← Quay lại trang sách

Chương 3 MONICA

Một người Anh không bao giờ thấy thoải mái trừ khi anh ta ở nước ngoài.

Ở lứa tuổi thanh niên, có một cảm giác về Thời gian Vô tận đền bù cho chúng ta mọi thứ. Là người trẻ tuổi thì giống như được là một trong những Thánh nhân Bất tử.

• Hazlitt

Cuối cùng chúng tôi cũng đến vùng cao nguyên bí hiểm nơi khởi nguồn các dòng sông ấy, và đặt chân đến đâu tôi cũng được cả nghìn con chim sặc sỡ hộ tống. Nếu thử vượt qua đầm lầy, tôi nhìn thấy trước mắt hàng trăm, hàng trăm con hà mã lười nhác tránh sang bên mỗi khi lại gần. Và nếu đi đến những vùng đất khô cằn, tôi thấy mình bị vô số thú hoang vây quanh, trong đó một vài con tôi thậm chí không nhận biết nổi, các loài phong phú như vậy, và tôi nói, “Đây là châu Phi, châu Phi thực sự nơi sẽ không bao giờ bị diệt vong chừng nào cao nguyên được bảo tồn và con người cai trị chúng còn chia sẻ trách nhiệm với nhau.” Bởi vì xin nhớ rằng chính một hướng dẫn viên da đen đã đưa tôi đến nơi này, để chia sẻ với tôi những kỳ quan của nó.

• Ngài Carrington Braham, tháng Hai năm 1899

Đốt nóng nồi niêu, chớ đốt con người.

Một đế chế vĩ đại và những trí tuệ tầm thường khó mà song hành với nhau.

• Burke

Hãy thuê người khuyết tật về đạo đức. Thú vị hơn nhiều.

Những vấp váp ngớ ngẩn của tuổi trẻ còn được ưa thích hơn thành công của tuổi già.

• Disraeli

Trong hơn tám mươi năm chúng ta đã là những người được đặt dưới sự bảo trợ của Vương quốc Anh. Ngày nay chúng ta trở thành bạn bè của Vương quốc Anh và tôi chắc chắn là đối với chúng ta, làm bạn bè ôn hòa cũng khó không kém làm những người được bảo trợ dễ bảo. Nhiều công dân Anh nằm an giấc ngàn thu trên mảnh đất này, những người dũng cảm đã chiến đấu chống lại cha ông chúng ta nhằm thiết lập đế chế tại đây; và bên cạnh họ nằm lại nhiều tổ tiên của chúng ta, những người đã nỗ lực ngăn chặn đế quốc xâm phạm vào lối sống cũ. Thoát khỏi những cuộc chiến ấy, chúng ta xây dựng tinh thần tôn trọng lẫn nhau, và trong tương lai, chúng ta sẽ hoạt động trên tinh thần đó. Ở mảnh đất Vwarda, bất cứ lúc nào người Anh cũng sẽ có một mái ấm cho họ chọn chung sống cùng chúng ta. Ở mảnh đất Vwarda, bất cứ lúc nào người Anh cũng tìm được các cơ sở kinh doanh cho họ điều hành, các văn phòng cho họ đảm trách, các công việc cho họ thực hiện, vì tôi xin hứa với các vị điều này, nước Cộng hòa da đen Vwarda sẽ không bao giờ có một chính quyền chống người da trắng, bởi vì chúng tôi nhận thức được sự hợp tác giữa trắng và đen có thể mang lại lợi ích như thế nào.

• Diễn văn khai mạc của Tổng thống Hosea M’Bele, tháng Tám năm 1958

Thần thánh định tiêu diệt ai thì trước hết họ làm cho kẻ đó có nhiều triển vọng.

Thà làm một con bọ hung non còn hơn làm một con chim thiên đường già.

• Mark Twain

Sự ổn định của nước Anh là sự an toàn của thế giới hiện đại.

• Emerson

Sử dụng thứ tiếng Anh dở thì thật đáng tiếc.

Sử dụng thứ tiếng Scotland dở thì không thể tha thứ được.

Tôi rất vui mừng được phong tước hiệp sĩ cho ngài để tỏ lòng trân trọng những cống hiến lớn lao của ngài cho thần dân trước kia của chúng ta ở Congo thuộc Anh và sự trợ giúp đầy sáng tạo mà ngài đã trao cho đồng minh mới nhất của chúng ta, nước Cộng hòa Vwarda, trong thời kỳ quyết định khi họ đang xây dựng những mô hình mà họ sẽ áp dụng.

• Nữ hoàng Elisabeth, tại buổi lễ phong tước cho Sir Charles Braham, Điện Buckingham, tháng Mười hai năm 1958

Tình dục đối với một cô gái trẻ giống như luống hoa trước con ong mật. Cô gái có thể cảm thấy sự tồn tại của nó dù còn chưa trải qua.

Toàn bộ đế chế không là gì hơn ngoài quyền lực được giao phó.

• Dryden

Toàn bộ chính quyền cũng tương tự. (Ghi vội bên lề sách)

Làm ơn hãy cư xử như những quý ông quý bà trẻ tuổi tao nhã. Không tự vẫn, không phá phách, không nạo thai.

• Tấm biển trong một khách sạn ở Torremolinos

—★—

Trong số sáu thanh niên tôi sẽ gặp năm đó, người tôi gần gũi hơn cả là một cô gái Anh tóc sẫm màu mà gia đình tôi đã quen biết trong thời gian tôi có mặt tại Cộng hòa Vwarda đặng dàn xếp các khoản vay công nghiệp trong suốt thập kỷ đầy biến động đó, khi người da đen châu Phi nắm quyền điều khiển chính phủ của họ.

Lúc đầu, tôi không được làm việc trực tiếp với tổng thống mới người da đen của Vwarda, cả với các thành viên nội các cũng không, bởi vì trong thời kỳ đầu đó quốc gia non trẻ này không có người da đen nào đủ thông thạo hòng xử lý các vấn đề kinh tế trong một hợp đồng vay nợ quốc tế. Tôi chủ yếu tiến hành thảo luận với Sir Charles Braham, người mà xét về nhiều mặt là điển hình cho viên chức thuộc địa Anh, nhưng về những mặt khác thì lại không điển hình lắm, như các vị có thể thấy.

Ông là mẫu người điển hình do được đào tạo ở một trường công có tiếng và sau đó dự học ở Oxford, hai trải nghiệm ấy đã mang lại sự pha trộn nhẹ nhàng giữa vượt trội lạnh lùng và vụng về thiếu kinh nghiệm vốn là nét đặc trưng của quý ông Anh. Ông xuất thân từ một gia đình nông thôn nổi tiếng trong lịch sử, điều này giúp ông có gu thưởng thức thiên nhiên rất phố biến ở những người Anh ưu tú nhất. Ông lớn lên trong bầu không khí công chức, rất nhiều chú bác của ông đã làm cho người ta phải chú ý đến ở những đất nước như Ấn Độ và Afghanistan; các chủ hiệu tại hạt quê nhà đồn đại là “người dòng họ Braham xử lý chuyện của chính họ kém cỏi đến mức việc duy nhất họ có thể được giao phó là công vụ... nhất là ở các thuộc địa.” Cha của Sir Charles đã bắt đầu sự nghiệp ở Vwarda từ khi nước này còn được biết đến với cái tên Congo thuộc Anh, và đã kết thúc con đường công danh ở London trong vai trò bộ trưởng nội các đặc trách các vấn đề của đế quốc Anh. Do đó tôi không ngạc nhiên khi đến văn phòng Sir Charles ở Vwarda và nhìn thấy phương châm này được đóng khung treo sau bàn giấy:

Không phải khát vọng chinh phục mà sự yêu thích trật tự tồn tại ở nền tảng của Đế quốc. -Duff Cooper.

