Chương 4 CATO
Ta da đen nhưng đẹp trai.
• Nhã ca của Solomon, 1:5
Thôi đi, mẹ. Mẹ biết bao nhiêu chàng trai da trắng thông minh như Ralph Bunched[23] hay cư xử tốt như Jackie Robinson[24]?
Một trong những bí ẩn thực sự của xã hội văn minh chúng ta là những doanh nhân Mỹ ngồi trước máy thu hình sửng sốt trước kỹ năng chơi bóng bầu dục của Leroy Kelly, thiên tài bóng rổ của Wilt Chamberlain, ma lực bóng chày của Willie Mays và quyền Anh siêu phàm của Cassius Clay nhưng vẫn giữ thái độ miễn cưỡng khi tạo cho người lao động da đen một cơ hội công bằng với cái cớ là “tất cả bọn mọi đen đều hạ đẳng”.
Ba yếu tố cơ bản quan trọng nhất hình thành nên lịch sử nước Mỹ đều màu đen: antraxit, dầu mỏ, nô lệ.
Lời khuyên đối với du khách: Khi đến Philadelphia vào mùa hè, các vị nên đề phòng hai điều: cái nóng và mối nguy đến tính mạng.
Mẹ sinh ra tôi ở vùng hoang vu phía Nam.
Và tôi màu đen, nhưng Ôi! tâm hồn tôi trắng;
Đứa bé người Anh trắng như một thiên thần,
Còn tôi thì đen như bị cướp hết ánh sáng.
• Blake
Suốt 364 ngày trong năm, người da đen kiên nhẫn chịu đựng một nỗi thống khổ hẳn sẽ đẩy người da trắng vào thế phải tự vẫn. Ngày thứ 365, anh ta trốn thoát bằng cách ở nhà uống say bí tỉ, và rồi nhân viên xã hội báo cáo, “Anh ta không có khả năng làm việc, như thường lệ.”
Một người đàn ông da đen là viên ngọc quý trong mắt người đàn bà công bằng, và có thể được thừa nhận như chàng Vulcan què quặt trước nàng Venus.
• Robert Burton
Cuối tuần thứ nhất của vụ nổi loạn, ủy ban Cứu vãn trường đại học đệ trình bản yêu sách miễn thương lượng mà Hội đồng Quản trị phải chấp thuận toàn bộ trước khi đi vào thảo luận chính thức:
1. Bất cứ sinh viên da đen nào đã hoàn thành hai năm cao đẳng đều phải được nhận vào học mà không cần thi tuyển.
2. Bất cứ sinh viên da đen nào một khi đã được nhận vào học thì đều phải được cấp bằng tốt nghiệp.
3. Ít nhất hai mươi phần trăm học phần trong trường đại học phải do các trợ giáo người da đen giảng dạy, giấy ủy nhiệm của họ sẽ chỉ do ủy ban này chứng nhận.
4. Bất cứ giảng viên nào không có sự đảm bảo của giáo viên tiền nhiệm mà muốn bình luận theo bất cứ cách nào về lịch sử người da đen đều phải đệ trình tài liệu ghi chép của mình cho ủy ban này duyệt trước khi giảng dạy.
5. Phòng hỗ trợ việc làm của trường đại học phải do người da đen điều hành và ít nhất sáu mươi phần trăm trợ lý cũng phải là người da đen.
Tôi không muốn một dân tộc da đen chia rẽ, nhưng chắc chắn tôi muốn tham gia hành động trên chính đất đai của mình.
Người khôn ngoan nhất chủng tộc tôi hiểu rằng khuấy động những vấn đề công bằng xã hội là việc điên rồ cực đoan nhất và tiến bộ trong sự hưởng thụ mọi đặc quyền mà chúng ta có được phải là kết quả của một cuộc đấu tranh cam go không ngừng chứ không phải vũ lực giả tạo.
• Booker T. Washington
Năm ngoái vấn đề lớn nhất của tôi là thẻ căn cước.
Năm nay đó là xoay được thuốc nổ ở đâu.
Đó là một vấn đề đơn giản về giải phẫu cơ thể người. Suốt ba trăm năm nay, chúng ta vẫn cứ chìa má bên kia. Từ nay trở đi sẽ là mắt và sẽ không phải mắt đổi mắt nữa. Sẽ là ba mắt đổi một mắt.
Linh hồn là khả năng điều khiển nghịch cảnh sao cho có thể chịu đựng được.
Về người Mỹ da đen, một câu đơn giản tóm tắt lịch sử xác đáng của đất nước chúng ta: được thuê cuối cùng, bị đuổi đầu tiên.
—★—Để giới thiệu chàng thanh niên tiếp theo, tôi ước gì mình có thể đưa ra một tấm ảnh, vì anh ta chiếm vị trí nổi bật trên một trong số những bức ảnh quyết định của thế kỷ này. Cũng như bao tấm ảnh khác, nó kết tinh những xúc động trên khắp Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ và, về một nghĩa nào đó, trên toàn thế giới. Khi nhìn bức ảnh đáng sợ này, bạn dừng lại và bắt đầu đánh giá một cách trung thực về những niềm tin và thành kiến của mình. Lần đầu tiên nhìn thấy tấm ảnh trên trang nhất một tờ báo ở Vwarda, tôi đã sững sờ kêu lên: “Lạy Chúa, bọn họ định làm gì thế này?”
Tấm ảnh chụp mặt tiền một nhà thờ Tân giáo ở Llanfair, một trong những khu ngoại ô toàn dân ngụ cư xứ Wales thuộc Main Line Philadelphia, nằm giữa Bala-Cynwyd và Bryn Mawr. Đó là một buổi sáng Chủ nhật tháng Ba tươi sáng, vào khoảng thời gian lẽ ra đám giáo dân đang nối đuôi nhau đi ngang qua chỗ mục sư để bắt tay ông. Thay vào đó, ba người đàn ông da đen lăm lăm tiểu liên vừa lùi ra khỏi nhà thờ vừa ngó lại phía sau hòng nắm chắc lối thoát thân. Người thứ nhất để râu, đầu tóc bù xù, mặt mũi dữ tợn. Người thứ hai cao, hốc hác, râu lơ thơ. Người thứ ba là một thanh niên đẹp trai khoảng mười chín tuổi với cái cười ngoác miệng hoàn toàn không đúng lúc. Đoạn chú thích cho biết kẻ cầm đầu là lãnh đạo của một ủy ban vừa trình lên nhà thờ Tân giáo Llanfair một bản yêu sách đòi bồi thường hai triệu đô la cho những tội ác trong quá khứ chống lại người da đen. Ba người mang tiểu liên vì đã được cảnh báo là nếu họ toan tính đưa ra yêu sách tại chính nhà thờ này thì sẽ bị đuổi ra ngoài.
“Sẽ không ai đuổi ai hết,” kẻ cầm đầu để râu hét lên khi bọn họ xông vào nhà thờ, và trong lúc ông ta đứng trên bục giảng đọc bản yêu sách, hai kẻ tay sai chĩa tiểu liên vào đầu các vị trong giáo đoàn. Được các giáo dân da trắng mời tới chụp cảnh mấy người da đen bị đuổi ra ngoài, một phóng viên nhiếp ảnh đã đợi sẵn khi bộ ba rút khỏi nhà thờ, và vì vậy chớp được tấm hình sẽ mang về cho anh ta giải Pulitzer.
Thật không may, khi đèn flash lóe sáng, người da đen thứ hai, gã đàn ông cao gầy, giật mình bóp cò, làm thủng một lỗ trên mái và khiến mấy kẻ xâm nhập bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Cảnh sát đã tóm được hai người để râu và tin chắc sẽ bắt được nốt người thứ ba.
Câu thứ hai tôi nói hôm đó ở Vwarda là, “Chết tiệt! Mình quen những anh chàng này!” Tôi kiểm tra họ tên trong phần chú thích và quả nhiên một người trong số đó là Cato Jackson ngụ tại phố Grimsby ở Bắc Philadelphia. Tôi không chỉ biết anh mà còn biết cả cha anh, Đức Cha Claypool Jackson, Nhà thờ châu Phi dòng Chúa Cứu thế, và lý do tôi quen biết Đức Cha lại là một lời bình luận thú vị về thời đại của chúng ta.
