← Quay lại trang sách

Chương 10 PAMPLONA

Là người trẻ trung, đang yêu, được ở Pamplona, vào tháng Bảy, ấy chính là niềm hạnh phúc thần tiên.

Về mặt lý thuyết, các cuộc đấu bò ở Pamplona được tổ chức là để tôn vinh bò rừng. Chín cuộc đấu, mỗi cuộc sáu con, vị chi là 54 con. Năm vừa qua, trong số đó có 21 con không đủ cân nặng, 14 con bị cưa sừng, 6 con dữ quá phải cho uống thuốc an thần pha vào nước trong bãi quây, và 5 con to nhất bị kìm cho bớt hung hăng bằng cách thả những bao xi măng ba trăm pound từ trên độ cao bảy foot xuống lưng chúng.

Người khờ dại thì phiêu dạt, người khôn ngoan thì phiêu du.

• Thomas Fuller

Khi J. Edgar Hoover tuyên bố là không có công dân đứng đắn nào tin tưởng được những người để tóc và râu dài, Claude đã phát biểu với anh phóng viên thường trú của Associated Press, “Thế thì đúng là ông ta nói về Chúa Jesus và Ulysses S. Grand[85] rồi.”

Chớ để đến ngày mai việc bạn có thể làm được hôm nay, bởi vì nếu hôm nay bạn thích việc ấy, ngày mai bạn còn có thể làm lại được.

Hãy ngoan ngoãn chấp nhận đi, tôi nghĩ là tôi yêu em.

Ông già tôi quát tháo om sòm, “Mẹ kiếp, con phải tin vào năm mươi tám năm kinh nghiệm của cha chứ.” Nhưng thật ra những gì ông có chỉ là một năm kinh nghiệm lặp đi lặp lại năm mươi tám lần.

Hãy tỉ tê tâm sự với em rồi em sẽ theo anh đi bất cứ đâu.

Người đàn ông duy nhất gạ gẫm tôi suốt đêm là một lão già đã bước vào thời kim loại. Bạc trên tóc, vàng trên răng và chì trong mông đít.

Tuổi già khó tính và tuổi trẻ không thể sống chung được.

• Shakespeare

Lòng can đảm đích thực là cho dù không có người chứng kiến vẫn làm tất cả những việc mình có khả năng làm trước bàn dân thiên hạ.

• La Rochefoucauld

Dường như một quy luật bất di bất dịch của bản chất con người là mỗi thế hệ mới lại ăn mặc, nói năng, làm tình và nghe nhạc theo cách được tính toán kỹ càng nhất để chọc giận các bậc cao niên.

King Kong đã chết vì tội lỗi của chúng ta.

Chắc hẳn thánh Paul là một bậc hiền nhân hiểu rõ

Niềm khát khao, khát khao nửa vời ấy

Được thấy cả phía bên kia lối rẽ cuối cùng.

Khi Ulysses diễn thuyết trước Hội Phụ huynh và Thầy giáo Athens.

Và kể cho các phu nhân danh giá Hy Lạp nghe

Về những điều kỳ thú mình từng thấy, hết sức kỳ thú,

Các phu nhân bất bình, “Chàng trai, đúng là cậu vừa hút cần sa.”

Ta cảm thấy niềm khát khao, khát khao nửa vời ấy,

Muốn chơi cho lão Lewis B.[86] khả kính một vố thật đau

Và để trốn thoát, con tàu của ta sẽ dong buồm vượt qua các vì tinh tú

Cho đến khi gặp được Ulysses

Và chúng ta thẳng tiến ra ngoài eo biển.

Nếu bạn tìm cách tử vì đạo thì thánh Paul là bạn đường,

Ông biết cách và đã kết liễu cuộc đời trên đoạn đầu đài.

Nếu bạn muốn bị kỳ thị và cô lập,

Thì Ulysses là bạn đường. Ông đã trừng trị toàn bộ kẻ thù.

Nhưng nếu muốn tìm kiếm bản thân thì, em bé ơi, hãy theo ta,

Bởi vì ta thực sự lạc lõng, lạc lối, lạc loài,

Và chính trong lúc lẻ loi, chúng ta sẽ tìm được bản thân.

Một người rời bỏ gia đình để sửa đổi bản thân và người khác là một triết gia; nhưng nếu ông ta đi hết nước này sang nước khác do bị tính hiếu kỳ mù quáng thôi thúc thì đó chỉ là kẻ lang thang.

• Oliver Goldsmith

Một nước lớn không thể tiến hành một cuộc chiến tranh nhỏ.

• Công tước Wellington

Miền Nam Florida đầy rẫy những người sáu mươi tám tuổi suốt đời lúc nào cũng chuẩn bị làm một việc lớn lao nhưng cứ chờ mãi cho đến khi việc đó an toàn. Bây giờ thì an toàn rồi và họ đã sáu mươi tám tuổi.

Thế giới này không có người lãnh đạo. Hãy làm con người bình thường bên trái bạn thay đổi quan điểm.

—★—

Ở phía Bắc Tây Ban Nha, nơi nhiều ngả đường quy tụ, có một cây cầu La Mã lâu đời với vẻ đẹp phi thường được đặt tên, vì những lý do lịch sử không ai nhớ nổi, là Puenta La Reina - cầu Nữ hoàng, chứ không phải Cầu của Nữ hoàng như một số người sẽ dịch.

Khi Harvey Holt và tôi đến địa điểm đó vào lúc chiều tà ngày mồng năm tháng Bảy trong chuyến đi từ Madrid lên phía Bắc, chúng tôi cảm thấy niềm phấn chấn trào dâng mặc dù trước đó chúng tôi đã du lịch cùng nhau tới mười một lần. Holt nhìn đồng hồ tốc độ và hài lòng nói, “Chỉ còn đúng sáu dặm nữa thôi,” rồi chúng tôi hướng về phía những quả đồi thấp nằm bên kia sông.

Hết sáu dặm ấy, chúng tôi vẫn chưa vào được thành phố Pamplona mà đến đỉnh một ngọn đèo cho phép nhìn bao quát xuống cả một quang cảnh bao la trước mắt. Nó được đặt tên là Puerto del Perdón. Đèo Xá tội, và buổi chiều hôm ấy, khi chúng tôi đến đó, Holt dừng xe lại như anh vẫn thường làm hàng năm, và chúng tôi bước ra để được ngắm thêm lần nữa một quang cảnh khiến chúng tôi xúc động ngay lúc ấy cũng như hồi chúng tôi được nhìn thấy lần đầu.

Trên dãy đồi thấp trước mắt có một cụm tháp vuông màu nâu đỏ tồn tại từ thời La Mã khi khu vực trung tâm này bị chiến tranh tàn phá. Những tòa tháp này đều đẹp đẽ uy nghi, ngày nay không còn được sử dụng mấy nữa, nhưng chúng góp phần làm cho phong cảnh thêm nổi bật, thậm chí là độc đáo, vì dường như chúng sắp xếp mọi vật vào đúng vị trí, như thể muốn tuyên bố, “Chúng tôi là những linh vật hộ vệ mà xã hội văn minh tập hợp xung quanh.”

Vượt qua cụm tháp tám dặm nữa, đến rìa dãy núi Pyrenees, chúng tôi có thể thấy những chóp nhọn trắng phau của thành phố Pamplona nép mình dưới bầu trời đã chuyển thành màu xanh thẫm vì hoàng hôn đang buông. Chắc hẳn Charlemagne có cảm giác tương tự khi ngó xuống Pamplona trên đường quay về Pháp sau khi chiến đấu với quân Moor. Ignatius Loyola cũng đã đứng tại địa điểm đó trong những ngày trước cải đạo, khi còn là một kẻ hung hăng chuyên gây lộn từ một ngôi làng miền Tây đi đến nơi này tìm vận may. Và cũng chính từ chỗ này Ernest Hemingway đã chiêm ngưỡng thành phố trong những ngày đầy ý nghĩa khi ông đang thai nghén tác phẩm quan trọng đầu tiên của mình.

Chiều hôm đó, chúng tôi đã thấy một Pamplona hẻo lánh, thanh bình, và thật khó tin là trong chín ngày sắp tới nơi ấy sẽ là trung tâm náo nhiệt của thế giới.