Đối với Sir Charles, lời tuyên bố kiêu hãnh này không phải quá khoa trương; ông tin rằng nhiệm vụ của đế quốc là mang lại trật tự cho mọi miền đất trong cái thế giới đã nỗ lực loại bỏ những kiểu cách cũ và chấp nhận những cái mới này. Năm 1948, khi chính phủ Anh đề nghị ông từ bỏ công việc nhàn nhã ở London và tới Congo thuộc Anh để giúp đưa thuộc địa đang nao núng này vào nền nếp, ông không hề nghĩ đến việc từ chối, vì đây là loại thách thức mà một quý ông sẽ chấp nhận. Như ông đã nói với vợ vào ngày được bổ nhiệm tới Congo, “Nó trao cho chúng ta cơ hội đưa vào thực tiễn những gì chúng ta vẫn chỉ bàn bạc ở London.” Ông cũng lưu tâm tới việc mình sẽ nối tiếp bước chân người cha, “và cũng chẳng có gì vô lý nếu nghĩ rằng một ngày nào đó chính tôi cũng có thể được gọi về để tham gia nội các, đúng không?”

Thành tích của ông ở châu Phi hết sức nổi bật và lẽ ra ông đã được gọi về nước từ 1958, nhưng theo dự kiến thì đúng năm đó Congo thuộc Anh được đổi thành Vwarda, và Nữ hoàng lại chọn ông để giám sát thời kỳ quá độ, một công việc tế nhị đã được ông hoàn thành êm thấm và hăng hái đến nỗi cả nước Anh lẫn quốc gia mới đều muốn ông ở lại thêm vài năm nữa. Chính phủ biết rõ ông không được xếp vào dạng có tố chất cấu thành bộ trưởng nội các và cho rằng sẽ rất thuận tiện nếu để ông ở lại Vwarda, nơi ông phục vụ cho một mục đích có lợi.

Giờ đây, tháng Chín năm 1968, khi mùa xuân đang độ huy hoàng, ông sắp kết thúc năm công tác thứ hai mươi mốt và đã đi đến chỗ coi Vwarda như quê hương mình, coi dân ở đó như những người mà mình có bổn phận coi sóc, dù họ có là ai đi nữa, những bề tôi ít học và kém văn minh của một đế quốc như trong quá khứ hay những nhà cầm quyền đầy thiện chí của một nước cộng hòa mới giàu có như trong hiện tại. Ông rất thích nhắc trong các buổi yến tiệc, “Tôi được tạm thời biệt phái tới đây để giải quyết một cơn khủng hoảng bốn tháng. Tôi đã ở lại hai mươi mốt năm. Hoặc cuộc khủng hoảng lớn hơn họ tưởng, hoặc tôi nhỏ bé hơn.”

Ông đã cư xử khá khoan dung trong những tháng năm đổi thay ấy, chuyển từ vai trò đại diện cho Nữ hoàng với đủ lệ bộ và đặc quyền được nó trao tặng sang vai trò hiện thời là một công chức làm thuê ăn lương của nước cộng hòa da đen. Sự chuyển đổi không dễ dàng gì hôm trước là quý ông quyền cao chức trọng trong bộ đồng phục gắn đầy huy chương, hôm sau là kẻ làm thuê mặc đồ vải xéc màu xanh nhưng ông được dạy dỗ như một người thượng lưu và đã chứng tỏ cho những người tầm thường hơn thấy thật dễ dàng biết bao cái việc nhận mệnh lệnh từ những người da đen mà mới tuần trước ta còn đang ra lệnh. Những người để ý quan sát cũng không thể phát hiện được thật ra Sir Charles có đau lòng trước sự thay đổi vận may đầy kịch tính này hay không. Ông nói một cách đơn giản: “Vwarda là nhà của tôi và tất cả mọi người phải có trách nhiệm chăm nom ruộng vườn nhà mình, phải không?”

Sir Charles chỉ thể hiện thái độ nóng nảy trong những lần chuyện trò riêng với tôi. Chúng tôi làm việc cùng nhau mấy tháng liền, cố gắng gói gọn số tiền vay để Vwarda có thể xây đập thủy điện, và thỉnh thoảng lúc đêm khuya, khi công việc gặp trục trặc, ông sẽ tâm sự nỗi thất vọng của mình. Ông cáu kỉnh làu bàu, giọng vấp váp: “Cái làm tôi khó chịu nhất là những con tem chết tiệt. Ngày xưa chúng tôi có những con tem tuyệt vời... hết sức trang nghiêm... chân dung Nữ hoàng... bản khắc axít rất đẹp, chỉ có thế thôi, không cần gì hơn... màu sắc dịu mắt, cách trang trí tuyệt diệu... và lời lẽ giản dị... Congo thuộc Anh. Giờ thì chúng tôi có gì chứ? Những con chim, con thú nhiệt đới chết tiệt... trông như vườn bách thú hạng bét... lại còn cái tên mới đè lên tất cả mọi thứ nữa chứ... thiếu thẩm mỹ... không chút nghiêm trang và chả thích hợp gì cả.” Sau này tôi mới phát hiện ra ông chỉ thực sự khó chịu về việc đổi tên. Một đêm khi chúng tôi đã uống kha khá rượu gin ở Câu lạc bộ Anh quốc - tiền thân là Câu lạc bộ Thuộc địa, một trong những nơi buồn tẻ nhất đế quốc - ông tâm sự: “Tôi không thể hiểu nổi tại sao người ta lại thấy cần phải bỏ cái tên cũ Congo thuộc Anh tuyệt vời ấy... nghe tên là ông biết ngay đó là gì, ở đâu, có ý nghĩa gì. Còn cái tên mới có nghĩa gì chứ? Một con sông chết tiệt mà một nghìn người chắc cũng chỉ có một người từng nghe đến. Vwarda!” Ông khịt mũi vẻ coi thường, rồi vội thanh minh: “Dù sao tôi phải nói với ông là mấy thằng cha khó chịu đó làm việc với mình cũng khá tử tế... và họ lại trả lương ngay ngày đầu tháng. Thực ra, nếu người ta hiểu được sự thật, làm việc cho Vwarda còn có phần hay hơn làm cho Chính phủ của Công đảng Anh ở London, ông thấy thế nào?”

Về sông Vwarda, Sir Charles đã nhầm. Nó còn lâu mới là con đường thủy ít người biết đến, vì trong chúng ta những ai quan tâm đến địa lý đều luôn yêu thích dòng sông nổi tiếng với lịch sử độc nhất vô nhị này. Xa tít về phía Bắc, trong một cái đầm lọt thỏm giữa những dãy núi chụm lại thành hình chén, nhiều mưa rơi, và tùy theo mùa cũng như tùy hướng gió vào một ngày đặc biệt, thỉnh thoảng cái đầm đó lại được tháo nước vào hồ Banga, từ đó chảy ra sông Congo và vì vậy chảy ra Đại Tây Dương; những lúc khác nó chảy vào con sông Vwarda vắt ngang vùng Đông châu Phi và đổ ra Ấn Độ Dương, rồi cuối cùng tiến đến Thái Bình Dương. Hai giọt nước rơi từ cùng một đám mây, xuống cùng một nơi trên mặt đất rốt cuộc lại có thể thực hiện cuộc hành trình đến với những hệ thống sông khác nhau, vào hai đại dương khác nhau nằm ở hai phía đối diện của trái đất, cách nhau hàng nghìn dặm.

Ngoài điểm khác thường này, sông Vwarda còn đáng được chú ý với những vực thẳm, thác nước, và đặc biệt là quần thể cư dân hà mã, cá sấu và chim chóc kỳ lạ. Đó là một con sông lớn, một trong những đường thủy rất hấp dẫn của thế giới, và tôi cho rằng đúng là sáng kiến tuyệt vời khi người da đen vùng này đặt tên nước cộng hòa mới của họ nhằm vinh danh dòng sông.

