Chương 9 NGƯỜI ĐẠI DIỆN KỸ THUẬT
Tôi không yêu chiến tranh, nhưng tôi yêu lòng can đảm mà người bình thường dùng để đối mặt với chiến tranh.
Thế giới chỉ là một nơi đầy bóng tối. Khách khứa dừng chân một vài đêm rồi lại ra đi trong mơ hồ bối rối, chẳng bao giờ biết chắc mình vừa ở đâu. Phía bên kia chân trời, anh ta cảm thấy mình nhất định sẽ tìm được một thành phố tốt đẹp hơn, một tiền đồ tươi sáng hơn, một nhóm bạn bè hát hò ngân vang hơn. Nhưng khi đàn lạc đà của mình đã được buộc yên ổn, anh ta lại thấy mình vẫn còn bị vướng víu vào một cảnh bóng tối khác.
Quê hương chúng ta là bất cứ nơi nào chúng ta được sống phong lưu.
• Cicero
Đây là cửa ra vào nơi bạn nhận những cuốn sách nói về nước Mỹ khi bạn muốn học đại học, còn đây là cửa sổ nơi bạn ném bom khi chúng tôi tham gia cuộc biểu tình tiếp theo.
Rừng rậm, sa mạc, lãnh nguyên, chỏm băng, những vùng biển hoang vu dài dặc... đó là những ngôi nhà của tâm hồn đơn độc.
Ở thành Baghdad cổ có một người đàn ông thông thái đã đọc sách của Somerset Maugham, và khi nhìn thấy thần chết lẩn quất ở chợ, ông ta nói, “Tôi không dại dột đến nỗi tìm cách ẩn náu ở Samarra. Tôi sẽ nằm bẹp trong một ngôi làng nhỏ ở đầu bên kia cây cầu San Luis Rey.”
Tổng thống sắp thực hiện chuyến công du mười hai ngày thăm một số nước bạn. Ngài sẽ làm gì trong mười một ngày kia?
Chưa bao giờ là một nhà ái quốc, nhưng một kẻ khờ dại thì rồi.
• Dryden
Lasca vẫn thường cưỡi
Con tuấn mã thảo nguyên xám tro, sát cánh bên tôi,
Khăn “serape” phớt xanh và đinh thúc ngựa lấp lánh lanh canh;
Ngắm nhìn nàng, tôi vui sướng cười vang!
Sách vở, kinh thánh, em đâu cần;
Chỉ “Ave Maria”, em đã thấy đủ đầy;
Mặc sự đời, duy nhất em chỉ mong,
Bên tôi, trên lưng ngựa thong dong...
• Frank Desprez
Về phần tôi, tôi đi du lịch không phải để đi đến đâu mà chỉ để được đi thôi. Tôi đi du lịch để thỏa cái thú đi đây đi đó. Điều quan trọng là được di chuyển.
• Stevenson
Một nhà ái quốc kiên định của thế giới đơn thương độc mã,
Bạn của tất cả các quốc gia, trừ đất nước của chính mình.
• Canning
Lần gặp Harry vừa rồi, tôi thấy anh ta say ngất ngư. Đó là trong một bữa tiệc tối ở Jersey City và anh ta cứ khăng khăng đòi bày tỏ lời khen ngợi với đầu bếp nhằm xin thêm mấy cái bánh kem xốp nhỏ nữa.
Cả trường đua xôn xao rộn rã, vì tin tức lan truyền khắp nơi
Rằng chú ngựa non giống Old Regret đã sổng chuồng,
Và nhập vào bầy đàn hoang dã - chú ngựa non giá một nghìn bảng
Vậy nên mọi tay cừ khôi đã tập trung để cùng nhau xung trận.
• Banjo Patterson
Cứ hút thuốc lá đi. Ai mà cần hai lá phổi chứ?
Chúng ta không bao giờ biết chắc mình can đảm hay không cho đến khi phải đối diện với hiểm nguy.
• La Rochefoucauld
Nữ hướng đạo sinh đội mũ nồi xanh lá cây.
Hãy chỉ cho tôi xem một người đàn ông đứng được cả hai chân trên mặt đất và tôi sẽ chỉ cho bạn xem một người đàn ông không thể tự cởi quần được.
Bậc thiện nhân dạy dân bảy năm mới có thể dùng dần vào việc chiến đấu. Đưa dân không được huấn luyện ra chiến trường tức là bỏ dân.
• Khổng Tử
Lòng can đảm là quan trọng nhất. Mọi việc đều suôn sẻ nếu có lòng cam đảm.
• Barrie
Họ thường xuyên ngủ tại những đảo nhỏ để chúng ta được ngủ yên ở nhà.
—★—Lúc này đã là ngày mồng một tháng Bảy, vì vậy lẽ đương nhiên mọi ý nghĩ của tôi đều hướng cả về Afghanistan, nên khi khóa cửa văn phòng ở Geneva, tôi có thể mường tượng được vùng cao nguyên bao la với những đoàn lạc đà trôi dạt từ biên giới Nga xuống, những phiên chợ đông đúc, những dây dưa hấu ngon ngọt nhất thế giới trĩu trịt quả, những quán trà dơ dáy nơi đám đàn ông ngồi xổm có mỗi một chén trà lây nhây uống tận ba tiếng đồng hồ trong khi bàn luận những vấn đề không đâu vào đâu vốn làm bận tâm trí dân du mục từ năm nghìn năm nay.
