớ tới Briquet. Khi chú giụi giụi vào chân ta, ta tưởng như thấy lại nó. Chú cũng sẽ quay trở lại đây với ta, phải vậy không?
Chúng tôi bước xuống cậu thang tối om. Bên dưới, sân vắng ngắt, cả quãng đường xuống dốc Saint-Barthélemy, không ai nói lời nào vì còn quá xáo động bởi những chuyện vừa qua. Rồi đột nhiên, Corget đừng lại, nói:
- Tidou, Mady này, hai bạn nói có lý đấy, bọn mình không thể bỏ mặc ông mù được! Mình chắc chắn là có Kafi ở bên, ông sẽ cảm thấy bớt cô đơn, được che chở bảo vệ. Các bạn có đồng ý vậy không?
Đồng ý! - Cả nhóm cùng đồng thanh.
Ngay ngày hôm sau, tôi cùng Mady trở lại nhà ông mù để báo cho ông rằng cả lũ chúng tôi đã nhất trí giao Kafi cho ông trong thời gian chờ đợi ông tìm được một chú chó khác.
Vậy là Kafi đã ở lại nhà ông mù. Hành động này chúng tôi làm là hoàn toàn tự tâm, song, lúc để lại chú ở đó, đi qua sân ngôi nhà, tôi vẫn không khỏi nghĩ tới Briquet. Liệu nó có thực sự bị xe can trên phố không? Trên con dốc Saint-Barthélemy, xe cộ đâu có nhiều! Chẳng hiểu tại sao, nhưng tôi cứ có cảm giác rằng chính cái sân chết tiệt này đã đem bất hạnh cho chú chó tội nghiệp.
Nhiều ngày trôi đi. Gần như tối nào, dù đi một mình hay cùng các bạn, tôi cũng rời khu phố Chữ Thập Hung để tới thăm Kafi.
Ông mù từ hôm đó rạng rỡ hẳn. Sự hiện diện của Kafi làm ông quên đi những chuyến viếng thăm kỳ lạ đã làm ông từng hốt hoảng, ông không biết cảm ơn chúng tôi thế nào. ông bảo rằng Kafi là một người dẫn đường tuyệt diệu, ngay từ đầu nó đã hiểu rõ người ta chờ đợi gì ở nó; với một người bạn đồng hành như thế, ông mù cảm thấy rất an toàn. Khi ông xuống thành phố để tới nhà khách hàng, Kafi ngoan ngoãn đi đằng trước, ông túm sợi dây buộc, có chướng ngại vật gì là nó dừng lại ngay.
- Quả thật ta đã không chờ đợi một chú chó nào có thể khá hơn Briquet... Và con biết không, Tidou, ta mới tự hào làm sao khi trên phố, ta nghe thấy người ta trầm trồ: ‘ôi, chú chó becgiê đẹp quá!'. Briquet chẳng được khen như thế. Nó bị khập khiễng từ hồi nhỏ vì một lần bị bỏng nước sôi ở một cẳng chân.
Cuộc sống mới này hình như chẳng khiến Kafi chán nản chút nào. Nó rất ý thức được tầm quan trọng của nhiệm vụ của mình. Bất cứ lúc nào ông mù bắt đầu mò mẫm đi lại trong phòng, nó đều bám theo để giúp đỡ ông. Đối với nhóm bạn đồng hành và tôi, những chuyến viếng thăm lên dốc Saint-Barthélemy này trở nên vô cùng dễ chịu.
Ông mù dạy chúng tôi biết yêu âm nhạc, không phải là ông kiến nghị mở vải phủ đàn nữa mà là chúng tôi, chính chúng tôi "cầu xin" ông chơi một khúc nhạc, một bản yêu thích trong những bản của ông.
- Mình chắc chắn đây là một nghệ sĩ vĩ đại đấy! - Guille thán phục.
Khi ấy, chúng tôi đâu đã ngờ được điều gì sắp xảy ra!
Đó là một chiều thứ bảy, tôi đến thăm ông mù và Kafi. Thông thường, cứ nhận ra tiếng bước chân tôi lên cầu thang là Kafi đã vội vã chạy ra sau cánh cửa và sủa nhắng vui vẻ để chào đón tôi.
Nhưng tối hôm ấy, tôi chẳng hề nghe thấy tiếng nó. Tôi nghĩ rằng chắc ông thợ so dây đàn đã đi đâu cùng nó rồi. Đúng lúc tôi định đập cửa thì cửa tự bật mở, ông mù luống cuống chạy vội đến trước mặt tôi:
- Con đấy ư, Tidou. Kafi, nó... nó đã biến mất rồi!
Cồ họng ông ngắc lại vì xúc động, ông chẳng nói nên lời.
- Sáng nay, - ông lập cập giải thích. - ta nằm bệt trên giường lâu hơn thường lệ vì hôm qua bị cảm lạnh. Kafi cần đi ra ngoài như mọi sáng. Nó có vẻ rát vội vã. Ta phải ngồi dậy ra mở cửa cho nó. Năm phút sau chẳng thấy động tĩnh gì, ta vừa mặc quần áo vừa lần xuống sân để gọi nó. Chẳng thấy nó đâu. Thế là ta chạy vội ra đường. Cũng chẳng thấy gì cả. Lo quá, ta lại trèo vội lên gác gọi bà Tazergue, bà ấy cũng chạy xuống sân rồi ra phố gọi nó hộ ta, nhưng vô ích. Lúc lên, bà ấy cho rằng Kafi thấy được tự do đã muốn về nhà VỚI cháu, về khu Chữ Thập Hung... Cháu không thấy nó ư?
- Cháu vừa từ trường đến đây nhưng lúc đầu buổi chiều, khi cháu tơi lớp, nó vẫn không về nhà.