Các ông chủ ở Geneva của tôi là công dân Mỹ. Trước khi khai trương World Mutual, họ đã đạt được kết quả tốt đẹp ở những bang như Minnesota, Massachusetts. Họ quyết định thuê công ty mới tại Thụy Sĩ vì những hạn chế tại quê hương đã trở nên quá nặng nề nên họ tìm kiếm một phạm vi hoạt động tự do hơn. Họ đã mất khá nhiều khi thực hiện quyết định này, vì họ hẳn đã thích hoạt động bên ngoài New York hơn, nhưng đồng thời cũng được không ít.
Một thứ họ mất là sự tiếp xúc trực tiếp với những vấn đề nảy sinh sau đấy ở Hoa Kỳ. Tôi nhận thấy rất ít người trở thành lãnh đạo các công ty lớn mà không có được ít nhất là vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống. Họ có thể phản ứng theo tư tưởng bảo thủ hoặc tự do, nhưng thực tế thì họ nắm bắt được. Nếu không họ sẽ sụp đổ. Vì vậy nhóm chúng tôi biết chuyện gì đang xảy ra ở Mỹ và chúng tôi muốn tham gia... theo cách của mình.
Một lĩnh vực mà chúng tôi nuôi dưỡng mọi quan tâm phức tạp là quan hệ chủng tộc. Là hãng kinh doanh quốc tế, chúng tôi khó lòng nhìn bất cứ nhóm người nào với con mắt coi thường; một trong những giao dịch làm ăn mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho chúng tôi là với một côngxoocxiom gồm các nhà thầu Nhật Bản trông bề ngoài có vẻ đơn giản nhưng lại đủ khôn ngoan để dàn xếp một vụ mua bán đáng hổ thẹn với chúng tôi, và đã ký kết được hợp đồng vì họ có một thứ mà chúng tôi biết mình có thể thu được lợi nhuận, một loại thép mới. Tôi đã nói từ trước là tôi làm cố vấn cho một nước cộng hòa châu Phi.
Vậy là chúng tôi đã hoàn toàn sẵn sàng giúp đỡ cả về tài chính lẫn trí tuệ cho bất kỳ người da đen quả quyết nào có thể nhìn ra con đường thoát khỏi khu rừng rậm mà nước Mỹ đã tạo ra cho họ, khu rừng hiện họ vẫn còn bị giam hãm bên trong. Nhóm chúng tôi không có tình cảm gì đặc biệt với người da đen, không ảo tưởng rằng họ tốt đẹp hơn bất cứ giống người nào khác. Nhưng chúng tôi biết rằng họ chiếm mười hai phần trăm dân Mỹ, và trong lịch sử thế giới chúng tôi không thể tìm được trường hợp một quốc gia thành công nào lại buộc một tỷ lệ nhân lực lớn đến thế của nó phải sống một cuộc sống không phát huy được tính hữu dụng tối đa. Ngay các quốc gia chiếm hữu nô lệ hùng mạnh trong lịch sử cũng khuyến khích nô lệ của họ làm việc với hiệu suất cao nhất; mà một nền dân chủ dựa trên cơ sở tự do lại không làm được như vậy thì đúng là không sao tưởng tượng nổi. Vì vậy chúng tôi dành nhiều thời gian nghiên cứu tình hình ở Mỹ, tìm kiếm cơ hội có thể rót ba mươi hoặc bốn mươi triệu đô la để cố gắng chứng tỏ khi những thương gia da đen và da trắng hợp tác thì có thể làm được gì.
Chúng tôi đặt trụ sở tại Philadelphia vì thành phố này tập trung rất đông người da đen di cư từ miền Nam lên, trong khi ở vùng ngoại ô, dân cư đều có học và nói chung là tiến bộ. Như thường lệ, tôi được giao nhiệm vụ tìm kiếm khả năng phát triển, nhưng hết cơ hội này đến cơ hội khác đều trượt qua trước mắt tôi. Ở ngoại ô những người da trắng nắm quyền có phần hoang mang trước cái vấn đề bất ngờ xảy đến với họ; trong thành phố người da đen thiếu kiến thức về quản lý tài chính đến mức tôi thậm chí còn không tìm được một xuất phát điểm nào. Chính trong tâm trạng chán nản như vậy, một ngày chủ nhật nọ tôi đến nhà thờ châu Phi dòng Chúa Cứu thế đó đơn giản để nghe xem những người không được dẫn dắt ấy tự an ủi mình bằng thứ tôn giáo nào. Đó là một trải nghiệm buồn thảm. Mục sư ở đó là Đức Cha Claypool Jackson, một người nhân từ gần sáu mươi tuổi mà, xét về kích thước và vẻ tráng lệ của nhà thờ, đáng lẽ phải là nhân vật có quyền lực. Thay vào đó, ông rõ ràng là một Bác Tom[25] nhắc lại ảo mộng về Chúa và con người trong Green Pastures[26]. Ông giảng đạo bằng giọng địa phương cường điệu, dành phần lớn bài thuyết giáo để kể lại một cách đầy màu sắc Sách Daniel[27] mà ông gọi là “câu chuyện ba thiếu niên Hebrew bé nhỏ, Shadrach, Meshach và Abednego”. Chắc hẳn ông phải là con cháu trực hệ của người đã soạn thảo chương Kinh Thánh này vì ông bị ba cái tên thơ mộng ấy mê hoặc và cứ lớn tiếng đọc to chúng lên hết lần này đến lần khác. Ở Kinh Thánh, trong vòng mười chín tiết, ba cái tên đó được xướng lên mười ba lần, luôn theo thứ tự như vậy, và Đức Cha Jackson tin rằng điều gì đủ tốt đối với Kinh Thánh thì cũng đủ tốt đối với ông. Nhà thờ vang lên những cái tên đó, và bất kỳ lần nào ông xướng to chúng lên, ai đó trong giáo đoàn lại kêu: “Ôi, các chú bé Hebrew tội nghiệp.”
Đức Cha Jackson đặc biệt thích đoạn nói về việc chuẩn bị quăng ba thiếu niên vào lò lửa đỏ rực, “Bấy giờ, nhà vua truyền lệnh cho quân sĩ đốt lò lửa nóng gấp bảy lần bình thường. Ông ta sai những người khỏe mạnh nhất trong đội quân của mình trói Shadrach, Meshach và Abednego lại rồi quẳng họ vào lò lửa đang rừng rực cháy. Tức thì ba chú bé bị bó trong áo choàng, bít tất dài và mũ và các thứ áo quần khác của họ, rồi bị quẳng vào giữa lò lửa đang rừng rực cháy.” Ông nhắc đi nhắc lại nhiều lần từ ‘bít tất dài.’
Ông tiếp tục nói giọng đều đều, than khóc cho số phận ba thiếu niên Hebrew bé nhỏ, nhưng tôi không có chút ý niệm nào về việc ông sẽ hướng bài giảng đến đâu. Trong đoạn kết bài diễn văn của mình, khi ba chú bé được cứu sống, ông reo lên hân hoan, “Và hôm nay, giữa chúng ra có một quý ông tốt bụng, người đã đến để cứu chúng ta. Giờ đây ông đang ngồi cùng chúng ta, vượt qua một quãng dài từ tận Thụy Sĩ, mang theo hàng triệu đô la dành cho các cửa hàng, nhà thờ, trường học và có lẽ cả nhà máy nữa. Ông ngồi kia, một quý ông đầy quyền lực, và nếu các cụ ông cụ bà mang khay đến chỗ ông một cách lịch sự, tôi dám chắc ông sẽ tặng cho chúng ta ít nhất năm mươi đô la.”
Tôi ngồi sụp xuống ghế, nhưng các ông bà già đã xuống chỗ tôi và tôi không thể làm gì khác ngoài việc xỉa ra năm tờ mười đô la mà người cầm khay hoan hỉ mang lên bục giảng đạo, khoe với toàn thể giáo dân. Sau đó là một vài bài thánh ca, mấy câu tuyên bố, một lời nguyện bế mạc dài nhắc đến tôi một cách thiện chí, và buổi lễ kết thúc.