Đó là một miền đất thuộc về đàn ông, những người đàn ông vô kỷ luật đúc trong cùng một chiếc khuôn cổ lỗ, và dù có đang làm việc ở đâu đi chăng nữa, chỉ cần một người nào đó thốt ra từ Afghanistan là tôi lại muốn lên đường đến đó ngay lập tức. Tôi muốn thăm lại thành phố Kabul, dãy Hindu Kush cao vút, và những đoàn bộ hành đêm đêm về nhà qua cổng thành Herat hoặc Mazari-Sharif. Tôi đã có ba dịp đến Afghanistan công tác, cố gắng kết hợp cơ hội đầu tư cho World Mutual, nhưng đều không thu được kết quả, chủ yếu vì người Nga luôn đưa ra một thỏa thuận có lợi hơn. Trong số mọi quốc gia tôi từng đến công tác, Afghanistan là nơi bao giờ tôi cũng muốn quay trở lại.
Song vào ngày đầu tiên của tháng Bảy đó, tôi nghĩ đến Afghanistan không phải vì bất cứ lý do nào nêu ở trên. Tôi không nhớ những núi non và đoàn bộ hành mà là một người đàn ông, một người đàn ông vạm vỡ thô kệch, bốn mươi lăm tuổi, tóc đen, mắt xám trầm mặc, chiều cao chừng mét sáu, một đường xẻ không sâu lắm ở cằm và bộ dạng quả quyết, u buồn sâu lắng. Tôi không nhớ hình ảnh của anh trên vùng sa mạc đã khiến anh tốn rất nhiều thời gian trong hai năm vừa qua, mà là trong ngôi nhà thuê ở Kabul, gần một sân bay xây vội. Ngôi nhà đó rất khó quên ở chỗ tất cả mọi thứ bên trong đều ở đúng vị trí. Chẳng hạn như trong phòng tắm, hai chiếc bàn chải răng - màu xanh cho buổi sáng, màu đỏ cho buổi tối - được treo chính xác cạnh cái tủ gương chứa một hàng chai lọ, từng cái ở đúng vị trí đã định: lọ nước thơm dùng sau khi cạo râu, lọ nước súc miệng, lọ thuốc kiết lỵ, vân vân. Áo choàng tắm treo ở một cái móc đặc biệt, khăn bông xếp gọn gàng ba cỡ, thảm chùi chân Sears, cái cân Rocbuck bọc hợp kim crôm bóng loáng đặt cạnh cửa, cái gãi lưng để bên bồn tắm.
Mọi phần còn lại của ngôi nhà cũng như vậy. Trong phòng thay đồ có nhiều chồng gọn gàng, nào khăn tay, nào áo sơ mi trắng, nào quần soóc lửng; trong tủ chứa đồ của anh com lê và giày da thuộc được sắp xếp theo hàng lối. Đó tuyệt nhiên không phải ngôi nhà của một người đàn ông khó chiều hoặc mang tính đàn bà; đó là ngôi nhà của một người tỉ mỉ, muốn mọi thứ sắp xếp đâu vào đấy, với mức lộn xộn tối thiểu. Giá súng của anh ngoài hành lang, toàn những cây đã được sử dụng khá nhiều, đập ngay vào mắt, và trải trên sàn phòng làm việc là một tấm da hổ lớn, cái đầu hầm hè nhe những chiếc răng to tướng trắng nhởn.
Đó là ngôi nhà của Harvey Holt, công dân hợp pháp bang Wyoming, đã ly hôn, cử nhân khoa Cơ khí và Nông nghiệp Colorado, chuyên gia hệ thống ra đa ngoài trời và nhân viên công ty United Communications ở New York được cử sang làm việc cho chính phủ Afghanistan. Nói tóm lại, Harvey Holt là một đại diện kỹ thuật.
Trong những năm gần đây tôi có được bất kể vận may tài chính nào thì cũng chủ yếu là do được làm việc với các đại diện kỹ thuật, những con người cứng cỏi, khó tính, phục vụ trong lĩnh vực công nghiệp hiện đại. Nếu được yêu cầu hoạt động tại một địa bàn nguy hiểm, tôi thà có cộng sự là một đại diện kỹ thuật giỏi còn hơn là bất cứ kiểu người nào khác. Tôi có thể tin vào anh ta.
Vậy đại diện kỹ thuật là gì? Hãy xem xét vấn đề theo cách này. Hãng hàng không Pan American có một nhúm máy bay cánh quạt cổ lỗ không thể sử dụng cho những chuyến bay đường dài trong cuộc cạnh tranh với máy bay phản lực. Vì vậy hãng bán tống bán tháo chúng cho một số nước nhỏ mới xây dựng đường hàng không riêng và cần mua máy bay đường ngắn... như Miến Điện chẳng hạn. Để cuộc thương lượng được suôn sẻ, Pan American đã thỏa thuận với Lockheed, hãng sản xuất máy bay cánh quạt, gửi theo một nhóm sáu đại diện kỹ thuật đến dạy người Miến Điện điều khiển những chiếc máy bay lạc hậu ấy.
Nhóm này làm việc ở Miến Điện bảy tháng, thâm nhập từng phi trường mà máy bay hạ cánh. Khi cần thiết, họ sống trong lều cỏ, sông cạn, đánh lui thú rừng, gây náo loạn ở Rangoon mỗi khi may mắn được đặt trụ sở tại thủ đô, và chẳng mấy chốc đã hiểu biết về Miến Điện hơn cả các chuyên gia, vì không có phần kinh nghiệm nào của Miến Điện mà họ không trực tiếp dấn thân. Thường thì họ còn học nói cả một thứ tiếng Miến Điện tàm tạm nữa. Nhưng công việc chính của họ vẫn như vậy: “Trông nom cho những chiếc máy bay ấy bay được!” Nếu phải gia công một phụ tùng cần thiết trong một xưởng máy địa phương thì họ cũng làm. Và đồng thời họ còn dạy người Miến Điện cách tiếp quản.