Phần không điển hình trong tính cách của Sir Charles xuất phát từ việc ông tuyệt nhiên không giống một nhà quý tộc nông thôn Anh. Ông là người cao lớn, phì nộn, luộm thuộm, môi trễ xuống hờn dỗi khiến cho mỗi khi bị kích động lại run lên bần bật, gợi ấn tượng là một đứa bé ưa đòi hỏi thiếu cả tính cương quyết lẫn can đảm. Ông mặc quần áo lùng thùng, thường xuyên bị dây nước xốt, móng tay ít khi được giũa sạch sẽ. Điều tệ nhất - và điều này thường làm người ta tin rằng họ đang nói chuyện với kẻ ngớ ngẩn - mỗi khi nói ông lại vấp váp, lặp từ và rơi trở về kho ngôn ngữ của giới cầm quyền Anh có thành kiến với trí thức. Ông rất hay nói, “Tôi sẽ không lấy làm lạ” và “Xin lưu ý ông,” và thường dùng cụm “Thực tế là” - được phát âm thành “thư tá la” - hai hoặc ba lần trong một đoạn ngắn. Ông còn có thói quen nhai đi nhai lại, lặp các nhóm từ đến ba hay bốn lần khi bắt đầu phát biểu, và tôi vẫn còn nhớ nhiều cuộc thảo luận về cái đập nước trong đó lời bình luận nào cũng được ông mở đầu bằng “Nào bây giờ, ý tôi là, vâng, đó là một vấn đề chúng ta phải đối diện, phải không?” nhắc đi nhắc lại đến ba bốn lần. Ông rất sính câu hỏi tu từ và hầu như lời phát biểu mang tính khẳng định nào cũng được kết thúc bằng một câu, “Lẽ nào chúng ta lại không muốn việc đó đạt kết quả, đúng không?” Trong những ngày đầu làm việc với ông, tôi thường trả lời các câu hỏi đó, và lần nào ông cũng ngạc nhiên là tôi lại bận tâm: “Chúng ta không muốn làm công việc trở nên rắc rối với một lô từ ngữ không cần thiết, phải không?”

Nếu chỉ nhìn vào những khía cạnh khôi hài trong cách cư xử của Sir Charles đầu cuộc thảo luận, người ta sẽ được thừa nhận là đúng nếu kết luận ông là người ngớ ngẩn, nhưng khi cuộc thương lượng tiến sâu hơn và tinh thần tận tụy không mệt mỏi của ông đối với nhân loại và với quyền lợi của người da đen Vwarda có dịp phát lộ, người ta đã phải công nhận đây là một công chức chân chính, một quý ông sẽ tăng thêm giá trị cho bất cứ chính phủ nào mà ông là một thành viên. Do đó tôi đã báo cáo với thượng cấp ở Geneva: “Nếu Vwarda và các nước cộng hòa da đen khác có độ hai trăm Sir Charles Braham thì đầu tư vào bất cứ nơi nào ở châu Phi cũng đều được an toàn, đảm bảo chúng ta sẽ có cơ hội tốt... và không thêm một xu nào nữa.” Ngay trước khi tôi tới Vwarda, Nữ hoàng Anh đã quyết định phong cho Charles Braham tước hiệp sĩ để công nhận những đóng góp của ông tại Congo, và nhiều người ở Vwarda đã nói với tôi, “Ở đây không có ai thắc mắc, ‘Tại sao lại là ông ấy?’ - nhưng khi ông tới lâu đài Buckingham yết kiến, ăn mặc thì luộm thuộm, trọng lượng thì thừa đến sáu mươi pao, nói năng lặp đi lặp lại và trông như thể không thuộc về thế kỷ mười chín thì ai cũng hỏi, ‘Không biết họ có nhầm tên không nhỉ?’”

Đầu năm 1959, phu nhân Emily Braham qua đời, để lại một bé gái bảy tuổi gầy nhom, tóc đen. Vì cuối năm đó tôi mới tới Vwarda nên không được biết phu nhân Emily; tôi chỉ được thấy những bức ảnh chụp bà trong bộ áo bằng voan và ren tại vô số buổi gặp mặt quan trọng của chính phủ, một phụ nữ nhỏ nhắn, không hề hợp đối với người đàn ông to béo trong bộ đồng phục không vừa đang đứng cạnh.

Nhưng ngay từ đầu tôi đã biết cô bé Monica; quả thực tôi đã đối xử với cô gần như một người mẹ, gánh lấy những bổn phận mà lẽ ra mẹ cô sẽ phải thực hiện nếu bà còn sống. Tôi nhìn thấy cô bé lần đầu tiên vào một buổi chiều nóng bức, khi máy bay của tôi từ Geneva vòng qua Đại Tây Dương, vượt sông Congo tới sông Banga, rẽ về phía Nam, băng qua đầm nước vùng thượng du, nơi đầu nguồn của các dòng sông, nhìn thấy sông Vwarda, xuôi theo dòng chảy ấn tượng của nó xuyên qua núi non và thảo nguyên rồi hạ cánh xuống thủ đô. Trong những ngày đầu ấy hiển nhiên chỉ có một vài quan chức da đen, và tôi đã được đón tiếp bởi Sir Charles - vận bộ đồ xanh dày cộp, giậm chân thình thịch xung quanh, chỉ dẫn đám phu khuân vác nhận đồ của tôi ở đâu và như thế nào, “Chúng ta không muốn ông ấy ở đây mà không có hành lý, phải không? Hừmmm, được rồi, ê cẩn thận nào?” Ông có vẻ hơi ngớ ngẩn, còn tôi thì lo lắng vì ông chính là người tôi sẽ phải đàm phán.

Khi ông đưa tôi ra chiếc xe của chính phủ, một chiếc Rolls-Royce bóng loáng gắn quốc huy mới của Vwarda, tôi chợt nhìn thấy khuôn mặt nhỏ nhắn, xinh xắn của một bé gái ló ra khỏi cửa sau. Tôi ngồi xuống bên cạnh thì cô bé e lệ vuốt bím tóc đen dài, đôi mắt đen láy tinh quái ngước nhìn tôi khi cô hỏi, “Cháu đang chờ ông hát yodelh[18] đây. Ông từ Thụy Sĩ tới phải không?”

“Thực ra thì tôi là người Indiana. Tôi làm việc ở Thụy Sĩ.”

“Ông có học hát yodel không?”

“ Tôi e rằng không.”

“Thế thì quay về học đi.”

Câu nói làm tôi sững sờ và tôi ngả người về phía trước ngắm kỹ cô bé, nhưng trước phản ứng của tôi, Sir Charles nói, “Xin đừng để ý. Từ khi mẹ con bé mất, nó đâm ra bất trị.” Monica lè lưỡi trêu tôi, rồi nháy mắt và trước sự ngạc nhiên của tôi, cô cất tiếng hát một bài yodel rất chuẩn vang khắp chiếc Rolls. “Nó học theo máy hát đấy,” Sir Charles nói.

Tôi điện về Geneva nhờ cô giúp việc gửi đến một hộp đồ chơi kích thích trí tưởng tượng mà người Thụy Sĩ làm rất giỏi, nhưng khi tôi đem tặng Monica, cô bé lại không thèm nhận mà đưa luôn cho mấy đứa con của bà giúp việc da đen rồi nói với tôi: “Thứ cháu thực sự thích là vài chiếc váy dirndl[19] cơ.” Khi những cái váy kiểu ấy tới thì tôi đã thành ông chú được cô bé yêu quý nhất.

Cô bé rất yêu âm nhạc, và trong nhiều năm, sau những đợt vắng mặt khá thường xuyên, mỗi lần quay lại đó để kiểm tra con đập chúng tôi đang xây dọc những khúc thượng lưu sông Vwarda, tôi lại mang cho cô đủ loại đĩa hát, và nhờ có cô, tôi được biết sơ qua về rock-and-roll, nhịp Merseyside[20] và nhạc soul. Cô có vẻ cần âm nhạc, lần nào nghe nói tôi sắp rời châu Âu sang Vwarda, cô cũng gửi thư khẩn cho tôi nói rõ cô muốn những đĩa hát nào; cô bé say mê các ban nhạc Beatles, Rolling Stones, Animals và một nhóm có tên là Procol Harum, nhưng lại không quan tâm tới phong cách Mỹ, trừ một ban nhạc đặc biệt dữ dội tên là Canned Heat. Lần đầu tiên cô dặn tôi mua những đĩa hát ấy, tôi đã nghe thử ở nhà trước khi mang sang châu Phi nhưng rồi nhận ra mình không đủ khả năng đánh giá liệu những âm thanh hoang dã kỳ lạ ấy có phải là âm nhạc hay không. Tôi chỉ trao những đĩa hát ấy cho Monica và quan sát cô nghiến ngấu nghe chúng; hồi đó tôi chưa ý thức được sức tàn phá của phần ca từ kèm theo bản nhạc. Tôi còn khờ khạo cho rằng lời ca sai ngữ pháp mà không hề nhận thấy rằng đối với lớp trẻ chúng là lời kêu gọi làm cách mạng.