Tôi cố lẻn ra cửa hông để không phải đương đầu với những lời cảm ơn dạt dào tình cảm của Đức Cha Jackson mà tôi có thể nhận thấy đang tiến về phía mình, nhưng vừa tiến được đến lối thoát thì tôi phát hiện nó đã bị chặn bởi một thanh niên da đen đẹp trai khoảng đôi mươi, thân hình thanh mảnh, rắn rỏi. “Định chuồn sao? Ông không thể nuốt nổi những lời nhảm nhí bay bướm của Đức Cha à?”
Và tôi đã quen Cato Jackson như vậy.
—★—Trong những tuần tiếp theo, Đức Cha Claypool Jackson liên tục khiến tôi đau đầu nhức óc; ở bất cứ hoàn cảnh nào ông cũng là một anh hề nói năng ngọt xớt, không tỏ ra chút xấu hổ nào khi đóng vai gã da đen ở đồn điền bợ đỡ người da trắng nhằm đạt được cái mình muốn. Trong trường hợp của tôi, vấn đề càng thêm phần nan giải vì ông biết tôi đang nắm trong tay một khoản tiền lớn để phân phối và ông hình thành trong đầu cái suy nghĩ chỉ mình ông mới có thể cho tôi lời khuyên.
Điều làm tôi phát cáu là ông đảm nhận vai trò vị lãnh tụ da đen và luôn sẵn sàng phát biểu nhân danh hơn một triệu người da đen sống ở Philadelphia. Điều này còn có thể chịu đựng được nếu ông hiểu biết về cộng đồng người da đen, nhưng ông lại tỏ ra ngây thơ một cách đến là dễ thương về đời sống thực tế trong những khu phố chật chội. Mỗi lời khuyên ông đưa ra cho tôi không chỉ không thích hợp mà còn tai hại nữa.
Ngôi nhà thờ đồ sộ theo kiến trúc Gôtic của ông nằm ở góc phố Grimsby và phố Thứ Sáu. Nhà của ông cách đó hai khối nhà, ở góc phố Grimsby và phố Thứ Tư. Lấy hai điểm đó làm tiêu điểm của một hình elip trùm lên sáu hay bảy khối nhà theo mỗi hướng, nhà thờ và nhà riêng ngài mục sư là tâm của một khu vực là hình ảnh thu nhỏ cho sự suy sụp của cuộc sống thành thị, xét ở chừng mực liên quan đến người da đen. Trong vòng hai mươi tư tháng qua, tại khu vực này đã có sáu người da đen thành niên bị hạ sát, bảy trẻ em da đen dưới mười chín tuổi bị giết, cộng thêm ba chủ hiệu người Do Thái. Sáu mươi chín phần trăm trẻ sơ sinh là con hoang; mười bốn phần trăm đàn ông trưởng thành kiếm sống bằng cách tuồn heroin cho đám học sinh da đen ở trường Classical High gần đó, ngôi trường đã có bốn giáo viên bị hành hung trong lớp học và một bị hãm hiếp trong quán ăn tự phục vụ.
Hình elip của tương lai này chủ yếu được quản lý bởi cảnh sát Ailen và Ý, vốn là những người mà sự gắn bó tình cảm với đạo Thiên Chúa đã khiến họ không tài nào hiểu được chuyện gì đang xảy ra trong cộng đồng người da đen và trơ ra trước khát vọng của các cư dân ở nơi này. Hai lần khu vực này suýt xảy ra bạo động, một lần vì một cảnh sát da trắng đã bắn chết một cậu bé da đen mười một tuổi, còn lần kia thì vì đám da đen, khi nhìn thấy một cảnh sát da trắng hô hấp nhân tạo cố gắng cứu sống một cậu bé da đen, lại tưởng, tất nhiên là vậy, rằng viên cảnh sát đang bóp cổ đứa bé bị ngã, vậy là họ nhảy bổ vào anh ta. Trong lúc hỗn loạn, đứa bé chết còn viên cảnh sát thì mất một mắt.
Xét về nạn mại dâm, ma túy, nghiện ngập, mù chữ, thất nghiệp, trộm cắp và những dấu hiệu khác thể hiện sự sa sút của đô thị thì khu vực bao quanh nhà thờ của Đức Cha Jackson là một đại diện thu nhỏ; chính vì thế chúng tôi đã chọn khu vực đặc biệt này để thử nghiệm. Chúng tôi tin rằng người dân sống trong hình elip này có thể được cứu giúp. Chúng tôi mong muốn giúp nhóm người mất phương hướng này tìm ra một nền tảng kinh tế vững chắc để từ đó tổ chức lại cộng đồng và gia đình họ. Đối với chúng tôi, phố Grimsby vừa là thử thách, vừa là triển vọng. Chúng tôi nhận thức được những vấn đề đặc biệt của người da đen và muốn hợp tác với họ. Chúng tôi biết rằng chỉ những phương pháp triệt để mới mang lại bất cứ hy vọng thành công nào và chúng tôi đã sẵn sàng cam kết tài trợ cho chúng.
Bởi vậy tôi mất hết tinh thần khi Đức Cha Jackson cứ khăng khăng cho rằng điều tốt đẹp nhất tôi có thể làm để giúp dân da đen ở đó là - đoán thử xem? “Ông Fairbanks, tôi cảm thấy chắc chắn rằng điều chúng tôi cần nhất là ông hãy thanh toán món cầm cố ngôi nhà thờ của chúng tôi.”
Tôi lặng người, nhưng quyết định để xem ông có ý gì. “Bao nhiêu?”
“Một trăm tám mươi tám nghìn đô la.”
“Tại sao số tiền thế chấp lại lớn đến thế?”
“Khi chúng tôi mua ngôi nhà thờ này...”
“Ông nói sao?”
“Chúa không ban cho chúng tôi tòa nhà nguy nga này. Chúng tôi đã mua nó.”
“Của ai?”
“Của người da trắng. Khi họ chuyển ra ngoại ô.”
“Ông phải trả bao nhiêu?”
“Hai trăm năm mươi nghìn đô la.”
“Và ông đã giảm được hơn sáu mươi nghìn tiền thế chấp?”
“Đúng thế,” ông tự hào nói. “Toàn bộ nỗ lực của chúng tôi bán bánh, bán đồ cũ, những đợt quyên tiền đặc biệt vào mùa hè - mọi việc chúng tôi làm đều hướng đến một mục đích lớn lao. Giúp cho ngôi nhà của Chúa thoát khỏi mọi nợ nần.”
Tôi nhận thấy trong lúc nói chuyện với tôi ông không dùng tiếng địa phương cường điệu như khi giảng đạo. Ông từng học đại học ở miền Nam và có vẻ như đạt được kết quả khá tốt.
“Điều cộng đồng chúng tôi cần,” ông nêu lên với tôi nhiều kiểu dữ liệu hỗ trợ khác nhau, “là thanh toán xong món tiền thế chấp nhà thờ để công trình vĩ đại này có thể đứng vững vàng như ngọn đèn hiệu, nhắc nhở chúng tôi về cuộc sống mà Đức Chúa Jesus muốn chúng tôi theo đuổi.”
“Nhà thờ có tập hợp được thanh niên không?”
“Được chứ! Hè năm ngoái chính các bạn trẻ đã quyên góp phần lớn quỹ của chúng tôi. Nếu nhìn dàn đồng ca của chúng tôi, ông sẽ thấy rất nhiều gương mặt trẻ trung sáng sủa.”
“Còn đám thanh niên đường phố? Những kẻ đã đánh đập các giáo viên trường Classical High ấy?”
“Một số kẻ trong bọn chúng đã xa rời Chúa, nhưng khi nào nhà thờ của chúng tôi mạnh lên, chúng sẽ quay về. Như những người khác, chúng cũng biết hưởng ứng một bài thuyết giáo hay. Chắc tôi đã nói rõ với ông rằng việc cần thiết nhất của cộng đồng người da đen ở Philadelphia là làm cho nhà thờ này thoát khỏi mọi nợ nần. Rồi nó có thể khẳng định vai trò chăn dắt con chiên của mình.”
Mỗi lần giáo dân hội họp, Đức Cha Jackson đều trở lại với chủ đề chăn dắt con chiên này; đứng trước cử tọa, ý thức về sự đúng mực đã giữ cho ông không hối thúc trường hợp của mình, và ông không đả động đến vụ thế chấp, nhưng ông luôn tìm cơ hội tóm được tôi lúc đang ở một mình để khẩn khoản xin tôi thanh toán món nợ.