Hết bảy tháng, năm đại diện kỹ thuật trở về Mỹ để nhận nhiệm vụ tiếp theo. Người thứ sáu ở lại Miến Điện, chịu trách nhiệm về toàn bộ máy bay Lockheed trong nước. Còn lại một mình, anh ta thu xếp cho mình một cuộc sống khác thường và đôi khi còn khá thú vị nữa, với một căn hộ ở Rangoon, một nơi thường xuyên lui tới ở Mandalay, một quán bar ở Myitkyina nơi anh ta gửi một ít quần áo để thay đổi, và một túp lều trên núi tận đầu mút của tuyến đường hàng không. Anh ta thường bao một cô nhân tình Miến Điện, hay hai, ba cô ở những sân bay khác nhau, và cứ ở Rangoon một thời gian là anh ta lại đưa ra lý lẽ gay gắt chống lại nhân viên bộ Ngoại giao của ta hoặc của Anh vì anh ta đã trở thành một người Miến Điện và bảo vệ quyền lợi của họ. Anh ta đồng cảm với các vấn đề của họ chứ không phải của tổ quốc mình.
Năm tháng trôi qua, anh ta vẫn ở lại Miến Điện để bảo dưỡng máy bay Lockheed. Anh ta có thể xử lý không những các vấn đề phát sinh về điều khiển máy bay mà còn cả việc bảo quản, bảo dưỡng phanh, tu sửa điện đài và thay hệ thống thủy lực. Hiểu biết về kỹ thuật của anh ta thật đáng nể. Có những khi anh ta giữ cho cả phi đội Miến Điện có thể hoạt động; không có anh ta thì máy bay không thể cất cánh. Và anh ta thực thi nhiệm vụ trong bất kỳ thời tiết nào, ở bất kỳ độ cao nào, trong bất kỳ tình huống khẩn cấp nào. Nếu dùng một từ để mô tả anh ta thì đó phải là “thạo nghề”. Việc gì anh ta cũng làm được. Anh ta duy trì cho phi cơ bay đều, và nếu một phi công sắp kiệt sức, chính anh ta có thể lái thay.
Tại nhiều vùng xa xôi nhất trên thế giới, tôi đã quen biết hàng trăm đại diện kỹ thuật - trong công nghiệp hàng không, máy kéo hạng nặng, truyền thông, kỹ thuật viên X-quang, nhà sản xuất chai Coca-Cola, bảo dưỡng máy móc cho hãng General Motor - và họ luôn có bốn đặc tính.
Thứ nhất, họ rất thông minh. Phần lớn bọn họ đã bỏ học trước khi nhận bằng tốt nghiệp đại học, nhưng họ đều hiểu biết hơn nhiều so với người đã có bằng đại học loại trung bình. Và họ vẫn tiếp tục học tập suốt đời. Nếu hãng Lockheed tìm ra cách hay hơn để làm một chuyện gì đó, người đại diện kỹ thuật ở Miến Điện sẽ nghiên cứu bản tường trình trong túp lều giữa rừng rậm cho đến khi nắm vững mọi sắc thái của kỹ thuật mới kia, có khi còn vững hơn cả chính người nghĩ ra nó. Hoặc nếu Lockheed bỏ sót một điều đáng chú ý nào đó, một đại diện kỹ thuật tại Miến Điện hay Pakistan sẽ sáng chế một thiết bị hiệu quả. Kiến thức của họ từ thực tế mà ra, nhưng rất sâu rộng.
Thứ hai, họ là những người khó chế ngự. Để họ một mình trong rừng rậm Myanmar, họ quản lý công việc một cách tốt đẹp. Đưa họ trở về California, nơi họ phải dự những bữa tiệc do kỹ sư trưởng tổ chức, họ rời rạc ngay lập tức. Trong xã hội văn minh, họ thường nghiện ngập rượu chè, phóng đãng, bất mãn và vô trách nhiệm. Ngoài biên giới, họ lại là những người có tổ chức mạnh mẽ. Nói một cách khác, họ là của quý của ban điều hành kỹ thuật, là nỗi thất vọng của bộ phận nhân sự. Chỉ cần đưa một đại diện kỹ thuật về cơ quan đầu não trong vòng hai tuần là có thể tin chắc người phụ trách trụ sở chính đã kêu trời, “Làm ơn tống khứ tên chó đẻ khốn khổ này đi đâu thì đi.” Nhưng nếu bạn cử đến Miến Điện một người không có tâm lý phù hợp để làm đại diện kỹ thuật thì nhiều chuyện rắc rối tệ hại hơn lại nảy sinh, và chính người phụ trách kia, sau khi đọc báo cáo từ chính phủ Miến Điện gửi sang, sẽ lầm bầm, “Hãy gọi thằng cha vô tích sự ấy về và gửi cho họ một người đàn ông thực sự.” Thế là người đại diện kỹ thuật khó tính khó nết, bất phục tùng và thạo nghề được đưa lên chuyến bay sau đó, và ở Miến Điện không còn rắc rối nữa. Vì vậy người đại diện kỹ thuật là sự tiếp nối của một dòng giống cơ bản trong đời sống Mỹ. Anh ta là hậu duệ trực hệ của nhà phát minh tài năng đã chế tạo ra xe ngựa, người không thể hòa mình vào nền văn minh định cư của Lancaster, Pennsylvania, nhưng lại vô giá ở miền biên Santa Fe.