Gần trung tâm Pamplona có một tòa thị chính lâu đời, và cứ đến ngày mồng năm tháng Bảy hàng năm trông nó lại có vẻ bị vây hãm, tưởng như quân Visigoth từ dãy Pyrenees sắp ầm ầm kéo xuống, vì toàn bộ tủ kính cửa hàng trong khu vực đều bịt ván kín mít, bốn cảnh sát được tăng cường ở những nơi bình thường chỉ cần một người canh gác, các cửa hiệu bình chân như vại thì được khóa móc với lời chú giải mà mọi người dân thành phố đều hiểu: Cửa hiệu đóng cửa trong chín ngày.

Chúng tôi vừa tới Pamplona, Holt liền đi thẳng đến tòa thị chính xem tấm biển gắn vào tường: Độ cao trên mực nước biển tại Santander: 443,80 mét. Như mọi đại diện kỹ thuật khác, Holt tính theo mét chứ không theo foot, và anh thường lấy làm lạ không hiểu sao Hoa Kỳ chưa chuyển sang hệ thống hợp lý này: Độ cao so với mực nước biển, trên 1.450 foot, lý giải tại sao trời sẽ rất lạnh trong thời gian lễ hội San Fermín: “Tôi luôn cười nhạo những người Mỹ cho rằng vì Pamplona ở Tây Ban Nha cho nên chắc chắn phải nóng bức. Họ quên mất thành phố này còn nằm trên núi nữa.”

Đằng sau tòa thị chính là một quảng trường nhỏ bẩn thỉu, một phía dẫn tới chợ, phía kia tiếp giáp một trong những nhà thờ lạ mắt nhất châu Âu. Nó có tên Iglesia de Santo Domingo và chắc hẳn nó phải rất cổ kính vì mặt sàn gian giữa giáo đường nằm thấp thua mặt đường hiện tại bốn mét rưỡi, vốn được gạch vụn của chiến tranh và rác rưởi hàng ngày đắp cao dần lên qua bao thế kỷ. Mặt tiền nhà thờ là một thứ rất đáng xem vì nó đã bị xây gạch bít kín đến mức trông giống như một tòa chung cư với hàng lan can giả, cửa sổ giả, quả cầu cẩm thạch giả và một tháp chuông được làm giả rất tài tình.

Thực ra, nếu chỉ nhìn từ xa, một du khách không được cho biết trước sẽ hoàn toàn không thể phát hiện nổi một ngôi nhà thờ tọa lạc ở đó, bị mặt tiền chướng mất và các tòa nhà lấn chiếm che mất dạng. Không có bất cứ phần nào của gian giữa và nơi cầu nguyện lộ ra trước mắt mọi người; hàng bao thế kỷ trước chúng đã bị các hiệu buôn bán nhỏ và nhà cửa phong tỏa. Santo Domingo là một di tích bị các nhu cầu của cuộc sống áp đảo.

Holt và tôi đi về phía một tòa nhà trông khác thường đến nỗi làm cả chái phía Tây nhà thờ bị mờ nhạt hẳn. Nó được đặt tên là Bar Vasca, một sự sắp xếp phá cách các phòng thành năm tầng, mỗi tầng được xây thêm vào một thời đại khác nhau. Trông ra phố Santo Domingo chạy dài từ ngôi nhà thờ bị che khuất lên đến tòa thị chính, tầng trệt được bố trí làm một quán bar tối tăm, trần thấp mà trong chín ngày tới sẽ là trung tâm cuộc sống của chúng tôi.

Quanh bốn bức tường, trên những bệ cao cách mặt sàn gần hai mét rưỡi là hai mươi tư thùng rượu vang sherry, rượu đồ bình dân, rượu trắng hảo hạng, rượu vang hồng pha chế kém chất lượng và cognac nồng độ cao. Thùng nào thùng nấy đều đã thẫm lại theo thời gian, đai đồng sáng lấp lánh trên gỗ bóng loáng. Dưới những thùng rượu to đùng ấy là một dãy hốc tường ấm cúng nơi khách có thể ngồi tránh cảnh ồn ào náo nhiệt thường trực ở khu vực giữa quán, và trong những góc nhỏ khuất nào đó treo vô số tấm gốm tổng kết trí tuệ miền quê Tây Ban Nha:

“Nếu rượu gây trở ngại cho công việc, hãy từ bỏ công việc.”

“Một đêm uống rượu đã đời bằng cả một năm ngẫm sự đời.”

“Điều tệ hại nhất trên thế giới là một bạn nhậu có trí nhớ.”

“Muốn uống để quên sầu, xin trả tiền trước khi bắt đầu.”

“Đối với một ông già, ngay cả rượu vang quá hạn cũng giống như sữa mẹ.”

“Người nào ăn ngon tại bàn này và uống say tại quán này, sẽ chết vì một căn bệnh khủng khiếp: tuổi già.”

Hàng năm, cứ gần đến lễ hội là Bar Vasca lại bắt đầu chật ních những kẻ thành tích bất hảo từ khắp châu Âu. Họ là những người Thụy Điển tìm được niềm vui lớn lao trong nắng ấm và bò rừng, những người Đức táo bạo chạy ngay trước sừng bò, những sinh viên Mỹ từng đọc về Pamplona trong giờ Anh văn hồi năm thứ hai, cả một nhóm thợ đốn gỗ xứ Basque cao to lực lưỡng.

Holt và tôi quay lại quán trọ này suốt mười một năm qua, và chúng tôi đến một phần vì âm nhạc ở đó - được chơi bằng những nhạc khí lạ như kèn ô boa dân tộc và sáo txistula - phần nữa để nối lại quan hệ với người đàn bà mà tên được lấy đặt cho quán, Raquel La Vasca: người xứ Basque.

Bà là một phụ nữ to béo, người bạn đời thích hợp của thợ đốn gỗ, và khả năng ăn uống thì thật ghê gớm. Buổi tối hôm đó, chúng tôi tới Plaza de Santo Domingo, Holt đỗ xe, lấy túi xách và máy ghi âm ra, đi phăng phăng qua con đường rải đá cuội, đến cửa quán và cất tiếng gọi, “Raqueir!” Bà chạy từ sau quầy rượu ra đón chúng tôi, hai cánh tay khỏe mạnh nhấc bổng Holt lên và hôn vào cả hai má anh. Bà tầm sáu mươi tuổi, chúng tôi đoán như vậy, nhưng vẫn nhanh nhẹn như bao năm trước, hồi ông chồng người Pamplona tậu quán này. Hai vợ chồng đã cùng làm cho quán trở thành chốn đại dương, tụ điểm của tất cả những người thực sự say mê lễ hội.

“Thức ăn đã xong chưa?” Holt hỏi, hiếm khi tôi thấy anh để lộ vẻ hứng thú rõ ràng như vậy.

“Năm nay cậu làm việc ở đâu, chú hổ con?” người đàn bà phốp pháp hỏi.

“Afghanistan.”

Raquel ngây người nhìn anh, chẳng hiểu gì về từ này. Rồi bà vỗ tay đánh đét vui mừng được gặp lại bạn cũ và gọi các cô phục vụ bưng đồ ăn lên.

Món ăn ở Bar Vasca đáng ra phải dùng xẻng mà xúc, nhưng được cái ngon. Holt ăn ngày ba bữa giống hệt nhau. Anh nhét khăn ăn vào cổ áo chuẩn bị thưởng thức mòn ăn anh thích hơn hẳn mọi món khác. “Đồ ăn cho chú hổ con đây rồi,” bà Raquel nói vẻ cổ vũ trong lúc giúp cô phục vụ bưng một liễn to đến bàn chúng tôi. Trong liễn có đậu trắng chắc hạt nấu lẫn với thịt bắp và một vài dược thảo nào đó làm cho món vừa thơm vừa bùi như quả hạch. Theo thường lệ, khi dọn món pochas cô phục vụ cứ múc liên tục từng muôi lớn vào đĩa cho đến khi khách nói, “Basta!” - Đủ rồi! Bà Raquel tự tay phục vụ món đặc sắc của mình một cách khoa trương, và Holt chỉ mỉm cười chờ cho đến khi đĩa đầy tú ụ. Cuối cùng, anh hô, “Bastar,” và bữa ăn bắt đầu.