Cùng lúc với toàn bộ cộng đồng da đen ấy, tôi còn phải trải qua một kinh nghiệm đầy mâu thuẫn trong nỗ lực đầu tư khoản quỹ Geneva. Một mặt, một nhóm nhỏ chuyên gia da đen am hiểu đã giới thiệu với tôi một số kế hoạch hợp lý cho những dự án khả thi: ngân hàng cho vay lãi suất thấp, trung tâm công nghiệp sử dụng công nhân da đen, hình thức kinh doanh phối hợp, căn hộ chung cư dành cho công nhân trẻ mới xây dựng gia đình, và một ý tưởng mà tôi rất thích, một công ty bảo hiểm chuyên soạn thảo điều khoản cho các bà mẹ không chồng để con cái họ vẫn được đảm bảo việc học hành trong trường hợp rủi ro. Sau khi gặp gỡ những người như vậy, tôi trở về phòng khách sạn, vô cùng hăng hái, và nghĩ: Cộng đồng này có toàn bộ trí tuệ mà nó cần đến. Ngày mai chúng tôi sẽ bắt đầu.
Nhưng mặt khác lại có Nordness. Ông ta là một người Minnesota cao, sầu não, ăn nói gay gắt đã theo tôi từ Geneva tới làm giám đốc hành chính cho dự án Philadelphia, và gần như làm tôi phát ốm, vì hàng sáng khi tôi có mặt ở nơi làm việc, hăm hở bắt tay vào một dự án đầy hứa hẹn nào đó thì Nordness lại như một con ma lẳng lặng theo chân tôi vào văn phòng và tuôn ra một tràng những lời phàn nàn. Lúc nào cũng vẫn điệp khúc ấy: “Tôi đã hết sức cẩn thận trong việc thuê chánh thư ký, ông Fairbanks. Cuối cùng tôi đã tìm được một người da đen trông có vẻ khá hơn viên thư ký của chúng ta ở Geneva. Nhưng hôm nay mới là ngày làm việc thứ sáu của anh ta - và anh ta đang ở đâu chứ?”. Ngày thứ bảy, thứ tám rồi thứ chín, Nordness bắt đầu buổi sáng của tôi bằng việc buồn rầu thông báo viên thư ký vẫn vắng mặt. Rồi sang ngày thứ mười, Nordness nở nụ cười mỉm chua chát cố hữu mà nói, “Vậy đấy, anh chàng của chúng ta đã quay lại. Và khi tôi hỏi anh ta đã biến đi đâu suốt bốn ngày nay, ông thử đoán xem anh ta trả lời ra sao nào? ‘Xem này, thằng Harry lao đầu vào rắc rối, phải có ai đó giúp nó chứ.’ Harry là ai nào? Một cậu em họ xa ba đời.” Theo Nordness, bất cứ rắc rối nào liên quan tới cuộc sống gia đình cũng là cái cớ để nhân viên da đen bỏ bê trách nhiệm của mình ở công ty. “Mà gia đình thì được định nghĩa rộng lắm,” ông ta nghiêm khắc nói. “Hôm nọ là vụ tai nạn xe cộ liên quan đến cháu vợ của ông chú một nhân viên. Anh ta vắng mặt hai ngày, và khi tôi hỏi anh ta có thể biện minh cho việc này như thế nào, anh ta trả lời, ‘Chúng ta đang nói đến một cậu bé. Nó phải được bảo vệ trước bọn cớm.’”
Nếu tôi bắt tay vào một dự án mà vấn đề cốt yếu là phải thực hiện một cách nghiêm khắc thì thời gian đầu Nordness luôn giữ cho mọi thứ tiến triển thuận lợi, nhưng chẳng bao lâu sau ông ta lại mò tới văn phòng tôi quả quyết rằng ông ta không thể làm cho đám giám sát viên da đen buộc mọi người tuân theo mức sản xuất cố định được vì họ rất thông cảm với bất cứ công nhân nào gặp phải vấn đề đặc biệt. Một hôm Nordness đến hỏi tôi, giọng như sắp khóc, “Ông có đoán được cô thủ quỹ của chúng ta đang ở chỗ quái quỷ nào không? Tôi đã cử người đi tìm, và anh ta mang về tin tức tốt lành này: ‘Cô Catherine bảo phải đi thăm bà bác ở Tây Philadelphia. Đầu tuần sau cô ấy sẽ về.’”
Tôi nói với ông ta, giọng có phần khó chịu, “Hình như ông không có khả năng thích nghi với cộng đồng người da đen thì phải.” Rồi tôi nêu thêm một đề nghị vốn không bao hàm ý định làm cho ông ta tưởng là nghiêm túc: “Có lẽ quay về Geneva ông sẽ thấy dễ chịu hơn.”
“Tôi có thể đi ngay đêm nay!” ông ta reo lên. “Tôi đã hư thân vì làm việc với người Đức rồi. Với họ, ông chỉ việc thống nhất về phương pháp là mọi việc sẽ xong xuôi.”
Tôi hỏi, “Lẽ nào ông không thể hình dung ra một thế giới trong đó người Đức và người da đen làm việc theo cách riêng của họ hay sao?” Ông ta đáp, “Có lẽ hai trăm năm nữa người da đen sẽ học được cách làm việc như người Đức. Đến lúc đó, ông có thể nắm được Philadelphia.” Ông nhún vai ra dấu cóc cần quan tâm chuyện gì xảy ra với thành phố này, và đêm hôm đó ông ta lên máy bay quay về Geneva.
Vậy là lần lượt các kế hoạch đầy triển vọng mà Nordness và tôi đã dự định khi giải quyết vấn đề này về mặt lý thuyết đâm ra bấp bênh và sa vào vũng lầy hờ hững. Tôi đã lãng phí vài triệu đô la và hoàn thành được rất ít việc, nhưng mỗi khi một kế hoạch kinh doanh nữa thất bại, Đức Cha Jackson lại kè kè bên cạnh khuyên nhủ tôi: “Đúng như tôi đã nói với ông ngay từ đầu đấy, ông Fairbanks. Cái Philadelphia thực sự cần là thanh toán mọi nợ nần của nhà thờ để nó có thể sử dụng được quyền lực tinh thần và đem lại cho những dân lành đó các tiêu chuẩn họ có thể hành động theo.” Khi đến làm việc tại một cộng đồng mới và uống nước lạ, tôi thường bị rộp môi, và nếu tôi bỏ mặc không thèm quan tâm chăm sóc thì chứng bệnh sẽ dần dần khiến tôi khó chịu. Một dược sĩ người Áo khuyên tôi dùng một loại thuốc mỡ có tác dụng chặn những mụn rộp như vậy gần như ngay tức thì và thường thường tôi vẫn mang theo một ống, nhưng giờ thì tôi lại không còn, vì vậy một tối, sau cuộc họp với cộng đồng giáo dân tại ngôi nhà thờ lộng lẫy của Đức Cha Jackson, tôi ghé vào một cửa hàng dược phẩm ở góc phố Grimsby và phố Thứ Năm, nằm ở chính giữa đoạn đường từ nhà thờ đến nhà viên mục sư. Khi tôi đẩy cửa ra, một cái chuông kiểu cổ gắn lò xo báo cho viên dược sĩ vắng mặt biết có người vào cửa hiệu. Trên bức tường trước mắt tôi treo tấm bảng lớn: Hãy mỉm cười, quý khách đang bị cửa hàng theo dõi, kèm theo những bức ảnh giải thích rõ một chiếc camera bí mật đang quay phim bạn như thế nào, ngay cả khi chủ hiệu không có mặt. Tấm biển khác viết: Khi quý khách thấy khó ở, chúng tôi sẽ làm việc gấp đôi. Một cái bàn khá bụi bặm bày một món đặc biệt dành cho khách hàng Puerto Rico: Emulsion Gimenez, kèm theo chân dung một bác sĩ hói đầu mặc bộ dạ phục cổ nhung kiểu 1905. Agua de Azahar cũng được trưng bày, và một gói màu đỏ thẫm dán nhãn: Sát thủ! Coi chừng rệp, gián và sâu bọ khác.