Thứ ba, trên thực tế mọi đại diện kỹ thuật tôi quen biết đều có rắc rối với đàn bà. Anh ta yêu đàn bà... anh ta luôn yêu họ một cách có phần cứng nhắc, mạnh mẽ. Nhưng anh ta không thể sống chung với họ. Tính bất nhất đàn bà của họ khiến anh ta bối rối, đảo lộn cuộc sống của anh ta. Nếu anh triệu tập một trăm đại diện kỹ thuật đến một cuộc hội thảo ở Bombay, anh sẽ thấy ít nhất cũng phải tám mươi người đã ly dị, một số còn không chỉ ly dị một lần. Nhưng trong các quầy bar, khi cuộc hội thảo đã kết thúc, anh sẽ không nghe thấy họ chê trách vợ cũ một câu. Thường họ chỉ phát biểu vì trong lòng bối rối sâu sắc: “Tôi không hiểu đã có chuyện gì xảy ra. Có lẽ, cô ấy không chịu được cuộc sống xa nhà.” Bạn sẽ không phải nghe lời buộc tội oán hận nào: “Rốt cuộc, tôi được phân đi Đài Loan trong mười bảy tháng. Làm gì có chỗ cho cô ấy, vì vậy tôi mới để cô ấy ở Amarillo và không bao giờ gặp lại nữa.” Nhưng đôi khi anh cũng nghe được vài chuyện vui: “Tôi gặp cô nàng xinh xắn ấy ở Cửu Long, giúp vốn cho cô ta mở một cửa hàng thời trang nữ ở Hồng Kông. Một kiểu hùn vốn kinh doanh. Tôi bỏ ra mười hai nghìn đô vào phi vụ ấy, và tôi mới ở Hokkaido được đúng hai tháng thì cô ả đã sang nhượng luôn cửa hiệu, trốn đi với mười hai nghìn đô ấy... và một tay phóng viên Chicago Tribune.”
Nhưng có vỡ mộng hay bị đối xử tồi tệ đến đâu chăng nữa thì vẫn chẳng đủ để người đại diện kỹ thuật quay lưng lại với đàn bà. Trong số họ tôi chưa gặp một ai căm ghét đàn bà. Họ nhảy từ tai họa này đến tai họa khác với một tâm trạng tạm gọi là niềm hân hoan hoang dã, và anh chàng mới hôm trước bị cô nhân tình cũ người Trung Hoa cuỗm đi mười hai nghìn đô la ngay hôm sau lại cho cô nhân tình mới người Nhật Bản mượn mười bốn nghìn. Không phải mọi vết sẹo tình yêu của những người đàn ông ấy đều thuộc về tâm lý; nhiều người bị thương vì dao hay chai vỡ. Hai người tôi quen bị những cô vợ tâm thần bất ổn bắn. Một người bị đầu độc thức ăn với liều lượng ngày một tăng cho đến khi anh ta phản đối, “Món bột yến mạch này không thiu thì cũng có thuốc độc, mà anh mới mua cái thứ chết tiệt này ngày hôm qua đấy chứ.” Nhưng trước tòa, anh ta nhất định không chịu làm chứng chống lại vợ. Khi người ta phát hiện ra ba trong số những ông chồng cũ của cô ta đã chết một cách bí ẩn - cả ba đều rất thích bột yến mạch - anh ta nói đơn giản, “Đôi khi một anh chàng cũng phải ra đi đúng lúc chứ.” Anh ta kể cho tôi nghe chuyện này trong một túp lều ở miền Bắc Thái Lan, nơi cô nhân tình người Thái đã học cách làm món bột yến mạch bằng những hộp ngũ cốc anh ta xoáy được ở căn cứ quân sự Mỹ sát Bangkok.
Thứ tư, mọi đại diện kỹ thuật tôi từng quen biết đều say mê hệ thống âm thanh hi-fi và tốn rất nhiều tiền cho trang thiết bị. Bất kể dựng lều ở đâu, bất kể sâu trong rừng rậm hay xa cách thủ đô của quốc gia mà họ phục vụ tới thế nào chăng nữa, các đại diện kỹ thuật kiên quyết phải có âm thanh hoàn hảo, và để đạt được điều đó, họ sẵn sàng làm bất cứ việc lạ thường nào. Vì việc cung ứng điện ở các nước rất khác nhau nên bất cứ đại diện kỹ thuật nào phụ thuộc vào hệ thống điện địa phương đều phải lo liệu cho mình bộ điều chỉnh điện áp, máy biến thế, trụ điện và thiết bị chuyển mạch an toàn. Để chuyển điện thế 220 vôn hay dao động của Miến Điện xuống 110 vôn ổn định mà thiết bị Mỹ đòi hỏi, người đại diện kỹ thuật thường cần số thiết bị chiếm một nửa trọng tải chiếc xe Jeep, và anh ta sẵn sàng kéo theo những thứ ấy từ căn cứ này sang căn cứ khác, vui lòng tiêu tốn thời gian và tiền bạc vào việc đó, miễn là cuối cùng có được âm thanh chất lượng cao. Trong quá trình thu thập thiết bị, anh ta tiêu tiền rất phóng tay vì anh ta sử dụng loa Leak của Anh, máy ghi âm Tandberg của Thụy Sĩ, bộ amply Sony của Nhật, đế quay đĩa hát Dual của Đức và bộ tiền khuếch đại McIntosh của Mỹ. Việc thu thập từng ấy thiết bị phức tạp từ nhiều nguồn khác nhau như vậy đòi hỏi phải có tài trí hơn người, và một trong những việc đầu tiên mà người đại diện kỹ thuật thực hiện khi đến nhận nhiệm vụ ở một đất nước mới là tìm hiểu chắc chắn những cách thức để nâng cấp các bộ phận khác nhau mà anh ta cần. Phi công thuộc Hệ thống Hàng không Scandinavia có thể đáng tin cậy trong việc mang hộ máy móc Tandberg, kỹ thuật viên Đức làm việc ở nước đó thường tìm được đế quay đĩa hát sản xuất ở Ruhr, và sớm muộn gì thì mỗi đại diện kỹ thuật cũng thiết lập được quan hệ với một người nào đó ở sứ quán Mỹ để nhờ mua thiết bị McIntosh hay Fisher. Các đại diện kỹ thuật lớn tuổi mà có tiêu hai hay ba nghìn đô la cho một bộ phận lắp ráp thì cũng không có gì là bất thường cả.