Ông mù nắm chặt tay tỏ ý thất vọng:
- Ồ! Tidou, đó là lỗi của ta! Nhưng ai có thể ngờ được cơ chứ? Duy nhất một lần ta để nó ra ngoài một mình mà đã nên nỗi...!
Đến lượt tôi tao xuống cầu thang rồi lùng sục trong sân. Dù tối mò nhưng bọn trẻ con vẫn chơi đùa trong sân với một chiếc xe kéo bằng gỗ tự chế. Tôi hỏi nhưng chúng nói chẳng thấy gì. Thấy thái đọ chúng có vẻ chế nhạo tôi, tôi hơi nổi xung và gặng hỏi khá sỗ sàng. Thế là một gã đàn ông nhảy xồ ra từ trong bóng tối:
- "Mày muốn gì ở lũ nhóc này, hả thằng kia? Nếu chúng đã bảo không thấy gì tức là không thay gì! Đừng có loi thôi!"
Đó là một gã nhặt giẻ rách trông còn khá trẻ, mặt mũi sửng cồ rất khó ưa.
Những chuyến viếng thăm của chúng tôi tới đây chắc chắn lam hắn khó chịu. Giá có biết gì thì hắn cũng chẳng hề mở miệng đâu!
Thế là tôi lại chạy ra phố, đến đập cửa rất nhiều nhà hàng xóm để hỏi xem họ có thấy một chú cho becgiê trên con dốc này không. Chẳng ai có thề chỉ dẫn cho tôi một lơi nào, toi đành phải quay lại nhà ông mù. ông khuyên tôi nên về ngay nhà mình xem, biết đâu Kafi lại về lúc buổi chiều!
Nhưng than ôi! Kafi đã không hề về phố Mảnh Trăng! Bộ dạng tôi lúc vào nhà khốn khổ đến nồi mẹ tôi tưởng tôi bị tai nạn. Việc Kafi biến mất cũng làm bà sững sờ như tôi. Trên thực tế, cả bố mẹ tôi cũng biết chuyện tôi cho một ông mù mượn Kafi và cũng đồng ý với hành động tốt bụng ấy. Quá that vọng, tôi muốn phi ngay tới nhà Mady và các bạn để xem nhỡ đâu họ lại thấy nó. Nhưng mẹ tôi giữ tôi lại.
- Không Tidou, không phải tối nay được, quá muộn rồi. Con xem, mẹ đã dọn bàn ăn rồi! Hơn nữa, nếu Kafi có về thì chắc chắn nó chỉ về nhà mình thôi!
Hôm sau tôi dậy rất sớm, sau một đêm tồi tệ đầy ác mộng. Động tác đầu tiên của tôi là nhảy phắt khỏi giường, chạy ra cửa sổ ngó xuống phố xem có Kafi đang run cầm cập đứng đợi ngoài đó không, hay là nằm trước cửa. Nhưng phố hoàn toàn vắng lặng.
Tôi mặc vội quần áo rồi chạy tới nhà Mady trước tiên để báo tin xấu, rồi tới nhà Gnafron. Hắn tức tốc đi báo cho Guille và Corget trong khi tôi trở lại nhà Bisteque. Thế là nửa giờ sau, cả nhóm đã tập họp đông đủ.
Rồi, trong căn cứ, tôi kể lại chi tiết những gì đã xảy ra. Mady khóc:
- Ôi! Chính mình đã cố nằn nì câu bao nhiêu về việc cho mượn Kafi!
Chẳng ai lý giải nồi việc Kafi mất tích.
Corget bắt đầu lên tiếng:
- Mình thấy kỳ cục là Kafi cũng biến mất y hệt Briquet - con chó cũ của ông mù, đúng lúc ông để nó chạy xuống sân. Cả hai rất có thể bị bắt cóc bởi người nào đó đang chỉ chờ giây phút sơ suất này!
Phải rồi, bị bật cóc!... Chính tôi cũng đã nghĩ tới điều đó. Tôi kể cho mọi người thái độ của gã đàn ông tối qua, khi tôi lùng sục trong sân. Tại sao gã ta lại can dự vào khi tôi hỏi han bọn trẻ con? Gã ta sợ chúng sẽ bép xép gì chăng?
- Tất nhiên là bọn người sống trong căn nhà đó có vẻ thật quái gở, nhưng mình chẳng thấy có lý do gì để chúng bắt cóc Kafi cả! - Mady bẻ lại.
Mady nói có lý. Chẳng lẽ chúng tôi lại phải giả định rằng Kafi cũng bị xe cán như Briquet sao?
Tôi đề nghị quay lại nhà ông mù. Ai mà biết được, nhỡ đâu giữa đêm hôm Kafi lại mò về thì sao?
Khi chúng tôi bước vào sân, gã trai hôm qua đang đứng đó. Gã đứng chống nạnh, nhíu mày nhìn bọn tôi đi qua và không nói một lời.
Chúng tôi vừa trèo lên đến nơi thì ông mù xuất hiện.
- Chẳng thấy gì, các con tội nghiệp của ta ạ, chẳng thấy gì hết! Ta đã thức cả đêm qua để nghe ngóng, hy vọng Kafi thân yêu về gọi cửa!
Ông để chúng tôi vào rồi kể lại câu chuyện hôm qua cho các bạn tôi nghe. Đi tư hết giả thiết này tới giả thiết khác, chúng tôi vẫn chưa tìm ra sự thật. Đột nhiên, đang ngồi yên trong ghế bành, ông mù chợt rùng mình, ông thầm thì run run:
- Hay là... nếu thủ phạm là... là gã muốn khó dễ cho ta!... Muốn hại ta...