Cánh cửa tự động cuối gian phòng mở ra và viên dược sĩ, một người đàn ông có tuổi đeo tấm biển nhựa cho biết ông là bác sĩ Goldstein, chậm rãi bước đến chào đón tôi. Ông đã nghe nói đến loại thuốc mỡ Áo đó. Ông không có nhưng ông nghĩ có thể kiếm được một vài ống ở đại lý bán sỉ: “Xin mời ông ngày mai tới, chắc tôi sẽ có.” Trong những trường hợp như thế này, khi tôi đặt mua món hàng nào đó mà chủ hiệu có thể không bán được cho người khác, tôi luôn thanh toán trước, và khi tôi đưa tiền, ông già mỉm cười nói, “Việc này ít khi xảy ra ở đây lắm. Tại cửa hiệu của cha tôi bên Đức thì nó đã thành lệ rồi.”
“Dân cư ở đây thanh toán hóa đơn ra sao?” tôi hỏi.
Ông thở dài. Ông đã hơn sáu mươi tuổi và chắc chắn đây là cửa hiệu cuối cùng của ông, vì thế ông có chiều hướng tự nhiên suy nghĩ tốt đẹp về việc này, nhưng ông không thể: “Khó khăn lắm. Khu vực phụ cận này đúng là địa ngục trần gian để thử thách chúng tôi.”
“Người da đen bất trị đến thế sao?”
“Không! về cơ bản họ là người tốt. Địa ngục của họ còn tồi tệ hơn của chúng tôi nhiều. Nhưng tôi không nghĩ một người da trắng - chắc chắn không một người Do Thái nào...” Ông nhún vai. “Chúng tôi sẽ phải đi khỏi đây thôi. Đã ba lần bọn chúng đột nhập qua cái cửa kia để kiếm heroin. Tôi không có chút nào, vậy là chúng điên lên, đập phá mọi thứ và nốc hơn một lít paregoric[28], rồi chết vì thế. Chuyện đó có văn minh không?”
Tôi hỏi về nền nếp làm việc, vấn đề từng khiến Nordness vô cùng đau đầu, và ông nói, “Tôi đã thử vài người giúp việc da đen. Những khách hàng da đen thường phàn nàn nhân viên của tôi toàn là người Do Thái, mà họ kêu ca thế cũng đúng. Vì vậy tôi thuê lần lượt ba thanh niên phụ giúp mình - và chuyện gì xảy ra nào? Hoặc họ ăn cắp của tôi một cách quá đáng hoặc không mở cửa hàng hôm tôi nghỉ. Vậy là tôi phải sa thải họ - và họ buộc tội tôi phân biệt đối xử.”
“Chuyện gì sẽ đến?” tôi hỏi.
“Thời điểm sẽ đến. Ở quanh đây, tôi có thể đưa ông tới hàng tá gia đình của một số nhân vật thuộc hàng ưu tú nhất nước Mỹ. Thân thiện, rộng lượng, lịch thiệp. Ông đã nghe nói đến Leroy Clore chưa? Giữ chốt ba cho đội Chicago... tức là cho Liên đoàn Mỹ. Vậy đấy, cậu ấy ở cách đây một khối nhà, và nếu ngay bây giờ cậu ấy bước vào nói, ‘Ông Morris, tôi cần ba trăm đô la,’ tôi sẽ đưa ngay cho cậu ấy. Tôi rất hy vọng là khoảng mười lăm năm nữa chúng ta sẽ có thật nhiều Leroy Clore. Nhưng từ giờ cho đến lúc đó thì... loạn.”
Hôm sau, cuộc họp của chúng tôi kéo dài lê thê, trong đó Đức Cha Jackson khăng khăng cho rằng thất bại của các dự án thương mại của chúng tôi chứng tỏ chúng tôi phải hướng nguồn tài chính vào các nhà thờ. Chỗ rộp trên môi tôi trở nên đau nhức, làm cho đoạn điệp khúc của ông chán ngắt gấp đôi, và tôi e mình đã tỏ ra lỗ mãng. Ông mỉm cười rộng lượng và tiếp tục, “Cuối cùng rồi ông sẽ nhận ra tôi đã đúng. Chúng ta phải xây dựng nhà thờ để nó là một ngọn đèn hiệu.” Câu này làm tôi bực đến nỗi tôi định đốp lại, “Sao không đốt luôn một đống lửa dưới chân cái thứ chết tiệt đó và biến nó thành ngọn đèn hiệu thực sự,” nhưng thay vì thế tôi lại ấn chặt môi cho đỡ đau và cam đoan với ông chúng tôi sẽ cân nhắc mọi đề nghị. Tôi rời cuộc họp trong tâm trạng chán ghét và đi bộ sang phố Thứ Năm xem bác sĩ Goldstein đã kiếm được thuốc mỡ Áo cho tôi chưa, nhưng tôi không vào được hiệu thuốc.
Nó đã bị vây quanh bởi một đám người, phần lớn là dân da đen, đang há hốc miệng đứng nhìn hai xe cảnh sát rẽ đám đông tiến vào, nháy đèn nhưng không hụ còi, vì đó là khu vực ở Philadelphia cần tránh dùng còi báo động; ngay cả một ánh đèn nhấp nháy cũng có thể lôi kéo một đám đông quá lớn đến mức khó xử lý. Đám cảnh sát, quá nửa là da đen, vội vàng bước từ xe vào một nơi có vẻ như khu chung cư, nhưng cuối cùng khi len lỏi được qua đám đông, tôi thấy họ đã vào hiệu thuốc.
Họ tới quá muộn. Bác sĩ Goldstein nằm trên vỉa hè lênh láng máu, bị bắn gục bởi những kẻ tấn công mà người ta vẫn chưa xác định được mục đích. Tôi chưa kịp hỏi câu nào thì một người Do Thái đứng tuổi đã chạy tới từ một tòa nhà gần đó, kêu lên, giọng to hết cỡ, “Tôi đã bảo chú ấy cả chục lần rồi, ‘Morris, đi khỏi đây thôi!’ Chúng tôi đã định tháng sau sẽ bán cửa hiệu này.” Ông ta tự xưng là Julius Goldstein, dược sĩ có giấy phép kinh doanh, anh ruột và là đối tác của người chết.
Một cảnh sát da trắng định ngăn không cho ông ta vào hiệu thuốc, nhưng ông Goldstein cứ dùng vũ lực chen vào trong, nhìn thấy cái xác đẫm máu của người em, thế là ông bắt đầu gào thét buộc tội dân da đen và những hàng xóm láng giềng số phận vốn đã bi đát. Đó là một giây phút ghê sợ, trong đó người Do Thái này chẳng thu được kết quả gì từ những lời buộc tội chung chung.
“Đưa ông ta đi khỏi đây,” viên cảnh sát da trắng ra lệnh. Rồi, nhìn thấy tôi, anh ta quát, “Cả ông nữa, đi khỏi đây!” Một cảnh sát da đen túm lấy tôi định đẩy đi thì đúng lúc một thanh niên chạy ra khỏi bóng tối, chen vào giữa tôi và viên cảnh sát, nói, “Bình tĩnh, anh bạn. Ông này là người của chúng tôi.” Viên cảnh sát nhìn anh thanh niên, gật đầu nhận người quen rồi bỏ tay khỏi vai tôi, nói, “Cậu cảm thấy như thế nào về chuyện xảy ra ở đó, Cato?”
Anh thanh niên quay lại quan sát hiệu thuốc và hỏi, “Ông ngạc nhiên?” Viên cảnh sát nhún vai quay lại hiệu thuốc. Lúc này anh thanh niên mới nói, “Chúng ta đã gặp nhau ở nhà thờ của cha tôi. Tôi là Cato Jackson.”