Cùng với pochas, anh còn dùng món salad tươi chế biến từ rau xanh hồi đó đang vào thị trường miền Bắc Tây Ban Nha và một suất nhỏ bò hầm nhừ, mà nếu có thể, sẽ được nấu từ thịt những con bò bị loại ở trường đấu hôm trước. Đồ tráng miệng là bánh vani; đồ uống là một thứ rượu vang đỏ khá nặng mà bà Raquel mua ở một nông trại vùng Rioja tận miền Tây.

Tôi đã đến cái tuổi khó tiêu hóa nổi món đậu trắng nấu với bắp bò, vì vậy đành bằng lòng với salad tươi và bò hầm, và suốt mấy ngày hội tôi cứ ngày hai bữa ăn độc có thực đơn này. Đồ ăn chắc dạ chế biến sơ sơ của miền Bắc ấy cũng ngon như những món tôi đã được thưởng thức ở bất cứ nơi nào trên thế giới, và có Raquel ngồi cùng bàn, chia sẻ mọi lời đồn đại của năm vừa qua, trong khi hai anh thợ đốn gỗ hát hò trong góc quán là một kỷ niệm mà tôi luôn nâng niu. Như trước đây tôi đã nói, quán này là thánh đường đối với Holt.

Lúc này Raquel gọi với ra từ sau quầy rượu, “Senor Fairbanks, mấy los jóvenes ông giới thiệu đã đến đây từ đầu buổi chiều. Họ đang ở trên gác.”

“Tôi có giới thiệu ai đâu.”

“Họ bảo ông giới thiệu. Họ từ Algarve đến.”

“Ôi, thế thì tuyệt quá!” Tôi rất mừng nghĩ đến việc được gặp lại bạn bè, mừng vì họ đã nhớ được Bar Vasca. Tôi dợm bước lên cầu thang chào họ, nhưng người phụ nữ phốp pháp đã gọi, “Ông ăn xong đi. Này, Manolo. Gọi mấy thanh niên Mỹ xuống đây,” và ngay sau đó là tiếng huyên thuyên ồn ào trên cầu thang khi sáu bạn trẻ ào xuống chào tôi.

“Chú không trông thấy xe của chúng cháu sao?” Monica vừa kêu lên vừa nghiêng người qua bàn để hôn tôi. Họ chỉ ra cửa sổ, đúng thật là ngoài quảng trường, không xa nơi chúng tôi đỗ xe, là chiếc pop-top màu vàng.

“Chúng cháu đã chán cảnh ngủ nghê tù túng rồi nên quyết định ăn ở cho ra trò,” Gretchen giải thích, và tôi đoán cô là người chi tiền phòng.

“Tôi muốn các bạn gặp anh bạn lâu năm của tôi,” tôi nói. “Anh ấy biết Pamplona rõ hơn bất kỳ người nào các bạn sẽ gặp - Harvey Holt, từ Afghanistan.”

Họ tiến lại tự giới thiệu và bắt tay Holt, tôi có thể thấy anh bối rối trước sự có mặt của Cato. Anh không hỏi thành tiếng, “Anh cùng đi với nhóm này ư?” nhưng có lẽ anh đang băn khoăn như thế.

“Ông có đến Pamplona thường xuyên không?” Monica hỏi thăm.

“Đây là năm thứ mười bảy.”

“Hết xảy!”

Holt nhìn cô gái Anh như định đề nghị cô giải nghĩa, nhưng anh chưa kịp mở miệng, các bạn khác đã hỏi dồn dập hết câu này câu khác, vậy là anh hết xúc thịt bò hầm đầy miệng lại giải thích về Pamplona.

Sau bữa ăn, các bạn trẻ tình nguyện đưa chúng tôi lên phòng, và Cato xách túi cho Holt, trong khi Joe vớ lấy đồ của tôi. Họ dẫn chúng tôi lên tầng ba, nơi chúng tôi đã trọ nhiều năm, đạp cửa phòng cho chúng tôi vào. Nơi đây có những phòng ngủ nhỏ mờ tối đã thành thân thuộc với chúng tôi, những ban công chúng tôi có thể xem đàn bò chạy, phòng vệ sinh tồi tàn cuối hành lang, phòng tắm dơ dáy không bao giờ có nước nóng, mùi thuốc diệt rệp không thể nào quên, tiếng ồn văng vẳng từ quảng trường, nơi ai đó đang so dây guitar.

“Chúng cháu cũng ở tầng này,” Gretchen nói và dẫn chúng tôi tới một phòng còn nhỏ hơn phòng của chúng tôi, trong đó Britta và cô đã cất đồ của mình. Ngay cạnh là một phòng không cửa sổ dành cho Yigal và Joe. Còn phòng thứ ba cực kỳ nhỏ là để cho Cato và Monica. Hành lý của họ đã ở trên giường và có thể thấy rõ là họ sống chung. Việc này được xác nhận khi Monica nói, “Cato và cháu sử dụng phòng này.”

Khi chỉ còn Holt và tôi trong phòng trọ, anh thì thầm hỏi, “Có phải ý cô ấy là cô ấy và cậu da đen ngủ chung không?”

“Họ đã như vậy mấy tháng rồi,” tôi đáp.

“Tôi nghĩ chắc mẹ cô ấy đau lòng lắm,” Holt nói với cảm xúc mãnh liệt.

“Mẹ cô ấy qua đời rồi.”

“Chắc bà ấy phải trở mình trong mồ mất.”

Những năm gần đây, Holt và tôi duy trì một nghi thức bày tỏ lòng quý mến mà với chúng tôi đã trở thành một phần của Pamplona như chính những lần nghỉ chân tại Puerto del Perdón và món pochas ở Bar Vasca, vì vậy chúng tôi hỏi các bạn trẻ xem họ có muốn tham gia không.

Chúng tôi cuốc bộ đến quảng trường có bãi đấu bò, mua một chiếc khăn tay đỏ rõ to rồi trịnh trọng đi đến bệ đá granit đặt bức tượng Ernest Hemingway bằng đồng rất đẹp, có râu và mặc áo cổ lọ. Tôi đan tay làm điểm tựa để Holt leo lên cổ bức tượng buộc chiếc khăn đỏ của Pamplona. Anh nhảy xuống, chúng tôi thảy đều vỗ tay hoan hô vì lúc này trông Don Ernesto hết sức hòa hợp với quang cảnh xung quanh. Không ai nghĩ ra được điều gì thích hợp để phát biểu, vì vậy chúng tôi quay lại quảng trường trung tâm tìm chỗ ngồi trong BarTxoco, ở đó các khách quen đến từ khắp châu Âu tíu tít chào hỏi Holt và bình luận về những lần hội trước.

Một cô gái Đức cầm bộ bưu ảnh nổi tiếng đến xin Holt chữ ký, Joe hỏi, “Ảnh gì đấy?” Cô gái Đức hỏi lại bằng tiếng Anh nghe rất hân hoan, “Anh ngồi cùng người này mà không biết ông ấy là ai ư?” Cô xòe bộ ảnh trước mắt các bạn trẻ của tôi, và tôi thích thú nhìn họ há hốc miệng xem cuộc đua bò buổi sáng năm 1953 đó.

“Ông làm việc này thật sao?” Yigal hỏi. Holt gật đầu, và chàng trai liền nói, “Chắc ông mất trí rồi.”

Monica chỉ tấm Holt ngã lộn đầu xuống đùa, “Nhìn cũng thấy là sau việc này thì ông ấy làm gì còn trí nữa.”

Britta bị mê hoặc bởi tấm ảnh chiếc sừng bò cắm vào ngực Holt, nên cô hỏi, “Cái sừng có đâm vào thật không? Có ngập sâu như trong ảnh không?”

Holt tỏ rõ vẻ không định trả lời, vì vậy tôi đáp thay là có và nắm tay Britta đặt vào ngực áo anh để cô sờ được đường lằn mà vết thương để lại. Cô giữ im tay ở đó một lúc, nhìn đăm đăm khuôn mặt cương nghị của Holt, rồi nói, “Chắc hẳn ông đã gần kề cái chết.”

“Thực ra,” Holt khẽ nói, “sừng bò không bao giờ cắm sâu được cả chục phân vào những cơ quan trọng yếu. Giống như vết sẹo do kiếm trong trận đấu tay đôi kiểu Đức. Trông đáng sợ, nhưng không nguy hiểm.”