Họ bật những thể loại nhạc nào trên các dàn máy siêu việt của mình? Một số lượng đáng ngạc nhiên chỉ nghe nhạc cổ điển, trong đó Vivaldi và Mozart được ưa thích nhất. Một số khác lại thích điệu valse cực kỳ quyến rũ từ thời kỳ đầu họ biết tán tỉnh, và những người đàn ông ấy thường xuyên ngồi nhìn chằm chằm vào khoảng không trong khi nhớ lại những mối tình và cuộc hôn nhân đã bắt đầu tuyệt vời biết bao nhiêu chỉ để rồi kết thúc đau đớn thế. Tuy nhiên phần lớn lại có bộ sưu tập khá phong phú toàn những đĩa hát không ai biết đầy rẫy trong các bảng danh mục: Music for a Rainy Day, Music for Lovers, Music for the Hours before Dawn. Tôi chợt nhớ đến một người ở Hy Lạp có Bing Crosby’s Greatest Hits, đĩa I. Anh ta còn có cả Greatest Hits của hai mươi chín ca sĩ khác nữa, hầu hết trong số đó tôi chưa từng nghe nói đến bao giờ.
Cho dù từng cá nhân đại diện kỹ thuật thích thể loại nhạc nào hơn, bạn cũng có thể tin chắc là trong bộ sưu tập của anh ta có một số lượng lớn những mẫu tác phẩm từ các đĩa hát do Enoch Light sản xuất. Tôi biết Light không nổi tiếng lắm ở Hoa Kỳ, nhưng ở nước ngoài, ông ta là một người hùng vì đã sản xuất cả loạt đĩa hát nhằm vào những khách hàng như các đại diện kỹ thuật. Những đĩa đó tập hợp các bài được ưa thích nhất, một số đã có từ rất lâu như “What Is This Thing Called Love?” và “Tea for Two”, trình bày sao cho anh nghe được giai điệu, nhưng với các nhạc cụ trong dàn nhạc chơi riêng rẽ đến mức cường điệu. Tôi đã từng ngồi hàng giờ tại các trạm xa lắc xa lơ ở Sumatra hay Thổ Nhĩ Kỳ trong khi một đại diện kỹ thuật nào đó bật đĩa của Enoch Light: “Tôi muốn anh nghe theo cách âm thanh chói tai đó vang lên cao hơn nửa nốt ở kênh trái.” Nếu đang viết một vở opera về các đại diện kỹ thuật, tôi sẽ đề nghị Enoch Light soạn phần tổng phổ, và tôi sẽ cung cấp những thứ như trống định âm, trống bongo và sáo, một số nhạc cụ ở phía ngoài cùng bên tay trái của dàn nhạc, một số ở phía ngoài cùng bên phải, và sẽ không bao giờ có bất cứ âm nào vang lên từ ở giữa. Thế mới là âm nhạc đích thực dành cho các đại diện kỹ thuật.
Sau khi tôi đã làm việc với các đại diện kỹ thuật được mấy năm, một người trong số họ đưa cho tôi xem bài báo của một bác sĩ tâm thần Đức viết rằng đàn ông chỉ tìm đến sự trấn an của hệ thống hi-fi khi nào họ nhận thấy mình không thể kiểm soát được xã hội xung quanh, đặc biệt là đàn bà. Ông bác sĩ tâm thần ấy khẳng định một người đàn ông làm cho quan hệ với vợ hay với người tình rối tung lên thường tìm được nguồn an ủi tinh thần trong khả năng xoay một đĩa số nhỏ và làm cho cả một hệ thống to lớn và phức tạp đáp ứng. Ngay một động tác xoay khẽ nhất cũng mang lại kết quả. Ngay một kẻ đầu óc tối tăm nhất cũng có thể cảm thấy mình đã làm chủ được số phận khi có thể giảm nhạc Beethoven xuống tiếng thầm thì hay tăng Bing Crosby lên còn to hơn cả tiếng người gầm thét. Tưởng tượng xem! Anh ta làm được tất cả những việc đó với một động tác vặn cổ tay, vì thế rõ ràng anh ta không phải là đồ hoàn toàn ngớ ngẩn. Nhà tâm lý học Đức kết luận rằng không người đàn ông thực sự bình thường nào cần bận tâm tới việc nuôi dưỡng lòng tự trọng của mình bằng máy móc. Rồi, để cho lời của mình đỡ khó hiểu, ông ta viết thêm, “Không người đàn ông nào thỏa mãn trong mối quan hệ với đàn bà lại cần lập một hệ thống âm thanh hi-fi mà anh ta có thể chế ngự được!” Tôi có một bản sao của bài tiểu luận đó và đã đưa cho nhiều đại diện kỹ thuật có hệ thống âm thanh phức tạp xem, họ đều cười nhạo lời phân tích ấy, nhưng tôi nhận thấy tất cả bọn họ đều đã ly hôn.
Bản thân tôi cũng có một hệ thống rất tuyệt ở Geneva.
—★—Tôi đã nói là các đại diện kỹ thuật chịu trách nhiệm về an ninh tài chính của tôi. Chuyện là thế này. Khi rời khỏi hải quân năm 1945, tôi đã loanh quanh chỗ này chỗ nọ thử nhiều công việc khác nhau - Texas, Connecticut, California - nhưng cũng như nhiều chàng trai khác, tôi thấy những công việc thông thường thật vô vị sau cuộc chiến tranh đầy ý nghĩa, vì vậy cuối cùng hoàn cảnh xô đẩy tôi đi bán quỹ tương hỗ cho một hãng kinh doanh ở Minneapolis, công việc này cho tôi một chút tự do đi đây đi đó. Tôi trở nên tương đối thạo việc vì bản thân cũng thực sự tin vào việc tiết kiệm, và điều này đã giúp tôi thuyết phục người khác. Tôi chỉ cần cho họ xem tài khoản của mình và đưa hợp đồng cho họ ký.