—★—Đêm hôm đó là một cuộc khám phá. Lo lắng sâu sắc vì vụ giết người nhiều hơn là anh để lộ cho tôi thấy tại hiệu thuốc, Cato Jackson đi bộ cùng tôi suốt sáu tiếng đồng hồ khắp những vùng tối tăm gần nơi anh trưởng thành, chia sẻ tâm trạng bối rối và sợ hãi của mình. Anh đang là sinh viên năm thứ hai trường đại học Pennsylvania, học vượt một lớp; năm mười bốn tuổi, anh được một hội đồng khoa ở trường đại học nhận định là cậu bé xuất sắc và được cấp học bổng dự bị. Hiện nay, anh đang hoàn thành những yêu cầu của khóa học để chuyển lên chuyên ngành quản lý đô thị, và điểm số của anh, nếu tôi có thể tin lời anh, đạt loại xuất sắc hết. Trong một giờ đồng hồ anh nói được nhiều điều có ý nghĩa hơn cha anh suốt hai tháng trời. Tôi sẽ không cố thuật lại toàn bộ cuộc nói chuyện của chúng tôi, nhưng sau đây là những điểm chính mà anh đã nêu lên trong cái đêm dài tối trời ấy:
“Cha tôi từ Nam Carolina tới với tư cách mục sư được thụ phong, mặc dù điều này có ý nghĩa như thế nào về mặt trí tuệ thì tôi không dám nói. Tại Philly[29] đây, ông khánh thành một nhà thờ trong tòa nhà có cửa hàng bán lẻ ngoài mặt tiền, và như chính ông cũng đã nhận thấy cha tôi là người có tài thuyết giáo, vì vậy ông rất thành công. Tôi muốn nói ông đã tập hợp được quanh mình một nhóm tín đồ trung thành, nhờ họ ông không những kiếm sống cho bản thân mà còn đủ tiền chuyển cả giáo đoàn từ cửa hàng mặt tiền đó đến tòa nhà nhỏ bằng gạch ở Nam Grimsby, nếu đi xuôi xuống thì cách nhà thờ hiện tại khoảng hai mươi hai khối nhà.
“Cha tôi luôn quyên tiền rất giỏi, do đó không lâu sau ông đã thanh toán xong mọi chi phí cho tòa nhà gạch. Giờ thì đến lúc nảy sinh thêm một vấn đề tiền nong khác. Người da đen đang chuyển đến vùng phụ cận, còn người da trắng thì dọn đi. Vì vậy ngôi nhà thờ Gôtic đồ sộ mà Chủ nhật trước ông mới đến gần như bị bỏ không. Không có người da trắng, trong khi ngôi nhà nhỏ bằng gạch chật cứng người da đen. Đám giáo dân da trắng, vốn giàu có, chuyển đến Llanfair thuộc Main Line, xây một nhà thờ mới khá đẹp, rồi tìm quanh tìm quất xem có cách nào bán tống bán tháo cái nhà thờ cũ đi không.
“Tín đồ Tân giáo Philadelphia là một đám khôn ngoan. Tôi cho tất cả con chiên Cơ Đốc giáo đều thế. Dù sao đi nữa họ cũng đã đạt được một thỏa thuận theo đó ông già tôi sẽ trả họ hai trăm năm mươi nghìn đô la để mua ngôi nhà thờ cũ. Đó là cái giá phải trả. Có vẻ họ chưa bao giờ nghĩ rằng họ đã được hưởng một trăm năm tươi đẹp tại nhà thờ này... rằng tất cả bọn họ đã kiếm được bộn tiền từ vùng phụ cận này... rằng họ đã dẫn đầu cuộc chơi và nên tặng nhà thờ cho những người đang theo sau. Không, họ mang hết lợi nhuận của họ tới khu Main Line, cả công việc làm ăn của họ, thuế má của họ, và rồi, có Chúa chứng giám, họ bán lại ngôi nhà thờ cũ cho cha tôi.
“Cha tôi có hai mươi nghìn đô la để dành từ đợt quyên góp cho ngôi nhà thờ gạch. Ông bán ngôi nhà thờ đó được ba mươi nghìn, và với khoản này ông thanh toán một phần chi phí. Cha tôi có được khoản vay thế chấp hai trăm nghìn từ chính những người Cơ Đốc giáo đã bán cho ông ngôi nhà thờ hết cả nước lẫn cái kia, và giờ thì ông và đám giáo dân phải còng lưng làm việc mười hai tháng mỗi năm hòng trả nợ cho những kẻ giàu có ở Main Line.”
Khi anh kể câu chuyện này, chúng tôi đang đi trên cây cầu bắc ngang sông Schuylkill, từ trên cầu chúng tôi có thể nhìn thấy hình dáng xinh đẹp của quảng trường Alexander Hamilton, đặt theo tên một nhà quý tộc nhập cư người Tây Ấn mà Cato ngờ rằng có một phần dòng máu da đen, giống như nữ đồng hương của ông ta, nàng Josephine de Beauharnais vợ Napoleon. Ông Hamilton đã dốc sức làm việc một cách thông minh và tài giỏi tại Philadelphia, và cũng hoàn toàn thích đáng khi một trong những quảng trường đẹp nhất khu dân cư, nhìn ra dòng sông phía Tây, được dùng để vinh danh ông.
“Khi tôi nhìn hình ảnh quảng trường này in trên nền trời,” Cato nói, “ông có đoán được tôi thấy gì không? Trước tiên hãy cho tôi biết ông thấy gì.”
“Tôi nhìn thấy vài tòa nhà cổ kính rất đẹp,” tôi đáp. “Chúng đáng được bảo tồn... nếu đó là điều cậu muốn nói.”
“Tôi không hề muốn nói đến những tòa nhà ấy. Tôi muốn nói đến những tấm biển đề tên bằng đồng kia cơ.” Anh dẫn tôi đi quanh quảng trường để tôi có thể đọc được tên các tổ chức sử dụng những tòa nhà sang trọng kia làm trụ sở chính ở Pennsylvania: câu lạc bộ phụ nữ, nhóm thanh niên, hội nhà thờ, quỹ tài trợ, liên hiệp nghệ thuật, và tất cả các nhóm tình nguyện này đều rất cần thiết cho hạnh phúc của một xã hội.
“Tổ chức nào cũng được miễn thuế,” Cato nói. “Tổ chức nào cũng quyên tiền trong thành phố và tiêu xài ở ngoại ô. Quảng trường này là thủ đô tinh thần của vùng ngoại ô. Không một ủy ban chết tiệt nào đặt trụ sở ở đây làm được chút xíu tốt đẹp gì cho thành phố này. Và tất cả đều được thành phố miễn thuế.”
Anh đưa tôi tới các quảng trường khác cũng đang trong tình trạng tương tự: “Ở quảng trường này, sáu mươi phần trăm các tòa nhà được miễn thuế, và từng tòa nhà trong số đó đều chỉ hoạt động vì lợi ích của vùng ngoại ô. Ở quảng trường này, năm mươi mốt phần trăm được miễn thuế. Tại đây, các nhà máy đều đóng cửa, không nộp thuế. Nhìn vào đâu ông cũng sẽ thấy những phần cơ bản nhất đều đã bị giành giật ra khỏi thành phố, hoặc được chuyển ra ngoại thành hoặc được ném vào diện miễn thuế.”
“Chắc cậu đang nghiên cứu vấn đề này ở trường Penn?”
“Không! Penn là nơi tệ hơn cả. Cái doanh nghiệp khổng lồ nằm ở trung tâm thành phố đó lại không phải nộp thuế cho những dịch vụ mà người da đen chúng tôi phải chi tiền.”
“Nhưng họ cho cậu học vấn.”
“Bất đắc dĩ thôi.”
Chúng tôi tiếp tục xuyên qua thành phố, và lần đầu tiên tôi được thấy một thủ phủ hàng đầu của Mỹ qua con mắt một thanh niên da đen đang phẫn nộ: “Dù giáo dân Tin lành da trắng đã mang theo của cải bỏ đi, và dù đã bán ngôi nhà thờ hết cả nước lẫn cái đó cho những người như cha tôi, họ vẫn không từ bỏ quyền kiểm soát. Họ dùng việc miễn thuế để trói chân trói tay chúng tôi. Họ dùng cơ quan lập pháp bang để ngăn chúng tôi tự quản. Họ làm nghèo thành phố này, cướp đoạt mọi thứ, rồi vứt cho chúng tôi và bảo, ‘Giờ là việc của các anh.’ Nhưng họ không cho chúng tôi tiền bạc và quyền kiểm soát.”