Gretchen nhận thấy sự tương đồng với những tranh chấp ý kiến trong trường đại học bèn hỏi, “Có phải những người như ông bị áp lực xã hội thúc bách phải chạy với lũ bò?”

Holt nhìn cô chằm chằm. “Ý cô là gì, những người như tôi?”

“Ôi,” cô chỉ đám người dày đặc trong ảnh, “có rất nhiều người làm việc này cùng ông. Ý tôi là...”

“Thưa tiểu thư” - đây là một từ tỏ ý coi thường mà Holt dành cho những trường hợp thế này - “có vài nghìn người trên đường phố ấy và chắc chắn ai cũng có lý do chính đáng để có mặt. Còn tôi, tôi có mặt ở đó vì tôi thích.”

“Ý cô ấy là,” Cato xen vào, “điều gì đó làm ông bức xúc và ông cảm thấy buộc phải xuống phố để mà làm những việc như vậy.”

Holt nhìn hết người này đến người kia rồi nói, “Bọn trẻ ranh các cậu có thể bị áp lực của xã hội dồn ép. Tôi chỉ ham vui. Tôi làm quần quật mười một tháng mỗi năm và đến tháng thứ mười hai tôi đến Pamplona vui chơi. Các cậu biết đấy, đến Chúa cũng chỉ làm việc có sáu ngày, đến ngày thứ bảy ông ấy vui chơi.”

“Ông gọi thế này là vui chơi sao?” Yigal hỏi, chỉ tắm ảnh Holt đang lộn đầu xuống đất trong khi máu phọt ra nơi ngực.

Người đại diện kỹ thuật chưa kịp trả lời, cô gái Đức đã thu bộ ảnh và nói, “Các bạn phức tạp hóa quá rồi. Nhìn vẻ mặt ông ấy trong bức ảnh thứ hai các bạn không thấy ông ấy đang trải qua khoảnh khắc sung sướng sao?” Cô nghiêng người qua bàn hôn lên má Holt. “Ông ấy là người dũng cảm nhất, mấy ngày tới nếu để ý quan sát ông ấy, các bạn sẽ thấy thế nào là người đàn ông đích thực... tất cả các bạn.”

Ý kiến này chưa khiến Gretchen hài lòng. “Ông Holt, ý ông là trong chừng mực ông hiểu, ông không bị dồn ép bởi bất cứ thôi thúc mãnh liệt thầm kín nào? Bất cứ cảm giác hẫng hụt nào?”

Holt lắc đầu hỏi lại, “Thưa tiểu thư, tiểu thư có đến Pamplona đây vì một cảm giác hẫng hụt thầm kín nào không?”

“Có.”

Lời đáp khiến anh giật mình lúng túng mất một lúc rồi mới nói, “Cô thật khéo chọn chỗ để giải quyết cảm giác ấy nhỉ?” Anh đứng lên nhưng Gretchen đã túm tay kéo anh ngồi trở xuống ghế, “Ông Holt, chuyện này hoàn toàn mới mẻ đối với chúng tôi và chúng tôi đang cố gắng tìm hiểu. Ông làm ơn đi.”

“Được thôi. Nếu các cậu muốn hiểu Pamplona, sáng ngày mồng bảy xin mời dậy sớm, ra ngoài ban công, nghe tiếng ồn ào, chờ pháo thăng thiên nổ ở cuối phố rồi theo dõi sáu con bò đực và mười con bò thiến phi qua nhanh đến nỗi khó mà nhìn cho rõ. Chẳng có gì xảy ra cả, rồi khi mọi việc xong xuôi các bạn sẽ quay lại nhìn nhau nói, ‘Có gì to tát đâu?’ Và một người nào đó trong số các bạn, có lẽ là cô gái dễ thương này” - anh đặt tay lên tay Britta, rồi vội bỏ ra - “có lẽ trong tích tắc đàn bò lao qua, cô ấy sẽ thoáng nhìn thấy nét mặt một người - một người đàn ông trong trạng thái hoảng sợ đến kinh hồn bạt vía đang chạy chừng chục phân phía trước một con bò không hề có ý định động đến anh ta - và trong tất cả các bạn, cô ấy sẽ là người hiểu lờ mờ việc gì vừa xảy ra.”

Đối với Holt, nói như vậy là quá dài, nhưng anh quan tâm sâu sắc đến chủ đề này, nên sau hồi lâu ngừng anh nói tiếp, “Tất nhiên, nếu tình cờ đó lại là ngày một con bò nào đó điên lên húc vào một người ngay dưới ban công của các bạn, các bạn sẽ hiểu rõ hơn vô khối.”

Yigal tiến lên hỏi, “Nhưng ông làm việc này như một cách bù đắp điều gì đó, phải không?”

Tôi nhận thấy Holt không có cảm tình với Yigal, chắc hẳn anh liệt Yigal vào hạng Do Thái làm ra vẻ ta đây khôn ngoan hơn người, nên lúc này anh quay sang đối diện cậu thanh niên chắc nịch, “Này anh bạn trẻ, tôi không biết điều gì đang gặm nhấm anh - nhìn vẻ mặt lo phiền của anh thì tôi thấy là nhiều đấy - nhưng mọi vấn đề của tôi đều ổn thỏa. Còn bây giờ, tôi xin phép...”

Song anh không thoát được dễ dàng như vậy, vì Britta đã hỏi, “Ông nói ông làm việc mười một tháng một năm. Vậy ông làm việc gì?”

Holt đã đứng lên, nhưng khi nhìn xuống khuôn mặt Scandinavia dễ thương, anh có thể thấy chủ nhân của nó không tìm cách hỏi vặn anh. Cô gái thật sự muốn biết, anh đành ngồi xuống trả lời, “Tôi làm việc ở những nơi cô chưa bao giờ nghe đến... Kemajoran, Don Muang, Mingaladon, Dum-Dum... cứ hai năm chuyển chỗ một lần.”

“Vậy khi lễ hội Pamplona kết thúc... thì ở đâu?”

“Lại một nơi khác mà cô chưa bao giờ nghe nói. Chúng tôi bắt đầu lắp đặt Big Rally II ở Ratmalana... và tôi sẽ ở đó hai hay ba năm... sau đó lại một nơi nào đấy mà cô sẽ không biết ở đâu mà tìm.”

“Ông làm gì?”

“Tôi vừa nói rồi. Lắp đặt các Big Rally.”

“Trung tâm thông tin liên lạc cho sân bay,” tôi giải thích.

“Chắc là thú vị lắm,” Britta nói, “đi đây đi đó như vậy.” Cô ngừng lời như đang tận hưởng niềm vui sống, rồi lại chợt hăng hái hỏi, “Ông cho em biết, những nơi ấy có nắng không?”

“Chắc chắn là có nắng rồi.”

“Ý em là những nơi ấy có nóng không?”

Anh nhìn tôi bật cười. “Thưa tiểu thư bé bỏng,” - lần này đó không phải là từ có ý coi thường - “nếu tiểu thư coi ba mươi tám độ bách phân hết tuần này sang tuần khác là nóng, thì những nơi tôi làm việc quả có nóng.”

“Vậy thì nhiệt độ thực sự là bao nhiêu?” Cato thắc mắc.

Câu hỏi làm Holt bực mình và anh trả lời bằng cách nhún vai như muốn nói thời nay bất cứ người nào hiểu biết cũng dùng thang nhiệt độ bách phân. “Khoảng 100 độ F,” tôi nhắc riêng cho Cato nghe. Anh huýt sáo, “Thế thì nóng thật.”

Từ đầu đến giờ, Joe không nói câu nào. Lúc này anh mới nhoài người qua bàn làm một cử chỉ khác thường. Anh từ từ cởi khuy áo Holt cho đến khi vét sẹo lộ hẳn ra. Mắt nhìn chăm chăm vào vết sẹo, anh nói, “Ông đã ở đó.”

Britta, đang ngồi cạnh Holt, bèn quay người sang để nhìn cho rõ hai bên mép sần sùi của vết thương. Cô chỉ nhìn mà không nói tiếng nào, Monica thì lướt ngón tay dọc theo một bên mép vết sẹo, rồi đứng lên cúi chào. “Ông làm tôi kính phục,” cô nói.