Khi Monica mười sáu tuổi, cha cô hỏi xem liệu tôi có thể thu xếp cho cô vào học một trường tiếng tăm ở Anh được không; ông giới thiệu một vài nơi có lẽ sẵn sàng nhận con gái ông nhờ truyền thống quanh dòng họ Braham, nhưng ông không thể rời khỏi Vwarda để đi chọn trường được, do đó vào mùa xuân năm 1968 ở châu Âu, tôi về vùng nông thôn nước Anh mang theo hồ sơ của Monica Braham, trong đó có tấm ảnh một cô gái vô cùng ấn tượng với mái tóc sẫm màu, mắt đen và nét đẹp mảnh mai của một nữ thần Bắc Âu. Tại hai trường đầu, tôi sửng sốt khi bà hiệu trưởng chỉ nhìn qua tấm ảnh và quả thực đã nói: “Trời ơi! Cô bé còn được cha dạy dỗ giữa đám người hầu bản xứ nữa chứ. Cô này sẽ khó quản lý lắm đây.” Các giáo viên giàu kinh nghiệm đều nhìn thấy một điều gì đó trong tấm ảnh mà tôi đã không nhận ra và từ chối nhận cô bé vào trường của họ.

Tuy vậy, tại ngôi trường tôi ưng nhất, trường St. Procas ở Bắc Oxford, bà hiệu trưởng xem xét kỹ học bạ của Monica, gồm các điểm số khá cao ở những bài kiểm tra khác nhau rồi phát biểu: “Tôi không hề chắc chắn đây là ngôi trường thích hợp với em Monica. Cô bé có vẻ như thuộc mẫu người thiếu tính ổn định nhất, nhưng chị họ Victoria Braham của em cũng học ở đây, và cô bé này tỏ ra khá vững vàng.” Trường St. Procas nhận Monica, có thể cho là sau khi đã suy đi tính lại kỹ càng, nhưng họ không bao giờ hài lòng với quyết định của mình.

—★—

Cuối mùa thu năm 1968, tôi nhận được một bức điện từ Vwarda khẩn thiết nhờ tôi bay đến St. Procas xem liệu tôi có thể làm được bất cứ điều gì để nhà trường không đuổi Monica, thế là tôi đành bỏ dở vài công việc đang tiến hành cho hãng Ansett Airways ở Úc mà quay về châu Âu để rồi nhận ra trường St. Procas có đầy đủ lý do để đuổi cô bé Monica. Khi tôi tới, bà hiệu trưởng nói với thái độ khó chịu ra mặt vì tôi là người đã thuyết phục bà nhận Monica và do vậy cũng là người phải chịu trách nhiệm về những hành vi phóng túng của cô: “Cô cháu Monica của ông đã biến khỏi trường ba ngày. Hình như cô ta trốn đi với một người đàn ông lớn tuổi hơn làm nghề phân phối kẹo sô cô la cho một cửa hiệu trong làng. Chúng tôi tin là cô ta và người đàn ông này đã trốn trong một khách sạn ở Cirencester. Tôi cho là chúng tôi có thể giao việc này cho thám tử tư để chứng minh tội của cô ta, nhưng chúng tôi thà không biết chi tiết còn hơn.” Bà quyết định đuổi Monica ngay lập tức nhưng tôi thuyết phục bà cho cô bé một cơ hội thứ hai.

“Cô bé ư?” bà hiệu trưởng ngỡ ngàng nhắc lại. “Ông đã gặp cô ta chưa?”

Khi Monica xuất hiện, cô có vẻ lớn lên rất nhiều; cô mới mười sáu tuổi, nhưng hai bím tóc đã không còn nữa, nét mảnh mai đã được thay thế bằng vẻ đẹp chín muồi lôi cuốn, và khuôn mặt đã mất vẻ trẻ con. Cô đã là phụ nữ, già dặn hơn tuổi nhiều, khôn ngoan xảo trá hơn cả tôi lẫn bà hiệu trưởng. Trên khóe môi xinh đẹp thấp thoáng một nụ cười thích thú, như thể cô biết một bí mật sống còn nào đó mà chúng tôi không biết; nhưng cô không có vẻ gì là hỗn xược hay khiêu khích. Cô không thách thức chúng tôi đuổi cô; ngược lại, cô tỏ ra vô cùng đáng yêu và mối xúc cảm thôi thúc tôi trước hết là mong muốn được ôm cô vào lòng mà hôn như tôi vẫn thường làm mỗi khi đến hoặc đi khỏi nhà cô ở châu Phi. Nhưng cô đã thay đổi, một sự thay đổi khiến cho tôi từ nay về sau không được đón chào cô như với một cô bé nữa. Cô cực kỳ xinh đẹp và cô nhận thức rõ điều này.

“Chào chú, chú George,” cô nói với thái độ đường hoàng kín đáo, tay chìa ra.

“Cháu đã làm trò gì vậy?” tôi hỏi.

“Cháu nghĩ đã đến lúc...” Cô không nói hết câu. Nhún đôi vai thanh mảnh, cô mỉm cười và nhìn đi chỗ khác.

Tôi thu xếp xong xuôi để giữ cô lại St. Procas, nhưng một tháng sau tôi lại bị gọi đến. Bà hiệu trưởng báo với tôi bà đã bắt gặp các nữ sinh cùng phòng với Monica hút cần sa, và tuy không có chứng cớ xác thực cho thấy Monica có liên quan song một cô gái đã tường trình, có thể cho là do bị thúc ép rằng Monica đã mua cần sa trong lần trốn đi Cirencester, và người ta yêu cầu tôi tra hỏi Monica về vụ này vì nhà trường có ý định đuổi học cô nhưng vẫn muốn xử lý công bằng.

Đó là một ngày lạnh giá, và tôi gặp Monica trong một hành lang có vách kính, nơi các bà giáo trẻ tụ họp để thưởng thức bữa trà chiều. Một vài bà đi vào khi hai chúng tôi đang nói chuyện, và tôi để ý họ vừa nhìn thấy Monica đã vội vã quay trở ra. Tôi hỏi cô con gái đỡ đầu bất đắc dĩ về vụ cần sa, và tôi diễn đạt câu hỏi sao cho cô hiểu tôi mong chờ một câu trả lời thành thật; cô có thể từ chối trả lời, nhưng nếu cô nói với tôi bất cứ điều gì thì tôi tin chắc đó sẽ là sự thật. “Cần sa chỉ là chuyện vặt,” cô khinh khỉnh đáp. “Họ cứ lo lắng thế thôi.”

“Cháu có mang cần sa vào trường không?”

“Cháu đã hút thử. Tất cả bọn con gái đều thử.”

“Cháu có biết là nguy hiểm không?”

“Chú George! Nó cũng như một cốc Martini đối với chú thôi... như một cốc rượu gin và rượu thuốc apxin đối với cha cháu. Nếu chú là người nghiện rượu thì những loại đồ uống ấy sẽ là vấn đề. Xài một cách hợp lý thì chúng chỉ là chuyện vặt thôi.”

“Cháu có hút thường xuyên không?”

“Như thế nào là thường xuyên?” cô hỏi lại, thái độ không thách thức nhưng tỏ vẻ quan tâm hỗn xược tới ý kiến của tôi.

“Cháu có mang cần sa vào trường không?”

“Ellen có mang vào. Marjorie có mang vào. Cháu có thể kể tên sáu đứa khác mang vào.” Rồi cô mỉm cười nói thêm: “Số lượng nhỏ thôi.”

“Nhưng còn số lượng lớn? Ai mang vào?”

“Cháu nghĩ cháu chán St. Procas đến tận cổ rồi,” cô nói, và đến đây thì cuộc trao đổi của chúng tôi kết thúc.

“Sang năm chúng tôi sẽ chuyển cháu sang trường khác,” tôi cam đoan với bà hiệu trưởng.

“Chúng tôi cho rằng cô ấy chuyển ngay bây giờ thì tốt hơn.”