Hai cảnh sát chầm chậm lái chiếc xe tuần tra vượt qua chúng tôi, rõ ràng tò mò không hiểu tại sao một người da trắng lại lang thang trong khu vực này của thành phố sau nửa đêm. Khi hai người ngồi trong xe - một da đen, một da trắng - nhận ra tuổi tác của tôi và Cato, họ liền cho rằng chúng tôi là dân đồng tính. “Đừng có làm chuyện bậy bạ đấy,” họ cảnh cáo chúng tôi.
“Một thứ người da trắng vẫn giữ quyền kiểm soát dù rời bỏ thành phố,” Cato nói khi chiếc xe cảnh sát dần khuất khỏi tầm mắt. “Sở cảnh sát. Họ nhất định phải nắm quyền kiểm soát nơi đó. Ông biết tại sao không?” Khi tôi nói không, anh làm một việc lạ lùng. Anh bỏ cách nói vẫn dùng trong trường đại học và chuyển sang thứ phương ngữ cổ mà gia đình anh sử dụng khi sống ở vùng đầm lầy dọc bờ biển Nam Carolina. Ngôn ngữ Geechee, Cato gọi như vậy, và tôi nhận thấy nó hầu như không thể nào giải đoán nổi, như được hình thành từ những từ châu Phi, những tiếng càu nhàu và cách phát âm giễu cợt. May thay, nó lại pha lẫn với cái mà Cato gọi là “Stepin Fetchit[30] thời kỳ giữa đỉnh cao”, và chính sự pha trộn ấy đã được Cato và bạn bè sử dụng khi tham gia những trò chơi xỏ, ngón nghề chế giễu dân da trắng bằng cách trình bày dưới hình thức cường điệu nỗi ám ảnh chủng tộc họ hằng nuôi trong lòng. Cato là bậc thầy nhạo báng, và dù tôi không tài nào thể hiện lại một cách chính xác những từ châu Phi anh dùng cũng như sự kỳ quặc tột độ của thứ ngữ pháp mù tịt ấy, những điều anh nói với tôi đêm đầu tiên đó đại khái là thế này: “Zét sơ, ngài Charley, tôi và đám bạn tôi, một đêm nào đó chúng tôi sẽ tụ tập, chúng tôi sẽ mang theo dao búa, gậy gộc và dây dợ hành quân thẳng tới Chestnut Hill, Llanfair, Ardmore và tất cả những nơi đẹp đẽ rồi chúng tôi sẽ đến những khu dân cư sang trọng,” anh phát âm thành san trọn, “như Jenkintown và Doylestown, và chúng tôi sẽ giết, sẽ hãm hiếp, sẽ đốt hết dân chúng ngoại ô đó. Zét sơ, ngài Charley, đó là điều chúng tôi muốn làm.”
“Các anh vừa giết một người trong số đó cách đây hai giờ đấy thôi,” tôi nói, khó chịu với trò nhạo báng ấy.
“Ông đã xem xét khu vực tôi sống chưa?” anh nghiêm nghị hỏi.
“Tôi xem rồi.”
“Ông không ngạc nhiên là không có nhiều vụ giết người hơn ư?”
“Chỉ một thôi cũng đã đủ làm tôi co rúm người rồi.”
Sự dứt khoát trong câu trả lời của tôi khiến anh bỏ qua đề tài đó. Anh đột ngột nói, “Ông đã hỏi có phải những ý nghĩ của tôi bắt nguồn từ Penn không. Tôi đã nói là không. Ông có muốn biết tôi có được những ý nghĩ đó từ đâu không?” Khi tôi gật đầu, anh nhìn đồng hồ đeo tay, một chiếc khá đắt tiền, và bảo, “Đi thôi.”
Cato đưa tôi đến khu phố trên nằm cách đó khá xa, tới một con phố hết sức tồi tàn ở Bắc Philadelphia, đến đó anh nhìn xuôi nhìn ngược để chắc chắn chúng tôi không bị cảnh sát bám theo. Yên trí là chỉ có hai chúng tôi, anh lẩn vào một ngõ hẻm, rồi đột ngột quay ngược lại đến bên cánh cửa hông của một chung cư cũ nát không ngờ. “Nói cho chính xác,” anh nói, “ngôi nhà này thuộc sở hữu của một người trong cái đám đã bán tống bán tháo nhà thờ cho cha tôi.”
Chúng tôi leo lên những bậc cầu thang mà không người khôn ngoan nào dám tin tưởng đặt chân lên và đạp tung một cánh cửa đã hỏng chốt từ bao năm. Căn phòng tối om, nhưng tôi vẫn lờ mờ nhận ra một cái giường trong góc, trên đó có ít nhất một người đang ngủ. Cato gây ra tiếng động khi vấp phải chiếc ghế và một dụng cụ nhà bếp nào đó. Cuối cùng, anh cũng tìm thấy một cái đèn và ánh sáng của nó chiếu tỏ một căn phòng nhếch nhác, bàn ghế sứt sẹo, chiếc giường sắt sơn tróc từng mảng trên có hai người đàn ông đang nằm.
Một người râu rậm, cởi trần và trông càu cạu. Người kia, dáng cao gầy và râu lưa thưa, không gây ấn tượng gì cho tôi. Khi người thứ nhất ra khỏi giường, tôi thấy ông ta mặc chiếc quần bóng rổ màu xanh lá cây in phù hiệu đội tên tuổi hạng nhất: Boston Celtics. “Đây là Akbar Muhammad,” Cato giới thiệu. “Ông là giáo sư dạy lớp tôi.”
Akbar với lấy chiếc khăn mặt, nhúng một đầu vào bình nước, lau khuôn mặt râu ria và hỏi, “Cậu tới đây có việc gì?”
“Thầy nên làm quen với người da trắng này,” Cato đáp. “Ông ấy chính là người Geneva đó.”
“Mang theo hàng triệu?” Akbar hỏi.
“Chính ông ta,” Cato đáp.
Akbar buông chiếc khăn mặt rơi xuống sàn, đá nó sang một bên và bước tới đón tôi. “Tôi đã nghe nói về ông,” ông ta nắm chặt tay tôi nói. “Ông làm việc rất ý nghĩa.” Ông ta đẩy một chiếc ghế lại chỗ tôi và ngồi xuống chân giường. “Ông đã tìm được gì đáng để đầu tư chưa?”
“Chưa,” tôi đáp.
“Tôi không nghĩ rằng ông sẽ tìm được.”
“Tối nay lại có một vụ giết người nữa,” tôi nói. “Ngay gần nhà thờ nơi chúng tôi vừa họp.”
“Sẽ còn nhiều hơn nữa.” Ông ta với tay ra phía sau gõ nhẹ vào trán người đàn ông gầy gò. “Đi gọi Vilma đi,” ông ta ra lệnh, và người kia vội vàng mặc quần áo rời khỏi phòng.
“Ông là ai?” tôi hỏi.
“Ông biết tên tôi rồi. Chắc ông định hỏi tên trước kia của tôi là gì. Eddie Frakus. Người Detroit. Cha mẹ ở Mississippi. Tôi tốt nghiệp ở bang Michigan. Ông Fairbanks, có lẽ ông nên trở về Geneva. Mười năm nữa, may ra người da đen Philadelphia mới có thể hiểu được ý tốt của ông.” Ông ta ngừng lại, lấy tay phải vuốt râu, rồi chĩa một ngón tay dài về phía tôi. “Và đến lúc đó, chúng tôi sẽ thay đổi nhiều đến nỗi ngay cả những người đầy thiện ý như ông cũng sẽ không đề nghị giúp đỡ chúng tôi như ông đã đề nghị đêm nay nữa. Không, hãy tin tôi! Những việc chúng tôi sắp phải làm sẽ khiến ông xa lánh chúng tôi... hoàn toàn. Nhưng điều đó không thành vấn đề, vì đến lúc đó thì chúng tôi sẽ chẳng cần ông giúp nữa.”
Ông ta phát biểu hùng hồn, với sự hiểu biết sâu sắc những gì mình nói, đến mức tôi buộc phải có cảm tình với ông ta. Tôi hỏi, “Tại sao ông tin chắc các ông sẽ mất sự ủng hộ của tôi như vậy?” thì ông ta chỉ vào một cái máy in roneo đặt trong góc. “Cứ xem đi. Hãy tự tìm lấy thông điệp. Nó sẽ mang đến cho ông cảm giác khám phá.” Ông ta quan sát tôi tiến đến góc phòng, nhặt lên một trong những bản sao đầu tiên của một tài liệu sắp trở nên nổi tiếng, tuyên ngôn của Akbar Muhammad chống lại các nhà thờ Cơ Đốc giáo ở Pennsylvania.