Kinh ngạc vì cử chỉ thân mật tùy tiện đó, Holt cài lại khuy áo rồi nói, “Nếu các bạn thực sự quan tâm thì còn một vết hay ho ở mông trái đấy.” Anh đã bắt đầu tháo thắt lưng, nhưng Gretchen can, “Chúng tôi tin ông mà.” Britta quay sang tôi hỏi, “Có thật không?”

“Ba vết nữa,” tôi nói.

Britta nhìn thẳng vào mắt Holt nói, “Bây giờ chúng em đã thấy, ông hãy cho chúng em biết tại sao ông lại làm vậy.”

Holt cũng nhìn lại nói, “Bây giờ tôi cũng đã gặp các bạn rồi - ông Fairbanks từng kể với tôi về các bạn - hãy cho tôi biết tại sao các bạn lại làm vậy.”

“Làm gì?” Britta hỏi.

“Bỏ nhà ra đi... lang thang khắp châu Âu... hút cần sa... ngủ chung.” Nói đến ý cuối cùng, anh chằm chằm nhìn Monica.

“Đơn giản thôi,” Monica đáp. “Chúng tôi làm vậy vì cuộc sống ở nhà buồn tẻ hết chỗ nói.”

“Thế còn anh?” Holt hỏi Yigal.

“Tôi có nói, ông cũng không tin,” chàng trai Do Thái đáp.

“Chắc chắn tôi sẽ không tin.” Anh đưa mắt nhìn Joe chằm chằm, nhưng Joe phớt lờ, vì vậy Holt quay sang Gretchen, “Trông cô có vẻ hiểu biết.”

“Vì cảnh sát và con người,” Gretchen nói. “Cảnh sát ở Patrick Henry. Những người trong chính gia đình tôi.”

“Cô ấy muốn nói gì?” Holt hỏi tôi.

“Cảnh sát đã khiến cô ấy khốn khổ.”

“Có khi cô ấy đáng bị thế.”

“Còn con người,” Gretchen nói giọng đều đều, “là những kẻ ngớ ngẩn trong chính gia đình tôi.”

Holt đỏ bừng mặt, như thể cô đã chê trách cá nhân anh. “Một cô gái xinh đẹp, có giáo dục như cô không nên nói về cha mẹ như vậy,” anh nhắc nhỏ.

Cato không chờ đến lượt mình được hỏi. “Tôi đến đây, ông Holt, vì những người như ông ở Philadelphia buộc tôi đến đây.”

Holt gật đầu, không có ý kiến gì, rồi nhìn sang Britta, cô nói, “Em là kẻ đã thật sự trốn chạy. Em trốn chạy bóng tối... giá rét... cảnh đẹp ở miền bắc Na Uy.”

“Ngay lúc này ở đây cũng tương đối giá rét đấy chứ,” anh tiếp lời, nhận thấy Britta ăn mặc khá phong phanh.

“Nhưng ban ngày lại có mặt trời. Và chỉ cần mỗi ngày người ta có thể nhìn thấy ánh mặt trời một lát, mọi việc khác đều đáng được bỏ qua.” Giọng nói du dương với âm sắc Na Uy dễ thương của cô nghe thật hợp với Pamplona, Holt mỉm cười. Anh lại quay về phía Joe nói, “Anh vẫn chưa trả lời.”

“Tôi ở đây để tránh lệnh nhập ngũ,” Joe nói, bàn tay phải vuốt vuốt chòm râu.

Holt cứng người, nhìn chàng trai trừng trừng, đằng hắng hai tiếng rồi nói, “Tôi nghe có chính xác không? Anh đang ở tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự?”

“Vâng.”

“Và người ta đã gọi anh?”

“Vâng.”

“Và anh bỏ trốn?”

“Vâng.”

Holt đứng dậy, lùi khỏi bàn ba bước rồi quay lại nói với vẻ dứt khoát,

“Tôi không uống rượu với kẻ trốn lính. Ông Fairbanks, ông muốn uống thì uống, nhưng tôi sẽ bị trời đánh nếu làm vậy,” đoạn anh hiên ngang bước qua quảng trường chính.

Vài giờ sau, khi tôi đưa những người khác đi đường tắt về Bar Vasca và leo lên tầng ba, chúng tôi thấy trên cửa phòng Holt đã được đính phiên bản Pamplona tấm biển chỉ dẫn truyền thống:

Hiện tại bạn đang ở

PAMPLONA, TÂY BAN NHA

42° 48’ Bắc 1° 37’ Tây

Nếu bay dọc đường vĩ tuyến này theo hướng Đông, bạn sẽ nhìn xuống Orvieto, Sofia, Tashkent, Sapporo, Milwaukee, Detroit, Santiago de Compostela, Vitoria, Pamplona.

Nếu bay dọc đường kinh tuyến này theo hướng Bắc, bạn sẽ nhìn xuống Cherbourg, Leeds, Shetlands, Bắc Cực, Wrangel, Suva, Gisbourne, Nam Cực, Kumasi, Ouagadougou, Tlemcen, Calatayud, Pamplona.

Chúng tôi đọc tấm biển với mức độ thích thú khác nhau, ngạc nhiên trước thực tế Pamplona nằm xa biết bao trên phía Bắc, và gần đường kinh tuyến London biết bao. Tôi rời khỏi đó rồi, Britta vẫn nán lại, ngón tay dò theo từng vị trí, cố hình dung chúng trong những vùng khí hậu khác nhau.

Về một số phương diện, mồng 6 tháng Bảy là ngày dễ chịu nhất kỳ San Fermín. Không có các trận đấu bò, và vì thế cũng không có đàn bò chạy rầm rập, nhưng chúng tôi vẫn ăn sáng cùng nhau và trong khi Holt ăn pochas, những người còn lại đều uống một chút sô cô la hơi đặc bà Raquel pha, rất đắng nhưng đồng thời rất thơm. Sau khi nhấp ngụm đầu tiên thứ đồ uống đắng chết đi được ấy, khách quen thường nâng cốc hô, “Gan mật ơi, trôi tuột xuống đi,” nhưng nếu uống kèm bánh sừng bò nóng thì cũng không đến nỗi nào.

Buổi trưa, chúng tôi đến tòa thị chính, nơi một đám đông khủng khiếp đã tập hợp để nghe ông thị trưởng Pamplona khai mạc lễ hội bằng một tiếng hô “Viva San Fermín!” - đồng thời bắn một quả pháo thăng thiên dường như làm rách toạc cả mái tòa nhà chính quyền. Ngay khi tiếng pháo tắt hẳn, vẻ huy hoàng đích thực của San Fermín mới bắt đầu. Người ta bảo ở Pamplona không có âm nhạc; chính thành phố là âm nhạc, và lúc này Holt và tôi có cơ hội được nghe lại những âm thanh vẫn đọng lại trong tâm trí chúng tôi suốt mười một tháng qua.

Gây ấn tượng mạnh mẽ nhất là các nhóm nhạc - một cuộc hòa tấu hùng tráng và lảnh lót nổi lên quanh những cái trống to nhất và âm vang nhất mà người ta có thể mang vác. Tôi không biết thợ làm trống ở Pamplona có bí quyết gì khiến chúng có được năng lượng đó, mà hình như chúng còn vang hơn cả tiếng trống vang xa nhất, suốt mấy ngày sau đó, gần như lúc nào tôi cũng nghe tiếng chúng rộn ràng ở một nơi nào đó trong thành phố.

Các txistulari là những người thổi sáo có người đánh trống riêng. Họ chơi thứ nhạc chói tai mà dân Pamplona rất thích, và họ được chính quyền thành phố thuê đi lòng vòng khắp các phố phục vụ vũ hội dân gian. Họ đi đến đâu, nam nữ thanh niên theo đến đó.

Tiếp theo là một loại hình âm nhạc mà không người lạ nào ngờ rằng mình sẽ được nghe, nhưng mỗi khi nghĩ tới San Fermín họ sẽ nhớ đến nó như một trong những sự kiện quan trọng bậc nhất của lễ hội - những người thổi kèn túi vốn từ các huyện miền núi xuống, đeo túi da dê dưới cánh tay trái và thổi những giai điệu sầu bi cho đến khi tiếng nhạc ai oán vang lên khắp các con phố họ đi qua.

Những nghệ sĩ accordion theo sau đã mang đến sự say mê cho mọi người, một số sử dụng đàn nhỏ hình bát giác âm thanh lanh lảnh, một số khác chơi loại to hơn, du dương hơn thường thấy ở Ý. Họ chơi những điệu nhạc rất hay, và họ xuất hiện ở đâu là ở đó có người khiêu vũ.