“Nhưng cha cháu đang ở châu Phi...” Cuối cùng, tôi đã thuyết phục được người đàn bà tốt bụng đó chấp nhận cho Monica ở lại đến hết niên học 1968-1969, và đó đúng là sai lầm, vì cuối tháng Hai, tôi lại bị mời tới trường, nơi bà hiệu trưởng giận đến phát điên hét vào mặt tôi: “Hãy mang cô ta đi ngay cho! Ngay hôm nay! Đi khỏi đây!”

Với kha khá khó khăn, và phải nhờ tới sự giúp đỡ của cô gái mười bốn tuổi cùng phòng Monica, tôi mới chắp nối lại được những gì đã xảy ra. Mỗi tuần ba buổi, nhà trường lại mời một giáo viên nhạc từ thành phố Oxford về dạy, một thanh niên cao lênh khênh, tóc rối bù, từng học ở Paris, và những buổi học của anh ta về âm nhạc Stravinsky và Beethoven thật là “hết ý”, như nhận xét của các nữ sinh. Anh ta khoảng hai mươi hai tuổi, xuất thân từ một gia đình tiền của rất hạn hẹp và hiện vẫn sống cùng cha mẹ. Anh ta từng học tại một trong những trường đại học mới thành lập ở vùng Midlands và tốt nghiệp loại ưu, nhưng tính nhút nhát cố hữu thì cả những năm đại học lẫn thời gian ở Paris cũng không giúp anh ta bỏ được. Anh ta là người cao lớn, dễ thương, vụng về, và một ngày tháng Giêng, Monica khoác lác với mấy người bạn cùng phòng: “Tớ cá là chỉ trong vòng ba tuần tớ sẽ làm cho anh ta phải tụt quần xuống.”

Tiền cá cược được gom lại và giao cho cô bé mười bốn tuổi đã kể chuyện này với tôi, “Điều kiện rất đơn giản. Chúng cháu sẽ giúp Monica tất cả những gì có thể... ngay cả những người cá là chị ấy thua cũng phải giúp... Ý cháu là chúng cháu phải tạo điều kiện cho chị ấy ở lại một mình với thầy giáo. Nhưng một điều kiện nữa là ít nhất phải có hai người trong ban...”

“Ban gì?”

“Ban viết ra những điều kiện ấy.”

“Ý cháu là các cháu viết hẳn ra giấy?”

“Chắc chắn rồi ạ.” Cô bé lục trong tập giấy và đưa cho tôi xem bản điều kiện được đánh máy, “Thống nhất là Monica không thể chỉ nói suông là chị ấy đã có quan hệ tình dục với thầy Dankerly. Phải có ít nhất hai người trong ban có mặt để chứng kiến tận mắt họ trên giường, hay ở bất cứ đâu.”

Monica tiến hành tác động đến thầy Dankerly với sự khéo léo chuyên nghiệp cô học được qua lần quan hệ với ông bán kẹo sô cô la ở Cirencester trước đó. Cô cho anh ta biết cô coi anh ta là giáo viên giỏi nhất St. Procas lại cũng là người hiểu biết và lịch sự nhất nữa. Nói xong những điều trên, cô còn khen anh ta rất nam tính và đoán anh ta đã từng chơi bóng bầu dục ở trường đại học. Nhưng điều hấp dẫn cô nhất, cô nói, là quãng thời gian anh ta ở Paris, nơi mà, trích nguyên văn lời cô, “một người đàn ông hẳn phải học được tất cả những gì cần biết về tình yêu từ các cô gái Pháp.” Khi nói câu ấy, cô để ý thấy thầy Dankerly thở rất sâu, và đêm đó cô thông báo với cả phòng: “Thắng cuộc rồi. Thứ Sáu tuần sau tớ sẽ làm thầy phải tụt quần.”

Thứ Sáu, đám nữ sinh thu xếp sao cho phòng học nhạc không có người. Thật ra nó đã bị canh gác tứ phía, cộng thêm hai nhân chứng được chỉ định sẵn, và sau đó một trong hai cô thuật lại cho cả nhóm: “Khi họ lăn lộn trên sàn, các cậu không thể hoàn toàn chắc chắn là họ đang làm tình, nhưng dứt khoát là họ có thể làm lắm chứ.”

Đêm đó Monica điềm tĩnh tuyên bố cô đã thắng cuộc; rồi cô tiết lộ thêm một thông tin làm chấn động đám con gái vốn vẫn nuôi ảo tưởng về khả năng làm tình siêu hạng của Albert Finney và Richard Burton trong phim, “Thằng cha tội nghiệp, hắn hoàn toàn chẳng biết gì cả, tớ đã phải hướng dẫn cho hắn làm như thế nào đấy.” Đó đúng là kết thúc có tác dụng cảnh tỉnh đối với một trò tinh nghịch.

Tất nhiên đến thứ Hai, cả hội đồng giáo viên đã nghe phong thanh về vụ đánh cuộc và kết thúc thành công của nó, vậy là sáng thứ Ba thầy Dankerly khốn khổ bị buộc thôi việc và Monica bị cô lập trong phòng cho đến khi tôi có thể bay từ Geneva tới. Bà hiệu trưởng giận tái người và tuyên bố đáng lẽ sau vụ Cirencester bà không nên nghe những lời dỗ ngon dỗ ngọt của tôi. “Tôi e rằng Monica là một kẻ phạm tội vị thành niên hư hỏng và trong những năm tới ông sẽ có rất nhiều việc để làm với cô ta đấy. Ông định giải quyết cô ta thể nào?”

“Tôi sẽ gửi con bé về châu Phi. Bằng chuyến bay đêm nay.”

“Một quyết định đúng. Cô ta chưa sẵn sàng với cuộc sống ở Anh.”

“Hoặc ngược lại.”

Tôi rất buồn khi lái xe đưa Monica ra sân bay và tiễn cô lên chiếc máy bay của hãng Air Vwarda; thật phi lý là một nước nhỏ như vậy mà cũng dám liều có đường hàng không riêng tới London và New York, nhưng tất nhiên, nó chỉ có một chiếc máy bay Pan America và phi hành đoàn làm thuê cho Vwarda, theo sự sắp đặt của Sir Charles. Đúng như quy định, một phụ tá da đen phải có mặt trong khoang lái, nhưng người này làm gì thì không ai rõ - bao giờ phi công và kỹ sư cũng là người Texas. Khi đến lúc phải nói lời tạm biệt với Monica, tôi thấy cô ngó nghiêng qua vai tôi để xem liệu có bất kỳ người đàn ông hấp dẫn nào bay xuống phía Nam không, và tôi còn chưa kịp rời sân bay thì cô đã quấn lấy một cầu thủ bóng đá Nam Phi vạm vỡ đang mua ít kẹo để cô ăn trong chuyến bay dài về nhà.

—★—

Lúc đó tôi chưa biết chuyện, nhưng khi tôi gửi Monica về Vwarda - mà phải sau năm ngày vòng tới Nam Phi cùng tay cầu thủ bóng đá cô mới đến nơi - cô đang trên đường quay về vòng tay chăm sóc của cha vào đúng thời điểm người đàn ông đáng thương đó phải đối diện với một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng. Khi cuộc Nổi loạn tháng Ba bùng nổ khắp Vwarda, nó đã mang một nỗi sợ hãi thật sự vào tận sâu thẳm trái tim những người châu Âu đang ấp ủ bao hy vọng lớn lao cho nước cộng hòa mới.

Đọc trong một tờ báo Geneva tin tức về các cuộc nổi loạn, tôi cứ day dứt không yên về mối lo ngại của các sếp, những người đã đầu tư bảy mươi hai triệu đô la vào đập nước Vwarda và giờ thì chứng kiến số tiền ấy đang bốc hơi do hậu quả của chém giết. Từ những tin tức tôi thu thập được qua tờ London Times và các bản báo cáo ngoại giao mà bộ Ngoại giao Thụy Sĩ cho chúng tôi xem, rõ ràng Nổi loạn tháng Ba đã đáo hạn từ lâu và bùng nổ đơn giản chỉ vì người da đen đã chán chờ đợi rồi.