Tin đồn về cách làm việc siêng năng của tôi đã đến tai các công ty khác và tôi nhận được một số đề nghị hấp dẫn, nhưng tôi không muốn thay đổi. Rồi năm 1954, World Mutual được thành lập và hãng kinh doanh ở Minneapolis của chúng tôi là một trong số những đơn vị đầu tiên gia nhập. Lúc đó tôi mới được biết thế nào là thị trường rộng khắp thế giới, và sau chuyến công tác đầu tiên ở nước ngoài tôi biết đây chính là loại công việc dành cho mình. Tôi tình nguyện đi tới tất cả các nước xa xôi ít người biết đến mà không nhân viên bán hàng nào khác muốn nhận vì tôi biết những điều mà họ không biết. Người Mỹ ở biên giới Indonesia, Campuchia hay Afghanistan kiếm được khá nhiều tiền, vì vậy có rất nhiều cơ hội ở đó, miễn là anh tìm được. Và trong khi một người bận rộn ở Brussels không cho anh thời giờ để chào hàng thì người ở các trạm xa xôi hẻo lánh lại háo hức nghe điều anh muốn nói. Và khi người Đức, Bỉ, Nam Tư và Thụy Điển nhìn thấy những người Mỹ tương nhiệm tiết kiệm được bằng đấy tiền mà lại còn có lãi nữa, họ cũng muốn tham gia, vì vậy đôi lúc anh có thể ngồi trong một văn phòng lốm đốm vết phân ruồi và chỉ đơn giản điền vào một vài tờ khai; tự họ sẽ làm công việc chào hàng.
Thế đấy, dù sao thì chính ở những trạm xa xôi hẻo lánh đó tôi đã lần đầu gặp gỡ các đại diện kỹ thuật, và khi nhận thấy họ ăn tiêu hoang phí như thế nào, tôi đã trở thành chuyên gia bán tri thức thường nghiệm cho họ. World Mutual cho xuất bản một lượng lớn sổ tay bán hàng, nhưng không cuốn nào giới thiệu kiểu chào mời mà tôi đã dùng.
“Nghe này, chàng ngốc! Năm ngoái anh bạn đã phí phạm hai mươi nghìn đô la cho rượu chè và gái điếm Singapore - và rút cục anh bạn được gì nào? Một trận lậu nguy khốn. Vì vậy tôi sẽ không tranh cãi thêm nữa. Tôi sẽ ký cho anh hợp đồng mười lăm nghìn đô la.”
“Ai bảo thế?”
“Tôi đã nói rồi đấy. Ký vào chỗ này đi.”
Kết quả là Giáng sinh nào tôi cũng nhận được một tá thư từ những vùng đất xa xôi cảm ơn tôi đã giúp các đại diện kỹ thuật để dành được tiền.
Trong số những người đầu tiên thuộc nhóm đã đầu tư với tôi có một chuyên gia kỹ thuật đặc biệt khó tính mà hồi tôi gặp đang làm việc ở Thổ Nhĩ Kỳ - Harvey Holt. Dạo đó tôi bốn mươi sáu tuổi còn anh hăm tám, một cựu đại úy thuộc binh chủng lính thủy đánh bộ đang bị vợ đẩy đến chỗ khánh kiệt. Là người quyết liệt, cứng rắn, giỏi giang, anh đang thực hiện nhiệm vụ đầu tiên ở nước ngoài trong vai trò đại diện kỹ thuật cho United Communications New York, công ty vừa lắp đặt hệ thống liên lạc sân bay cho Thổ Nhĩ Kỳ. Các thành viên khác của đội đầu tiên đã về Mỹ, để Holt ở lại phụ trách toàn bộ trang thiết bị tại nước đó. Mặc dù được yêu cầu giữ một căn hộ tại trụ sở chính ở Ankara nhưng phần lớn thời gian anh ở sân bay Yesilkoy gần Constantinople, nơi các máy bay bốn động cơ cỡ lớn hạ cánh để tiếp nhiên liệu cho cuộc hành trình tới châu Á.
Holt không phải người dễ kết thân vì anh không được mau mồm miệng, và khi nói chuyện anh lại kể rất ít về bản thân. Chỉ đến khi anh nhất thiết phải chỉ định một người thụ hưởng cổ phần của mình ở World Mutual, tôi mới biết anh đã ly hôn vì anh nói với thái độ hết sức trang nghiêm, “Ông cứ ghi tên Lora Kate. Khi vấn đề liên quan tới cháu bé, cô ấy làm hết sức cẩn thận.” Đáng lẽ tôi có thể giúp anh để dành được nhiều tiền hơn nhưng anh một mực đòi gửi cho cậu con trai nhỏ mức trợ cấp hàng tháng lớn hơn nhiều số tiền tòa án đã phán quyết. Năm hay sáu năm, anh mới được gặp con trai một lần, và có hôm anh nói với tôi, “Tôi muốn cháu sống với tôi một năm, nhưng ở đây làm gì có trường học?”
Bản thân Holt được học hành đến nơi đến chốn, được hưởng nhiều điều kiện thuận lợi từ việc đó. Tại trường Laramie High ở miền Đông Wyoming, anh đã may mắn được gặp một thầy vật lý giỏi dạy anh điện tử cao cấp trong một câu lạc bộ sinh hoạt sau giờ học, vì vậy năm mười bảy tuổi, khi Holt khai man tuổi để gia nhập hải quân, người ta đã nhận anh ngay, cho anh làm chuyên viên thông tin liên lạc. Tại Iwo Jima, anh bám trụ tại bờ biển điều khiển hệ thống radio kiểm soát tàu bè cập bến; tại Okinawa, anh được nhận nhiều huân huy chương vì lòng dũng cảm.