Sau cùng xuất hiện loại nhạc khí kỳ lạ mà tôi cho là đáng chú ý nhất Pamplona ngay từ ngày đầu tiên tôi nghe tiếng nó vẳng đến từ một ngõ nhỏ gần chợ, nơi người ta bán tỏi buộc thành xâu. Cho đến bây giờ, dù ở bất cứ đâu, chỉ cần nhắm mắt lại và thì thầm cái tên Pamplona, tôi vẫn nghe thấy tiếng kèn ấy. Đó là tiếng ô boa miền quê, tổ tiên xa xưa của loại nhạc cụ có lưỡi gà mà ngày nay chúng ta thường thấy, chơi thành đôi, được đệm bởi một người vừa gõ trống vừa đánh cặp chũm chọe nhỏ xíu. Âm nhạc mộc mạc ám ảnh, những bài hát nói về thời Trung cổ và các trận đấu trên lưng ngựa; chúng có phần bị lấn át giữa đám đông chen chúc ngày hôm ấy, nhưng những ngày sau, khi tập trung lại tại các phố nhỏ vắng vẻ, kèm thêm đoàn vũ công, chúng sẽ gây ấn tượng không thể nào quên, những âm thanh hay nhất trong tuần lễ gây tiếng vang đó.

Cuối buổi chiều, háo hức gia tăng, vì có tin là đoàn người khổng lồ sắp tới. Từ các hướng khác nhau họ hành tiến về tòa thị chính, những nhân vật đi cà kheo cao lênh khênh đồng hành cùng đám người lùn nhỏ thó với những cái đầu to kinh khủng bằng giấy bồi. Những nhân vật đóng vai kiểu người thứ hai mang bong bóng lợn bơm đầy hơi, và cứ nhìn thấy đứa trẻ nào họ liền xông tới, quật vào người nó một cú cho dù vô hại nhưng vẫn làm nó sợ hãi kêu ré lên. Đoàn người khổng lồ cải trang thành vua, hoàng hậu, cướp biển và quân Moor, và trong những ngày tiếp theo họ sẽ hiên ngang đi giữa chúng tôi, cho nên sau này mỗi khi tôi kể, “Chúng tôi cuốc bộ về Bar Vasca,” bạn phải hình dung được rằng chúng tôi đi, thỉnh thoảng mới thấy đám cà kheo diễu qua các phố phường và những người đầu to quật bong bóng lợn vào trẻ con, còn thì thường xuyên đụng một ban nhạc hay một nhóm người thổi kèn túi hoặc, nếu may mắn, cả một cặp thổi ô boa nữa.

Suốt chín ngày, lúc nào cũng nhảy múa ngoài phố, hai tư trên hai tư giờ. Bạn sẽ về nhà lúc hai giờ sáng sau khi đã uống vài cốc tại một quán nào đó; bạn rẽ ở góc phố và bất chợt nhận ra mình ở giữa một đám đông khoảng sáu chục người đủ mọi lứa tuổi và quốc tịch đang nhảy điệu jota, họ sẽ hộ tống bạn một hai khối nhà, và khi bạn rời được họ thì rất có thể lại đụng phải một đám khác, gần đích đến hơn. Từ bình minh, giữa trưa, sau bữa tối và đặc biệt là suốt cả đêm, lúc nào cũng có nhảy múa ngoài phố. Nhiều du khách đến Pamplona sẽ chẳng hề xem một trận đấu bò nào - họ tới thuần túy để nghe nhạc và nhảy múa.

Đám đông năm nay dường như cư xử đàng hoàng khác thường, và bề ngoài khá tươm tất. Nhóm chúng tôi là một điển hình. Ngày nào Harvey Holt cũng ăn mặc một kiểu: quần trắng, áo trắng, khăn quàng cổ đỏ, khăn quấn bụng đỏ, giày vải trắng với dây buộc đỏ và đế bằng dây bện. Cái áo chẳng mấy chốc sẽ bị nhuộm màu đỏ nhạt do rượu rót trong lúc anh uống không biết bao nhiêu bầu được chuyền đến tay; Harvey thích để bầu cách xa môi, sao cho một tia rượu nhỏ chảy vào miệng. Tôi đi giày đế bằng dây bện, mặc quần áo xanh nước biển bạc màu và đội mũ nồi. Joe, chòm râu dày rối bù, mặc quần bò bó khít, không sơ mi, áo gi lê da thuộc lót lông cừu và giày ống kiểu Texas. Cato, với ý thức bẩm sinh về thời trang, luôn giữ cho bộ râu được cắt tỉa cẩn thận và bộ quần áo đúng mốt gọn gàng tươm tất; trong khi Yigal mặc quần vải thô, giày lính, áo khoác nhà binh và mũ lưỡi trai Israel nhỏ.

Các cô gái gặp phải vấn đề đặc biệt. Họ rất muốn mặc những chiếc váy mini xinh xắn, nhưng nhanh chóng phát hiện ra làm vậy trong đám đông xô bồ ở Pamplona thì chỉ dẫn đến những chuyện mạo hiểm mà họ chưa sẵn sàng theo đuổi. Britta nói, “Tớ không bao giờ ngờ một nghìn gã đàn ông lại có những tám nghìn bàn tay,” vì vậy các cô đành chuyển sang mặc quần; nhưng nếu vào một buổi tối đặc biệt nào đó chúng tôi dùng bữa ở nhà hàng, họ lại diện những bộ váy mốt nhất, và vì họ là những cô gái hấp dẫn đến thế nên đi đến đâu cũng làm mọi người xôn xao bàn tán.

Khi tôi nhận xét năm nay du khách có vẻ sạch sẽ, đám du côn ăn mặc lôi thôi mà tôi lường trước chỉ ở mức tối thiểu, Joe bật cười bảo, “Ông biết tại sao, phải không?” Tôi không biết, vậy là anh lái chiếc pop-top ra đường Zaragoza và chúng tôi quan sát những cảnh sát đi mô tô chặn bất cứ chiếc xe đang tới nào có chở dân hippy và lệnh cho họ, “Rửa ráy sạch sẽ, ăn mặc tử tế, gọn gàng tươm tất vào. Không thì quay ngược ra.” Nếu người trong xe khăng khăng họ không có quần áo nào khác, hoặc nếu họ từ chối cắt tóc hay chải đầu, cảnh sát liền bắt xe quay mũi đi về hướng ngược lại. “Trên đường từ Pháp sang cũng vậy,” Joe nói. Tôi bèn hỏi, “Cậu làm thế nào mà vào được?” anh đáp, “Trông tôi ăn mặc có vẻ lôi thôi nhưng tôi không bốc mùi.”

Đêm hôm đó tôi đã hiểu tại sao Pamplona có khả năng đón tiếp một lượng khách khổng lồ đến vậy mà rắc rối bề nổi lại rất ít. Mười giờ rưỡi, chúng tôi vừa giành được chỗ ở quảng trường chính để xem pháo hoa, thì hai người Mỹ trông đặc biệt mất cảm tình và một người Nam Phi say rượu bắt đầu quấy nhiễu chúng tôi, sau một lúc bọn họ đoán ra Cato hẳn là người yêu của một trong ba cô gái, vậy là bất chấp mọi nỗ lực của Holt và tôi, họ cư xử thô lỗ hơn nữa, nhưng rắc rối thực sự chưa kịp xảy ra, pháo hoa đã được bắn, một màn trình diễn xa hoa của công ty Caballer ở Valencia, và chúng tôi tạm quên được bọn quấy rối, mặc dù ngay khi pháo hoa vừa tắt là chúng lại làm phiền.

Tôi tự hỏi tại sao cảnh sát không can thiệp gì cả, bởi họ đã chứng kiến toàn bộ sự việc nhưng chỉ đứng nhìn. Monica nắm tay Cato bảo, “Chúng mình đi khỏi đây thôi,” thế là ba tên kia bắt đầu ngân nga, “Tình nhân mọi đen, tình nhân mọi đen!” Holt, mặc dù cảm thấy chướng tai gai mắt không kém gì đám người kia trước việc Cato quan hệ với một cô gái da trắng, vẫn coi việc bảo vệ bất cứ người nào ngồi cùng bàn với mình là nghĩa vụ, vậy nên ra hiệu cho Joe và Yigal xong là anh định lao vào bộ ba đó, nhưng cảnh sát đã ngăn lại bằng cách lắc nhẹ đầu và vẫy ngón tay trỏ ý thôi đi.