Đến thời điểm này Vwarda đã là quốc gia có chủ quyền được mười một năm. Họ có một tổng thống da đen, một nội các da đen và chủ tịch ngân hàng quốc gia cũng người da đen nốt, nhưng ai cũng có thể nhận thấy những công việc tốt vẫn nằm trong tay người da trắng, đặc biệt những công việc đòi hỏi mức lương cao. Các thẩm phán tòa án tối cao đều là người da trắng, cả các thẩm phán tòa thượng thẩm cũng vậy. Mọi chức vụ liên quan đến việc kiểm soát kinh tế của đất nước đều nằm trong tay những người như Sir Charles Braham, những người còn sót lại của chính quyền thực dân. Ngài đại tướng của quân đội là một sĩ quan tốt nghiệp trường Sandhurst, và các phi công lái chiếc máy bay phản lực của Vwarda được trả lương cao cũng là người Mỹ. Tình trạng này rất phổ biến từ trên xuống dưới trong hệ thống cấp bậc cho nên tôi thấy chẳng có gì đáng ngạc nhiên trước chuyện người da đen nổi loạn. Trong hai ngày đầu tiên của cuộc nổi loạn, họ giết mười sáu người da trắng, phóng hỏa một số nhà kho, và đưa ra một loạt tuyên bố khích động. Đối với nhiều người ở châu Âu, có vẻ như cuộc cách mạng châu Phi vĩ đại mà người da trắng lo sợ đã bắt đầu và nhất định sẽ nhanh chóng lan ra các nước láng giềng như Tanzania, Zambia, Congo và Swaziland, nhưng việc đó đã không xảy ra, và khi trật tự được vãn hồi, ban giám đốc lệnh cho tôi tới Vwarda để báo cáo về tình trạng vốn đầu tư của chúng tôi.

Khi máy bay vượt qua cái đầm trên cao nơi khởi nguồn sông Vwarda, tôi cảm thấy như đang trở về đất nước mình là công dân, vì tôi đã làm việc trong những khu rừng lâu đến nỗi dường như đã thành một phần của nó và những khuôn mặt da đen mới giết người và đốt nhà đó là khuôn mặt anh em tôi. Khi máy bay hạ cánh xuống thủ đô, tôi nhìn thấy vẫn những cây cối phủ đầy hoa cuối mùa ấy, vẫn những đại lộ rộng thênh thang hai bên có dãy nhà kiểu Victoria từng là nơi ở của người Anh và các bà vợ kênh kiệu của họ, vẫn những cái lán tôn múi từng làm tôi vừa thất vọng vừa phấn chấn khi lần đầu tiên nhìn thấy. Đó là một thành phố châu Phi xinh đẹp mà mỗi năm trôi qua tất phải trở thành xinh đẹp hơn khi lều lán được thay thế bằng những ngôi nhà trát vữa. về một số phương diện, nó là thủ đô nguyên sơ nhất của người da đen; về những phương diện khác nó lại là tiêu biểu nhất, vì nó là một thành phố đang phát triển, một mảnh đất nơi dân chúng từng có thời chán chường đang nỗ lực giành chế độ tự trị.

Khi tôi tới, Sir Charles, đúng như tôi dự đoán, đang ở sâu trong rừng xem xét kỹ càng khu vực xảy ra phần lớn các vụ giết chóc. Trong bộ quần áo đen, cà vạt thắt cẩn thận thít chặt cái cổ đẫm mồ hôi, ông lê bước dọc những con đường mòn xuyên rừng, cam đoan với các tù trưởng địa phương rằng không có lý do gì để sợ hãi cả. Ít ra cũng được một lần ông không hoảng sợ và cái đập lớn ở miền Bắc vẫn được tiến hành xây dựng bình thường. “Không kỹ sư người Âu nào bỏ chạy cả,” ông báo với tôi qua điện đài, “vì công việc vẫn phải tiếp tục. Cũng có lộn xộn. Có một số vụ ám sát đáng tiếc, nhưng nước nào chẳng có những kẻ bộp chộp, và Vwarda sẽ biết cách xử lý những kẻ bộp chộp ở đây, phải không?” Trong thời kỳ khó khăn sau các cuộc nổi loạn ấy, Sir Charles là một viên chức thuộc địa Anh điển hình cố gắng hết sức để xoa dịu tình hình. “Chúng ta đâu có muốn trải qua một cuộc cách mạng, đúng không?” ông nói với các tù trưởng trong rừng rậm, “Thu tá la, ai sẽ bị chuyện điên rồ ấy gây thiệt hại chứ? Chính là con cái các ông, không phải con tôi, và chúng ta không muốn thế, phải không?”

Từ thủ đô, tôi báo cáo về Geneva cho các sếp, “Những sự kiện gần đây được gọi là các cuộc nổi loạn. Tôi sẽ gọi chúng là cuộc phá phách, một cuộc phá phách vô nghĩa mù quáng kết thúc cũng nhanh như lúc bắt đầu. Tại vùng này người da đen bất mãn đưa ra ba yêu cầu - thẩm phán da đen ngay lập tức, quốc hữu hóa mở kim cương và phi công da đen lái máy bay Vwarda. Chính phủ chấp nhận làm một việc gì đó, và làm thật nhanh, đối với hai yêu cầu đầu, nhưng yêu cầu thứ ba có những khía cạnh khôi hài và sẽ bị bỏ qua. Khi đám gây rối da đen chiếm lĩnh sân bay, họ bao vây chiếc Boeing đang bốc hàng để bay đi New York và hét lên, ‘Reginald Huygere phải cầm lái! Reginald Huygere nắm bộ điều chỉnh!’ Huygere, một anh chàng thông minh từng có khoảng năm mươi giờ huấn luyện mặt đất dưới sự chỉ dẫn của các ông thầy từ hãng Pan American và gần như mù tịt về hệ thống nhiên liệu, huống hồ là bộ điều chỉnh, thò đầu ra cửa sổ buồng lái mà hét, ‘Ai, tôi ấy ư?’ Vậy là mọi người phá lên cười và máy bay cất cánh theo đúng lịch trình.

“Tôi biết các ngài muốn tôi đánh giá các cuộc nổi loạn ấy một cách khắt khe nhất. Chúng không thể tránh khỏi. Chúng có lý do chính đáng. Chúng không nghiêm trọng. Trong hai thập kỷ tới cứ định kỳ một khoảng thời gian, chúng sẽ còn lặp đi lặp lại. Và chúng sẽ không gây nên hậu quả nào quá tệ hại. Tôi đánh giá Vwarda đang ở trong thời kỳ giống như Mexico từ 1910 đến 1927, và các ngài biết rõ một đất nước phát triển từ cuộc cách mạng kiểu ấy sẽ ổn định như thế nào. Về cái đập nước, tất cả đàn ông đàn bà Vwarda đều biết đất nước họ cần có nó. Nếu mai kia các thành viên có óc xét đoán của chính phủ kêu gọi chúng ta đầu tư thêm mười tám triệu đô la nữa, mà tôi nghĩ là họ rất cần đấy, hãy trao cho họ số tiền ấy. Ở đây cũng an toàn như ở Detroit.”

Trong những ngày thảo bản báo cáo trên, tôi có khá nhiều dịp gặp Monica, lúc này đã mười bảy tuổi. Theo như tôi được biết, cô đã có ba người tình: ông bán sô cô la, ông giáo dạy nhạc Dankerly, và tay cầu thủ bóng đá Nam Phi. Thế mà cô vẫn khiến người ta có cảm tưởng cô là một người phụ nữ nhỏ tuổi không hư hỏng; sức hấp dẫn bí ẩn của cô thật phi thường và khả năng lợi dụng người khác thật kỳ lạ. Quan sát Monica sống dưới mái nhà của người cha, tôi rút ra kết luận một đứa trẻ như cô mà bị quản lý trong trường nữ sinh thì quả là nực cười. Ít nhất cô đã sẵn sàng cho môi trường đại học, và cô biết điều này.

Khi tôi nói chuyện với cô, lần đầu tiên cô tỏ thái độ coi thường cha sâu sắc. “Ông già cằm rung,” cô gọi cha như vậy vì hiện tượng rung không sao kiềm chế nổi ở nửa dưới khuôn mặt ông trong mọi cơn khủng hoảng. “Ông già cằm rung đã vào rừng, chơi trò Đế quốc Ấn-Anh. ‘Nào các chú, nâng cằm lên!’ ông hạ lệnh, trong khi chính cằm ông lại rung lên như cằm đàn bà.”