Đại chiến Thế giới II kết thúc, anh mới mười chín tuổi và đang chuẩn bị đổ bộ vào Nhật Bản theo làn sóng tấn công thứ nhất. Tính cách của anh đã hình thành và thay đổi rất ít trong những năm sau này: lầm lì, dũng cảm, tài giỏi. Từ cuối là quan trọng nhất: “Tôi kính trọng những người thạo việc.” Đúng như dự đoán, chiến tranh Triều Tiên nổ ra, anh tình nguyện gia nhập binh chủng lính thủy đánh bộ, dù đơn vị của anh không nằm trong kế hoạch điều động, và khi đang phục vụ ở phía Bắc Seoul, anh được biết tin về vụ ly dị. Một tuần sau, anh được thăng cấp đại úy, vì vậy hai sự việc coi như bù đắp cho nhau.
Sau thời gian ở Thổ Nhĩ Kỳ, tôi còn gặp anh tại nhiều địa điểm ở nước ngoài: Sumatra, Thái Lan, sa mạc phía Tây nước Úc, đáng nhớ nhất là Afghanistan, nơi tôi gặp anh lần gần đây nhất trong ngôi nhà ngăn nắp, tấm thảm da hổ trên sàn, dàn hi-fi vĩ đại đang chơi bài “A String of Pearls”, trong bếp là cô thư ký xinh đẹp của đại sứ quán Iraq đang giúp anh chuẩn bị bữa tối, đập ngay vào mắt khi bạn bước vào cửa, một tấm biển mà khách không bao giờ quên được:
Hiện tại bạn đang ở
KABUL, AFGHANISTAN
34° 30’ Bắc 69° 13’ Đông
Nếu bay dọc đường vĩ tuyến này theo hướng Đông, bạn sẽ nhìn xuống Malakand, Xiêm, Thiều Châu, Hiroshima, Santa Barbara, Prescott, Little Rock, Wilmington, Bắc Carolina, Fez, Limassol Homs, Herat, Kabul.
Nếu bay dọc theo đường kinh tuyến này lên phương Bắc, bạn sẽ nhìn xuống Tashkent, Petropavlovsk, Bắc Cực, Medicine Hat, Great Falls, Tucson, Guaymas, Nam Cực, Đảo Kerguélen, Bhuj, Kabul.
Harvey Holt khăng khăng phải biết mình đang ở đâu.
—★—Tôi từng nghe lập luận kỳ cục rằng chính các đại diện kỹ thuật đã tạo điều kiện cho Hoa Kỳ có cuộc sống tốt đẹp. Tức là theo nghĩa đen, có hàng nghìn công ty Mỹ không làm được gì hơn bán hòa vốn cho khách hàng ở Hoa Kỳ. Mức lợi nhuận của họ do lượng tiêu thụ ở nước ngoài quyết định. Và họ không thể bán hàng ra nước ngoài nếu không cung cấp các chuyên gia giỏi kỹ thuật để bảo đảm cho sản phẩm vận hành.
Chúng ta hãy xem xét từng ý kiến một. Một hãng tủ lạnh mà tôi biết - hay có thể là một hãng xe hơi hay công ty sản xuất thiết bị thông tin liên lạc - có thị trường tại Hoa Kỳ cho một trăm nghìn đơn vị sản phẩm. Nhưng do cạnh tranh, giá cả vật liệu và thang lương, công ty đó không lãi một xu với sản lượng ít như vậy. Do đó, với khoản phụ trội không đáng kể cho việc hoạch định tổng chi phí, và với phí tổn nguyên liệu thô và nhân công đã được giảm thiểu, công ty sản xuất thêm một trăm nghìn sản phẩm nữa, đem bán ở nước ngoài. Bỗng nhiên hoạt động này lại có lãi và mọi người đều có lợi hơn - người tiêu dùng Mỹ, người lao động Mỹ, công ty vận tải biển Mỹ, nhà đầu tư Mỹ và người tiêu dùng nước ngoài, riêng thành phần cuối cùng này được mua sản phẩm chất lượng cao với giá bằng một phần mười số tiền anh ta phải trả nếu có người thử cung ứng nó tại địa phương.
Hãy tạm quên một thực tế là để tạo điều kiện cho người nước ngoài mua được tủ lạnh, chúng ta đã đưa tiền cho họ thông qua con đường viện trợ nước ngoài. Một cá nhân hay một quốc gia phải sử dụng tiền của mình vào việc gì đó chứ. Và ngoài ra, chín mươi xu của mỗi đồng đô la ấy lại quay về tay chúng ta - thế thì có ai thiệt thòi đâu? Tôi nghĩ có lẽ anh sẽ rất ngạc nhiên nếu biết rằng biết bao nhiêu thứ anh có thể mua được là do lợi nhuận trong sản xuất đã được bảo đảm bởi số lượng tiêu thụ ở nước ngoài.
Người đại diện kỹ thuật có vai trò gì? Tôi nhớ lại những năm năm mươi, khi thị trường ở nước ngoài hầu như là của riêng chúng ta... à, chúng ta và người Anh. Sau đó người Nhật láu cá bắt đầu chen chân vào, nhưng thành thực mà nói, thời kỳ đó sản phẩm của họ không được bền chắc lắm - máy móc thì mau hỏng; linh kiện thì khó kiếm... và bao nhiêu nhân công ở Pakistan nói được tiếng Nhật chứ?