Holt và các bạn trẻ bỏ đi, còn tôi nán lại chuyện trò với hai người quen cũ từ California đến, một bác sĩ và bà vợ vẫn thường xuyên đến dự lễ hội San Fermín, và chứng kiến sự việc họ cũng bất bình như tôi. “Thật mỉa mai khi một người da màu lại bị sỉ nhục trong lễ hội San Fermín,” vị bác sĩ nói, “vì chính Fermín cũng là người da đen.” Tôi nhắc rằng người dân Pamplona rất nhạy cảm về điểm này, và trong khi mà bức tượng thánh Fermín, ngày mai đây sẽ được rước qua các phố, có màu đen nhánh thì truyền thuyết lại cho rằng ông là người Bắc Phi và chỉ bị cháy nắng mà thôi.

Tôi mới bình luận được đến đó, ba kẻ gây rối đã nhìn thấy và loạng choạng tiến lại gần nhiếc tôi là “cùng cánh với bọn mọi đen”. Ông bác sĩ, vốn trạc tuổi tôi, đã chực lao vào ẩu đả, và có lẽ tôi cũng sẽ vào cuộc, nhưng một lần nữa cảnh sát lại đứng ở vị trí chúng tôi có thể nhìn thấy liền xua tay ra hiệu.

Sau đó, lúc ba giờ sáng, khi đám đông đã thưa đi nhiều, một chiếc xe lặng lẽ chạy vào quảng trường, đỗ lại gần chỗ chúng tôi. Sáu cảnh sát ung dung lách mình giữa các bàn, bao vây ba kẻ càn rỡ, đấm chúng ngã nhào xuống đất một cách hữu hiệu đáng sợ, rồi lôi chúng đi, và chúng tôi không gặp lại bọn chúng nữa.

Ngày bảy tháng Bảy, lúc năm rưỡi sáng, tất cả mọi người ở Bar Vasca đều đã thức giấc. Thực ra, tất cả mọi người ở Pamplona đều đã thức giấc vì vào giờ này các nhóm txistulari bắt đầu đi khắp thành phố, người thổi sáo người đánh trống, vì vậy không ngủ được nữa. Và chỉ vài phút chúng tôi đã mặc xong quần áo rồi rảo bước về phía trường đấu, cũng như hàng nghìn người, đổ đến từ mọi hướng. “Chúng ta có cần đi nhanh như thế này không?” Monica nóng nảy nói to, và tôi đáp, “Để được việc thì cần,” cô liền đáp trả, “Chúng ta chỉ khăng khăng mỗi chuyện được việc, phải không, các nữ hướng đạo sinh?”

Lý do khiến tôi vội vàng đã trở nên rõ ràng khi chúng tôi đến được trường đấu bò, vì ngay cả vào lúc sớm sủa như vậy mà hơn ba nghìn người chen chúc bên ngoài, chờ cổng mở lúc sáu giờ, và nếu không may, chúng tôi sẽ lỡ mất màn làm quen lý thú với Pamplona. Nhờ may mắn, chúng tôi đã thúc khuỷu tay len được vào một vị trí thuận lợi, cho nên khi cánh cổng rốt cuộc cũng mở ra, tôi có thể chạy vụt lên những bậc cầu thang bê tông như một chú thỏ hoảng sợ và lao tới một chỗ không phải bên trong trường đấu mà là trên bậc cao trông xuống đường phố bên ngoài.

“Có người rồi, có người rồi!” tôi hét với mấy người lạ định xông vào chiếm chỗ, vì thế đã giữ được bảy chỗ cho đến khi các bạn trẻ thở hổn hển chạy lên xếp thành hàng bên cạnh tôi. Britta và Gretchen đứng sát cánh khuỷu tôi, và tôi cho hai cô gái biết là giờ mọi người sẽ đứng đợi một tiếng đồng hồ giữa tiết trời giá lạnh.

“Có đáng không nhỉ?” Monica hỏi, tôi bèn chỉ vào đám đông khổng lồ đã tụ tập phía sau chúng tôi, khao khát được nhìn lướt qua cho dù chỉ một phần những gì chúng tôi thấy tuyệt rõ.

“Chúng ta vất vả như thế này chỉ vì hai mươi giây phấn khích thôi,” tôi giải thích.

“Vậy hai mươi giây ấy nên thật tuyệt thì hơn,” Monica trả đũa, nên tôi cam đoan là cô sẽ được thỏa mãn.

Khoảng bảy giờ, đã có hai mươi nghìn người trong trường đấu, mười lăm nghìn người ở quảng trường bên ngoài, một số trèo cả lên đầu bức tượng Hemingway. Đột nhiên, từ phía bên kia thành phố, một quả pháo thăng thiên nổ ùng một tiếng ai nấy ở khắp Pamplona đều nghe thấy. Những người trong trường đấu từng xem cuộc chạy rồi đều hồi hộp chờ đợi, và một lúc sau nhẹ cả người nghe thấy tiếng nổ thứ hai, có nghĩa cả sáu con bò đực đã rời khỏi bãi quây thành một nhóm sát bên nhau. “Nếu quả pháo thứ hai bị đình lại,” tôi giải thích, “mọi người sẽ hiểu là một con đã tụt lại sau, là có rắc rối to rồi.”

Sau khi mấy quả pháo nổ, nhiều chuyện bắt đầu diễn ra ở quảng trường. Thứ nhất, cảnh sát đang giữ trật tự trên đường phi nước đại dẫn vào trường đấu của đàn bò phải rời khỏi vị trí mà leo lên chỗ an toàn. Thứ hai, tất cả mọi người trong khu vực đều mỗi lúc một thêm căng thẳng. Thứ ba, những người định tham gia chạy bắt đầu nhảy lên nhảy xuống, biết rằng chỉ hai phút nữa thôi đàn bò sẽ ập đến nơi. Ngay cả Monica thờ ơ là thế mà cũng hồi hộp chộp tay Joe, kêu ré lên, “Thế bây giờ anh có muốn xuống dưới ấy không?”

Khoảng cách từ bãi quây đến trường đấu vào khoảng một dặm, và vì một người đàn ông có thể chạy một dặm mất bốn phút còn một con bò mất chừng đâu hai phút, cho nên hiển nhiên bất cứ người nào chạy trước đàn bò rốt cục cũng sẽ bị đuổi kịp và buộc phải tự bảo vệ mình bằng cách nào đó trong khi đàn bò rầm rập chạy qua. Britta thét lên, “Nhìn kìa!” và chúng tôi thấy một đám đàn ông chạy bán sống bán chết vào quảng trường như thể thần chết đang bén gót, một lúc sau, những con bò đầu tiên xuất hiện, những hình thù to lớn đen trũi phăm phăm chạy về phía trước vừa nhìn bên nọ bên kia nhưng không đốn người bằng cặp sừng. Một đám đông người chạy dường như bít kín con đường trước mặt chúng, song mỗi khi đàn bò sắp chạm điểm nào là đám đông ở điểm đó lại giãn ra đầy bí ẩn và chỉ nhập lại sau khi chúng đã vượt qua.

Khi đàn thú ra tới quảng trường, chúng chạy thẳng đằng trước khoảng trăm thước, rồi, đến một tòa nhà văn phòng lớn tên là Teléfonos, chúng rẽ trái sang một đường dốc hẹp dẫn thẳng vào đấu trường, qua ngay dưới chỗ chúng tôi đứng. Buổi sáng hôm ấy, lúc đàn bò đang lao hết tốc lực định rẽ ở góc phố dẫn vào con đường dốc hẹp, đám người chạy trước mũi chúng dồn lại dày đặc một lúc, và tôi nghe thấy Monica thét lên thất thanh, “Chúa ôi! Nhìn người áo xanh kìa!”

Một người đang chạy thì bị ngã và có vẻ như không thể không bị đàn bò giẫm đạp lên, nhưng thật kỳ diệu là cả sáu con đều điều khiển móng guốc sao cho người ngã không bị thương. “Thần hộ mệnh đang che chở anh ấy đấy,” Monica nói yếu ớt.