“Cha cháu là người can đảm,” tôi phản đối.

“Can đảm và ngớ ngẩn,” cô đáp.

“Ông đã dành rất nhiều thời gian nuôi nấng cháu.”

“Và nhìn kết quả xem.”

Giọng cay đắng của cô làm tôi bất ngờ đến nỗi tôi đưa ra giả thuyết, “Cháu thấy mình có lỗi vì bị buộc phải chuyển trường và giờ thì cháu đổ lỗi cho cha mình.”

“Không hề,” cô cải chính, châm một điếu thuốc. “Cháu phát sợ trước viễn cảnh người cha thân yêu, sắp bị quẳng ra khỏi Vwarda, sẵn sàng làm mọi chuyện hèn hạ đáng khinh để giữ được cương vị này. Ông sẽ làm bất kỳ việc gì để bám thật chặt... một năm nữa... một tháng nữa.”

“Đó là cuộc sống của cha cháu. Đối với ông thì như vậy cũng tự nhiên thôi...”

Cô dữ tợn chĩa điếu thuốc vào một bức tượng đặt trên thảm cỏ trước nhà. “Ngài Carrington Braham, ông nội cháu. Một đêm nào đó, thể nào bọn da đen cấp tiến cũng sẽ xuất hiện ở phố này và quật cho bức tượng ông cụ bay khỏi bệ. Họ sẽ làm thế. Chúng ta phải rời khỏi đây ngay, nhưng cha cháu cứ khăng khăng trụ lại. Chú không thấy rằng... ông thiếu tự trọng sao.”

“Cháu sẽ làm gì... sau cả đời phục vụ cho một quốc gia vẫn đang cần đến cháu?”

“Cháu biết chính xác cháu sẽ làm gì. Cháu sẽ mặc lễ phục, đeo toàn bộ huy chương, mang tất cả những gì làm người ta nhớ đến ông nội cháu... Cháu sẽ công nhận nhà Braham đã làm được nhiều việc có ích ở đây và cháu tự hào về điều đó, nhưng thời của gia đình cháu đã qua rồi và cố bám lấy cọng rơm là hành động làm mất phẩm giá.”

“Nhưng cháu sẽ làm gì?” tôi gặng hỏi.

“Cháu sẽ trịnh trọng bước vào văn phòng Tổng thống Hosea M’Bele với đầy đủ lệ bộ, ném hợp đồng lên bàn và bảo ông ta, ‘Ông hãy nhét nó vào lỗ đít ấy.’”

Tôi chưa bao giờ kiềm chế nổi cơn sốc trước vốn từ của thanh niên thời nay và chắc hẳn tôi đã đờ mặt, vì Monica ve vẩy một ngón tay trước mũi tôi, cử chỉ cho phép tôi ngửi được mùi của điếu thuốc cô đang hút. “Nó là cần sa à?” tôi hỏi.

“Rít một hơi chứ?”

“Con bé ngốc nghếch,” tôi giận dữ nói. “Cháu đang cố làm gì vậy? Tiêu cả cuộc đời trong một năm hả?”

“Cháu mệt mỏi với tất cả những thứ cha cháu ủng hộ,” cô nói với một vẻ duyên dáng uể oải. Thả người xuống chiếc ghé bành rộng, đôi chân dài quyến rũ vắt qua một tay ghế, cô không còn vẻ thù địch lúc trước nữa và trầm ngâm nói như thể cô đã sáu mươi tuổi: “Cháu đã chứng kiến Vwarda trong thời điểm huy hoàng nhất của nó - kết thúc giai đoạn cũ, bắt đầu giai đoạn mới và đã đến lúc nhà Braham chúng cháu ra đi. Chuyện giết chóc không phải là vấn đề. Bất cứ người da trắng nào bị chặt đầu cũng hoàn toàn chỉ là tai nạn. Việc đốt phá không gây hậu quả ghê gớm lắm. Có thể xây lại được. Nhưng cái chết của lý tưởng thì...” Cô hạ thấp giọng, rít vài hơi thuốc lá thật sâu rồi nói tiếp, “Chú biết không, chú George, suýt nữa cháu đã cưới thằng cha Nam Phi đó. Hắn khá dễ thương và chúng cháu đã có những giờ phút tuyệt diệu trên giường. Chú biết tại sao cháu không làm thế không?”

“’Vì cháu mới mười bảy tuổi và không thể kiếm được giấy kết hôn.”

“Vì về vấn đề chủng tộc thì họ đúng là lũ ngốc khát máu. Họ đang đâm đầu vào sự trừng phạt ghê gớm, và ai muốn có phần trong đó chứ?” Cô lại rít vài hơi sâu nữa, kết luận, “Với kiểu cách vụng về, dễ thương cha cháu cũng dở không kém. Ông biết đã đến lúc phải ra đi, nhưng lại không chịu bỏ đi.” Rồi, dụi điếu thuốc vào gạt tàn và giấu phần còn lại trong túi để cha cô khỏi nhìn thấy khi ông về nhà, cô nói: “Cháu sẽ đi! Cháu sẽ không phức tạp hóa những ngu ngốc của thế hệ chú đâu.” Và cô chậm rãi rời khỏi phòng.

—★—

“Cha phải hứa với con một điều,” Monica nói vào một ngày đầu tháng Ba năm 1969 trong lúc thắt cà vạt cho cha để ông đi dự một cuộc gặp gỡ quan trọng tột bậc. “Chú bảo cha cháu đi, chú George. Cha cháu nhất định không được quy lụy người ta. Cha, cha đừng xin xỏ gì.”

“Cha chỉ định trình bày trường hợp của mình một cách bình tĩnh và tôn trọng quyết định của ông ấy.”

“Ý con là,” cô cảnh cáo, “cha đừng có biến mình thành trò cười cho thiên hạ.”

“Monica!” tôi phản đối, vì Sir Charles đã quá lo sợ những gì ông phải làm hôm nay rồi, và lời công kích bất công của Monica sẽ làm ông căng thẳng hơn.

“Cháu không muốn một người nhà Braham phải khom lưng uốn gối,” cô ngắt lời. “Và chắc chắn không ở Vwarda.”

“Cha sẽ không khom lưng uốn gối đâu,” Sir Charles hứa. Lúc này, ông đã mặc bộ quần áo sẫm màu đẹp nhất của mình, với dải huy chương cài vào lỗ khuyết ve áo. Huy chương này được nhà vua ban tặng vì những cống hiến xứng đáng trong chiến tranh, nhưng bất chấp trang sức lộng lẫy đó, trông ông cũng chỉ tạm coi được, vì ở Vwarda tháng Ba là mùa hè nên mặt ông ướt đẫm mồ hôi. Quần áo của ông hoàn toàn không vừa người và cũng không sao vừa được vì thân hình to béo quá khó có thể tìm được quần áo phù hợp, làm cho bất kỳ chiếc áo vét nào trông cũng có vẻ quá chật. Hơn nữa, mông ông còn lắc qua lắc lại mỗi khi cất bước. Nhưng điểm khó coi nhất là nửa dưới khuôn mặt, lúc này đang co giật vì lo lắng. “Trông tôi có được không?” ông hỏi chúng tôi vẻ hy vọng.

“Trông cha khó coi một cách hoàn hảo,” Monica đáp, và rồi, trước sự ngạc nhiên của chúng tôi, cô đội một trong những chiếc mũ mùa hè của mẹ lên mái đầu đen nhánh.

“Con định đi đâu?” Sir Charles hỏi với giọng nóng nảy, vốn trong lòng đã biết trước câu trả lời.

“Đi với cha,” cô đáp. “Con sẽ không để cha tự biến mình thành một kẻ ngớ ngẩn.”

Tôi đang nghĩ mình không mong muốn gì hơn là phát cho cô vài cái thật đau vào mông thì cô quay lại bảo tôi: “Chú không phải nói dối hộ cha cháu. Cứ phát biểu sự thật, chỉ có thế thôi.”