Đó là một tài liệu có tính kích động mạnh mẽ đến nỗi tôi phải tự hỏi không biết người đàn ông vừa tỏ ra rất biết điều kia có đúng là người đã thảo ra nó không. Lời mở đầu là lời kêu gọi làm cách mạng, những đoạn đầu tiên là một chương trình để người da đen kiểm soát thành phố. Văn phòng thị trưởng, cảnh sát trưởng, chủ tịch Hội đồng Giáo dục và giám đốc cơ quan phúc lợi xã hội đều là người da đen, và nguồn tài chính đảm bảo cho sự tiếp quản này sẽ do tất cả nhà thờ da trắng, không những trong thành phố mà còn ở ngoại ô trong vòng bán kính hai mươi lăm dặm, tự nguyện đóng góp. Khi đọc xong tài liệu lý lẽ hợp lý và đầy sức thuyết phục đó, tôi nhận ra nó đã được tính toán để làm cho người đọc da trắng phải tức điên lên đến mức chưa lời tuyên bố nào khác có thể làm được, vì nó sỉ nhục những định kiến và nhại lại những tín ngưỡng quý giá nhất của họ.
Đức Chúa Jesus bị miêu tả như một kẻ đa cảm rẻ tiền với những lời phát biểu rỗng tuếch đầy mâu thuẫn đã bị dân da trắng lợi dụng để khuất phục người da đen và được người da đen sử dụng như một thứ ma túy để làm cho cảnh nô lệ suốt đời của họ trở nên có thể chịu đựng. Những người đứng đầu nhà thờ được nhắc đến như những tên găngxtơ cướp bóc người da đen một cách có hệ thống và kìm giữ họ trong hoàn cảnh không thể tự giải thoát. Giáo dân bị chứng minh là những kẻ ngốc chết tiệt tán thành việc đang xảy ra với vẻ mộ đạo và lợi dụng những việc đó. Người nộp thuế nói chung thì bị cho là thông đồng với nhà thờ, gây hại cho chính họ. Những đoạn cuối toát lên sự lạnh giá của những đêm đông tháng Mười một trước cuộc cách mạng: “Do đó chúng tôi yêu cầu, nhân danh Akbar Muhammad và toàn thể người da đen, coi như khoản bồi thường của các nhà thờ của người da trắng ở Philadelphia, số tiền mặt 10.000.000 đô la giao ngay lập tức, được quy định như sau...” và tên bốn mươi tổ chức tôn giáo được liệt kê kèm theo số tiền chính xác mỗi tổ chức này phải cung cấp. “Chúng tôi cũng yêu cầu các nhà thờ của người da trắng ở ngoại ô Philadelphia số tiền mặt 20.000.000 đô la giao ngay lập tức, được quy định như sau...” và đến đây là địa chỉ của khoảng chín mươi nhà thờ giàu có từ Paoli ở phía Tây cho đến Doylestown ở phía Bắc. Bản tuyên ngôn được ký tên “Akbar Muhammad.”
Đến tảng sáng thì tôi đọc xong bản cáo trạng đó, và tôi chưa kịp hỏi câu nào thì người đàn ông gầy gò đã quay lại cùng một cô gái da đen vô cùng xinh đẹp mà tôi sẽ chẳng bao giờ làm sáng tỏ được mối quan hệ giữa cô và ba người đàn ông này. Có vẻ như cô không phải là bạn gái của người đàn ông gầy gò đã đi tìm cô đến, nhưng Akbar Muhammad lại đối xử với cô một cách thờ ơ, nếu không muốn nói là coi thường, đến nỗi tôi không tin cô sẽ hài lòng lâu dài với sự đỡ đầu của ông ta. Mặt khác, anh chàng Cato trẻ tuổi lại kìm nén một cách đầy đau khổ cố không để lộ mối quan tâm đối với cô, vì vậy tôi cho rằng chắc hẳn một trong hai người còn lại đã cảnh cáo anh hãy tránh cho xa, nhưng tôi có thể cảm thấy sự xúc động sâu sắc của anh.
Cô giống như một thú rừng non đáng yêu, duyên dáng bẩm sinh, da nâu vàng, và có phần nôn nóng. Khuôn mặt cô có nét cân đối của người Hy Lạp, như thể được tạc từ một khối cẩm thạch Bắc Phi quý giá màu vàng nâu nào đó. Cô bé thật xinh đẹp, theo đúng lời trong Kinh Thánh, và chẳng cần phải có trí tưởng tượng phong phú lắm cũng có thể hình dung ra cô đang lạnh lùng đứng dưới một cây cọ Ả rập trong khi vua Solomon hát ca ngợi cô.
“Cô đã đánh máy xong tài liệu của công đoàn chưa?” Akbar Muhammad hỏi khi cô đến chỗ chúng tôi.
“Tôi đã nói với ông rồi, nó ở trong phòng Paul ấy.” Cô bực bội bỏ chúng tôi ngồi đó và đi lên tầng trên, tôi có thể nghe thấy tiếng cô lục lọi khắp nơi. Mấy phút sau, cô trở xuống mang theo một xếp giấy mà Akbar đưa cho tôi xem. Tập giấy đưa ra những yêu cầu của ông ta đối với các công đoàn Philadelphia, nội dung cũng tương tự như bản yêu sách định gửi cho các nhà thờ nhưng theo nhận xét của tôi thì chính đáng hơn.
Trước tiên ông ta nêu lên những mánh khóe khéo léo đã được các công đoàn của người da trắng sử dụng để cấm người da đen học những nghề cơ bản có thể nuôi sống họ. Không người da đen nào có thể làm thợ nề, thợ điện, thợ xây, thợ lợp mái, thợ mộc, thợ kết cấu thép. “Nhưng tôi đã từng gặp thợ mộc da đen,” tôi phản đối. “Cứ đọc tiếp đi,” Akbar làu bàu.
Rồi ông ta trích điều lệ của các công đoàn khác nhau, dẫn ra những lời lẽ bay bổng từ các hiến pháp, bảo đảm rằng tất cả những người lương thiện đều được gia nhập công đoàn một cách công bằng, chỉ cần họ đã được học nghề, nắm được các kỹ năng cơ bản và nộp công đoàn phí. Tiếp theo ông ta dẫn ra con số công đoàn viên thực sự, sau mười lăm năm người da đen đấu tranh đòi công bằng.
Gaye Street
Thợ điện: 1143 thợ - 2 da đen. 43 thợ học nghề - 1 da đen
Petawley
Thợ nề: 219 thợ - 1 da đen. 9 thợ học nghề - 1 da đen
Nam Philadelphia
Thợ thép: 396 thợ - 2 da đen. 11 thợ học nghề - 0 da đen
Bay City
Thợ mộc: 1823 thợ - 4 da đen. 112 thợ học nghề - 6 da đen
Grimsby
Thợ lợp mái: 81 thợ - 0 da đen. 6 thợ học nghề - 0 da đen
Radford
Thợ xây: 366 thợ - 2 da đen. 16 thợ học nghề - 1 da đen
Danh sách còn rất dài, trong đó một công ty xây dựng lớn có hơn bốn nghìn công đoàn viên mà chỉ có bảy người da đen. Công đoàn này đào tạo hai trăm mười tám thợ học nghề, trong đó có ba người là da đen. Không ai có thể nhìn vào những con số quá cách biệt này mà không thấy sự áp bức đã được phong trào công đoàn xác nhận. Điều khiến những con số đó vô lý gấp đôi là tình trạng này đang diễn ra tại Philadelphia, nơi người da đen chiếm ít nhất năm mươi phần trăm dân lao động.
“Và không có dấu hiệu nào cho thấy tình hình sẽ được cải thiện,” Akbar lạnh lùng nói. “Ít nhất là cho đến khi chúng tôi đập cho công đoàn một cú tám triệu đô la, mà chúng tôi sẽ làm thế.”
“Rắc rối thực sự nằm ở đó,” Cato ngắt lời, và khi anh thể hiện tài ăn nói sắc sảo của