Lúc này cả đàn bò đã vào con đường dốc và đang lao thẳng về phía chúng tôi, trước mắt chúng là hàng trăm người, người thì chạy, người thì ngã, người thì chen lấn, người thì đấm đá. Tôi nghĩ mỗi người trong chúng tôi đứng trên bao lơn đều cảm nhận được một sức mạnh khủng khiếp khi đàn bò lao qua mọi vật chướng ngại và cuốn phăng tất cả. “Ôi chao!” Gretchen hổn hển thốt lên khi làn sóng người và bò xô về phía chúng tôi, mờ nhạt đi trong một giây lát phấn khích cuồng dại, và chạy qua ngay dưới chỗ chúng tôi để tiến vào trường đấu.

“Nhanh lên!” tôi vội hô khi con bò cuối cùng chạy khuất, và chúng tôi lao lên một dãy cầu thang dài, xuống một hành lang và chạy vào trường đấu giữa ánh nắng sớm rực rỡ. Chúng tôi tới được chỗ ngồi đúng lúc những con bò chậm chân nhất đang bị dồn vào bãi rào để chờ đến năm giờ rưỡi chiều hôm đó ra sân đấu.

Sau đó chúng tôi được xem một tiết mục mua vui tuyệt đỉnh, vì sân đấu rải cát phía dưới đã chật cứng trai tráng mặc đồng phục trắng, đeo băng chéo và dây lưng đỏ, tay phải người nào cũng cầm một tờ báo cuộn tròn. “Để ý cánh cửa đằng kia,” tôi chỉ cho các bạn trẻ, và chưa dứt lời nó đã bật mở, một con bò cái sừng bọc da nhọn hoắt phóng vụt ra lao thẳng vào giữa khối người lanh lẹn đó. Với dáng vẻ dữ dằn tôi không sao tả nổi, nó lăn xả vào vô số mục tiêu xung quanh, lia đầu làm những người đàn ông trưởng thành ngã chổng kềnh, và tạo ra một cảnh lộn xộn đến vô hại như để bắt người xem cười không dứt. Tôi đoán là trong mười một phút con bò cái đó làm trò, chắc nó đã húc ngã khoảng chín mươi người. Có lúc trông nó như quả bóng bowling, vừa khó điều khiển vừa phá phách. Quy tắc là không người chơi nào được tóm bắt nó bằng bất cứ cách gì, dù là nắm sừng hay túm đuôi. Tất cả những gì họ có thể làm là đẩy nó ra xa hoặc quật bằng tờ báo cuộn tròn, mà giá thử ai đó quật nó, có khả năng nó sẽ bất ngờ tấn công, cắm sừng vào bụng hất anh ta ngã lăn quay.

Năm con bò cái như vậy được thả ra sân mỗi sáng - đôi khi theo cặp - và con cuối bao giờ cũng có vẻ sung sức hơn con đầu; hoặc có lẽ người tham gia đã mệt mỏi. Dù thế nào đi nữa, đó là một cách ồn ào để bắt đầu ngày hôm đó và nó định ra khuôn mẫu cho những gì tiếp theo. Đến khoảng tám giờ, trường đấu đã vắng tanh. Trong lúc chúng tôi mệt mỏi đi theo đám đông, Cato nhận xét, “Lũ bò cái này chắc biết rất rõ cách chơi,” và Yigal phát biểu, “Toàn bộ trò này chẳng ra làm sao cả.” Nhưng Joe không nói một câu. Anh có vẻ đang nhớ lại cảm giác về một sức mạnh bí ẩn bùng phát khi đàn bò rùng rùng rẽ vào con đường dốc.

Holt phản đối cả ba chàng trai trong nhóm: Joe vì chủ nghĩa hòa bình và bộ râu của anh, mặc dù không nhất thiết theo đúng thứ tự vừa nêu; Yigal vì ra mặt phản đối trò đấu bò và thái độ do dự không biết có nên chọn nước Mỹ làm tổ quốc không; Cato vì ăn nói báng bổ tôn giáo và ngủ với một cô gái da trắng, và một lần nữa thứ tự tôi xếp có phần tùy tiện.

Phản ứng của anh đối với ba cô gái phức tạp hơn. Anh nghi ngờ thái độ của Gretchen đối với cảnh sát, cho rằng bất cứ ai không tuân thủ pháp luật thì rất dễ gặp rắc rối; ngoài ra, anh còn không có lòng tin đối với những thanh niên cãi lời bậc sinh thành, mặc dù chính anh cũng đã từng trái ý cha mẹ khi gia nhập binh chủng thủy quân lục chiến, song ấy lại là chuyện khác. Monica thì anh không ưa. Anh nghĩ cô tự cho mình cao quý vì cô là người Anh và nói bằng thứ giọng được các phát thanh viên miền viễn Tây hồi những năm ba mươi ưa chuộng, và anh coi khinh cô vì cô quan hệ với một người da đen. Ngoài ra, sự hài hước của cô thường nhuốm màu giễu cợt, một đặc tính mà anh đánh giá cao ở người luống tuổi nhưng lại căm ghét ở người trẻ tuổi. Britta là người đáng ngờ vì làm sao một cô gái như thế mà lại hút cần sa, và anh không vừa lòng với thái độ thiếu tôn trọng của cô khi kể về cha mình, nhất là theo lời cô ông từng là một anh hùng trong thời Đức Quốc xã chiếm đóng.

Nhưng, cũng như tất cả các đại diện kỹ thuật khác, anh thấy khó mà tin được là những người xinh đẹp như ba cô gái này lại có bất cứ vấn đề gì. “Cuộc sống quá dễ dàng với họ,” một hôm anh nói với tôi, “chẳng có vấn đề gì cả, ấy vậy mà họ lại muốn tạo ra sóng gió. Người ta có lẽ cảm thấy họ đáng bị phát vào mông, nhưng tôi đoán cho dù người ta có khá giả và xinh đẹp thì xem ra đầu óc đôi lúc vẫn lộn xộn lắm.” Khi tôi nói Gretchen đã phải trải qua một phen khốn khổ thực sự với cảnh sát, anh gắt, “Biết đâu vì hút cần sa mà bị cảnh sát bắt.”

Bữa trưa hôm ấy, phản ứng của Holt đối với các bạn trẻ trở nên rõ ràng. Mọi chuyện khởi đầu tốt đẹp bằng việc một số người Tây Ban Nha dừng lại chúc mừng cuộc chạy của anh và Yigal chịu khó tìm cách làm hòa với một ý kiến, “Chắc ông đã chứng tỏ được gì đó.”

“Cũng đúng như Humphrey Bogart lái tàu thoát khỏi Cuba,” Holt trầm ngâm đáp. “Không có gì là ghê gớm nếu đó là việc cần làm.”

“Tôi tưởng Errol Flynn lái con tàu ở Cuba chứ,” Monica nói. “Cảnh mà Bogart bảo Lauren Bacall huýt sáo ra hiệu ấy,” Holt giải thích.

“Ô, thế ra ông đang nói về một bộ phim! Tôi chưa được xem.”

Các bạn khác cũng chưa xem phim đó, và Holt hỏi, “Ý các bạn là không ai trong số các bạn từng xem một trong những giây phút ấn tượng nhất lịch sử điện ảnh...”

“Bogart có đóng phim nào trong suốt thập kỷ qua đâu,” Gretchen nói. “Ít nhất thì tôi cũng không nhớ ra bất cứ phim nào.”

“Ông mất mười hai năm rồi,” Holt nói. “Nó được sản xuất năm nào ấy nhỉ?” anh hỏi tôi. “Bộ phim nổi tiếng về cuộc đời Hemingway ấy?”

“Tôi được xem ở Libya, trong thời chiến tranh.”

Holt nói anh không thể tin là phim ấy ra đời cách đây lâu đến thế.

“Tôi đã xem Bogart đóng trong một bộ phim,” Yigal nói. “Phim rất hay.”

“Ông ấy đóng vai gì?” Holt hỏi.

“Ông biết đấy, bộ phim bất hủ - Beat the Devil, với Robert Morley và dàn diễn viên xuất sắc đó.”

“Ôi, đúng rồi!” Monica reo lên. “Bộ phim hay tuyệt về Tangier.”

“Đáng lẽ đám ấy phả