“Cháu không được chỉ huy chuyện này,” tôi nói.

“Ôi dào, nhưng cháu sẽ chỉ huy! Cháu là người cuối cùng của dòng họ Braham ở Vwarda và cháu sẽ bảo vệ thanh danh của Thượng nghị sĩ Carrington.” Cô chỉ bức tượng ông nội mà nói tiếp: “Ông nội sẽ biết cách xử lý ra sao trong trường hợp này.”

Chiếc Rolls-Royce được đưa đến cổng vườn và ba chúng tôi ủ rũ tiến về phía xe: Sir Charles đầm đìa mồ hôi chạy như một cô bé con; Monica sải chân bước phăng phăng, gánh nặng của một dòng họ nổi tiếng đè trên đôi vai; và tôi ráng theo, một chuyên gia dàn xếp rắc rối sáu mươi mốt tuổi từ Geneva đến bằng con đường Indiana và trường đại học Virginia. Xe chúng tôi chạy dọc những con đường thủ đô đẹp đẽ trong khu dân cư, vượt qua khu thương mại với ba khách sạn chọc trời, rồi ra đến rìa thành phố nơi tọa lạc phủ tổng thống, một công trình xây dựng uy nghi kiểu Victoria suốt một thời gian dài là nhà ở của những người con thứ các gia đình quý tộc Anh, vốn được đưa tới đây dại diện cho đức vua. Tại lối ra vào, nơi có một thời binh sĩ Scotland mặc váy kẻ ô đứng canh, hai người lính da đen nhanh nhẹn giơ tay chào và ra hiệu cho chúng tôi đi tiếp. Cạnh cánh cửa uy nghiêm, nơi biết bao thế hệ người Anh đã đi qua ký tên vào sổ, chứng minh rằng họ tự coi mình thuộc phần đáng trọng của đế quốc Anh, một thanh niên da đen tốt nghiệp trường Cambridge chào đón chúng tôi và lịch sự nói, “Tổng thống M’Bele đang chờ các vị,” nhưng khi chúng tôi tới Phòng Tiếp kiến lộng lẫy phô trương, nơi có thời thương gia châu Âu và dân da đen bản xứ phải co rúm lại trước sự hùng mạnh của cường quốc Anh, tổng thống vẫn chưa ra và chúng tôi phải đứng tụm thành một nhóm nhỏ khốn khổ chờ ông ta trong khi các tiểu thiên sứ bằng vữa trên vòm trần cao mỉm cười chế nhạo nỗi lo lắng của chúng tôi.

Cuối cùng một trong những cánh cửa mạ vàng bật mở và một người đàn ông da đen nhỏ thó khoảng gần năm mươi tuổi vội vã bước vào phòng, chìa tay ra đón Sir Charles, nói tiếng Anh giọng Oxford: “Ông bạn lâu năm nhất kiêm cố vấn của tôi, xin chào, xin chào.” Ông ta hôn tay Monica và nói: “Cô còn xinh đẹp hơn nhiều so với lời bà nhà tôi tả. Bà ấy đã gặp cô ở sân quần vợt.” Rồi ông ta khoác tay tôi, dẫn chúng tôi đến một góc kín đáo hơn trong căn phòng rộng lớn. “Ông Fairbanks, chúng tôi rất hài lòng vì cấp trên của ông thấy việc gia hạn nợ là hợp lý.”

“Họ làm như vậy vì muốn duy trì kết giao với một quốc gia phồn thịnh.”

“Chúng tôi sẽ làm cho nó được như vậy.”

Nhìn bề ngoài, tổng thống M’Bele không có nét gì nổi bật; ông ta có thể là một mục sư làng ở Virginia hoặc chủ một cửa hàng quần áo nhỏ ở khu Soho. Ông ta sẽ rất phù hợp với bất kỳ thành phố lớn nào trên đất Mỹ trong vai trò giáo viên da đen tại một trường cao đẳng cộng đồng hoặc phóng viên chính trị cho tờ báo của người da màu. Trong chính phủ Anh ngày nay phải có tới hơn hai nghìn người da trắng trông nhang nhác và đảm nhận vai trò giống ông ta, cứ chê ỏng chê eo những chức vụ mà cấp trên có trình độ học vấn cao hơn phân công, tuy nhiên ở châu Phi, nhờ tấm bằng đại học Oxford, ông M’Bele lại là một của quý và khi người Anh rút đi, ông đã hoàn thành nhiệm vụ họ giao phó xuất sắc hơn bất kỳ ai khác họ có thể tìm được, và còn xuất sắc hơn rất nhiều bất kỳ người da trắng nào. Như hầu hết các nhà lãnh đạo mới ở châu Phi, ông đã được đào tạo về luật, nhưng vì cả hai trường Oxford và Sorbonne đều đảm bảo một cách hiểu rất sâu rộng về luật, nên ít nhất các luật sư da đen cũng đủ khả năng điều hành chính phủ giỏi như bất kỳ nhóm nào khác, và hơn hẳn phe quân nhân, vốn là những kẻ đang bắt đầu bắn bỏ họ, lần lượt từng người một.

Ngồi xuống bên một chiếc bàn rộng, ông xòe úp tay xuống, nghiêng người về phía trước nói: “Tôi cho là ông đã biết nội dung cuộc gặp hôm nay?” Ông dừng lại, và khi Sir Charles gật đầu, tổng thống nói tiếp, “Tôi e, ông bạn thân mến ạ, rằng quyết định này không thể thay đổi được nữa. Đã có nổi loạn, ông biết đấy. Bọn thanh niên bốc đồng cứ khăng khăng người của chúng tôi có thể đảm nhận được công việc của ông.”

Nghe thấy câu này, Monica liếc nhìn cha nghiêm khắc, ra ý nhắc nhở cô mong ông duy trì thái độ đàng hoàng. Sir Charles mở đầu khá đĩnh đạc. “Thưa Ngài,” ông nhẹ nhàng nói, “tôi không phải người không thể thiếu. Điều này đã rõ ràng từ khi độc lập, phải không? Tất cả chúng ta đều biết rõ điều này, phải không, Monica?” Ông cầu khẩn con gái xác nhận, nhưng cô nhìn chằm chằm về phía trước, tin rằng cuộc nói chuyện này hẳn kết thúc thảm hại. Cô sẽ không làm gì để đẩy giây phút đó tới sớm hơn.

“Nhưng còn trách nhiệm công việc, thưa Ngài! Đó là một vấn đề khá là khác biệt, không phải sao? Thư tá la, trách nhiệm công việc là vấn đề cốt yếu đối với sự thịnh vượng của quốc gia này...” Ông trình bày một bài diễn văn dài dòng rắc rối, lặp đi lặp lại nhiều đến nỗi tôi phải lấy làm lạ về đức kiên nhẫn của tổng thống. Hai lần ngài M’Bele liếc nhìn Monica cầu khẩn, như thể tranh thủ sự giúp đỡ để làm cha cô im đi, nhưng cô làm ngơ. Rất lâu sau, Sir Charles mới kết thúc phần trình bày của mình với một lời biện hộ. “Vì vậy, thưa Ngài, tôi đâu phải đang yêu cầu mình được đối xử ưu ái, phải không?” Lần này đây không phải câu hỏi tu từ nhưng ngài M’Bele lại coi nó như vậy, và Sir Charles kết thúc một cách không thuyết phục bằng ý kiến lẽ ra phải là điểm chính trong lập luận của ông: “Thưa Ngài, năm năm nữa Thomas Watallah có thể có khả năng hoàn thành nhiệm vụ của tôi thậm chí là bốn năm nhưng chắc chắn không phải bây giờ.”

Lúc này thì tổng thống phải lên tiếng, và bằng ngữ điệu đường mật của một dân tộc đầy chất thơ, lại thêm những trọng âm hay nhất mà nước Anh cống hiến được, ông ta nhắc món nợ ân tình mình chịu Sir Charles, và tôi cho rằng ông ta làm vậy để Sir Charles khỏi kể lể dài dòng, “Ông bạn thân mến nhất và lâu năm nhất của tôi, trong tất cả những người da trắng ông hẳn phải là người biết rõ tôi mang ơn ông sâu nặng đến thế nào. Sir Char