Chính người Đức - tức là người Tây Đức - cùng người Thụy Điển và đặc biệt là người Thụy Sĩ đã thay đổi tất cả. Trước tiên họ sản xuất máy móc chất lượng cao - không khá hơn sản phẩm của chúng ta và người Anh, nhưng cũng rất tốt. Thế thì khác nhau ở chỗ nào? Họ đảm bảo với bất kỳ khách hàng nào ở các nước chậm phát triển, “Nếu cỗ máy này hỏng vào ngày thứ Hai - đã là máy móc thì phải hỏng hóc thôi, như các vị đã biết qua kinh nghiệm với máy Mỹ - các vị điện cho chúng tôi và chúng tôi sẽ đưa một người lên máy bay trong vòng hai giờ và anh ta sẽ có mặt ở chỗ các vị vào tối thứ Ba để giải quyết vấn đề của các vị.” Và họ đã thực hiện đúng như vậy. Họ đã cho chúng ta thấy một cách tiếp cận quan hệ công nghiệp hoàn toàn mới. Chắc hẳn họ phải chi một triệu đô la cho các chuyến đi bằng máy bay, nhưng lại thu được mười triệu từ việc đó, bởi vì tin tức lan truyền, “Ông mua hàng của Đức thì họ sẽ bảo hành tốt cho máy móc.”
Thế còn người Mỹ? Vậy đấy, những năm đó các chàng trai của chúng ta khá là hống hách. Họ đã bán hàng chất lượng cao rồi, và nếu có trục trặc ấy chỉ là tại bọn ngu đần không biết điều khiển thôi. Bao giờ rảnh rỗi, chúng ta sẽ cử ai đó đến giải thích thêm. Hồi đó chúng ta ngạo mạn lắm.
Người Anh thì sao? Nói mà buồn thay. Họ biết tay nghề công nhân trong các nhà máy của họ cao nhất thế giới, đạo đức kinh doanh của họ tốt nhất, nhân viên hiện trường trong vai trò đại diện là đáng tin cậy nhất - vì vậy nếu một thằng ngố chết tiệt nào đó ở Miến Điện hay Pakistan làm hỏng máy móc, bọn chúng nhất định có thể tự giải ngố được nếu không thì cứ chờ cho đến khi ai đó ở London ngẫu nhiên đáp tàu chạy hơi nước của hãng P. and O. đến. Tôi còn nhớ rõ một kỹ thuật viên người Anh từng làm việc cùng tôi trong một dự án ở Hyderabad. Một công nhân Ấn Độ nhận ra mình không thể dùng vặn vít để lựa đinh vít vào đúng vị trí, vì vậy anh ta mới lấy búa đập nhẹ. “Lạy Chúa tôi!” người Anh kia kêu lên căm phẫn và giành lấy búa, vung lên trước đôi mắt sững sờ của anh công nhân. “Anh không biết người ta gọi cái này là gì sao?” anh ta hỏi bằng một giọng mỉa mai lạnh lùng. “Một cái vặn vít của Mỹ.” Sau đó anh ta làm một bài lên lớp ngắn cho người công nhân kia về sự giảm sút của trình độ lành nghề đáng tin cậy trên khắp thế giới và cảnh cáo người đó không bao giờ được dùng búa đóng đinh ốc vào máy móc của Anh nữa. Chỉ người Mỹ mới làm thế. Sau đó ở khách sạn, anh nói với vẻ buồn phiền thực sự về nỗi đau lòng mà anh cảm thấy khi phải chứng kiến tình trạng tay nghề có trách nhiệm cao giảm sút đều đều. “Chẳng trách cái máy chết tiệt ấy bị hỏng. Đời thủa nhà ai lại đi vặn đinh vít bằng búa cơ chứ!”
Trong khi đó người Đức, Thụy Điển và Thụy Sĩ lại bay ngay đến để lo giữ cho máy móc của họ chạy tốt, và nếu phát hiện một người Ấn Độ lấy búa đóng đinh vít, họ sẽ đề xuất với trụ sở chính là có lẽ cái đinh vít đặc biệt ấy nên được thay bằng một thứ gì đó tốt hơn để người ta có thể dùng búa cố định.
Bất cứ ý nghĩ nào tôi từng có cho rằng sản phẩm của Mỹ nhất định phải tốt hơn do quyền năng thiêng liêng nào đó của nền công nghiệp Mỹ đều tan biến khi tôi quan sát những người Đức ấy. Họ không chỉ sản xuất những sản phẩm tuyệt hảo mà còn biết cách làm cho khách hàng hài lòng, và sau khi bắt đầu mất thị trường trên khắp thế giới, chúng ta mới nghĩ ra giải pháp của mình cho vấn đề ấy. Chúng ta sẽ không cử chuyên gia bay từ New York đến. Chúng ta sẽ có chuyên gia sống ngay tại hiện trường. Nếu Đức có thể cung cấp sự hỗ trợ trong vòng hai ngày thì chúng ta sẽ làm việc đó trong hai giờ.
Đó chính là cách để các đại diện kỹ thuật từng trải và cô đơn của chúng ta trở thành một bộ phận chức năng của hệ thống Mỹ. Nếu một hộ gia đình ở Des Moines, bang Iowa, được ngủ yên nhờ một anh lính Mỹ nào đó đang đứng gác dọc theo tuyến DEW[82] thì cũng chính hộ gia đình đó được mua nhiều hàng hóa với giá hời vì một kỹ thuật viên người Mỹ nào đó ở Sumatra hay Peru đang góp sức giữ cho công ty của mình có thể đứng vững. Đường biên giới không bao giờ ở nơi chúng ta tưởng, những người có năng lực nên canh gác đường biên giới ấy thì hơn.
Hãy xem thời gian Harvey Holt còn lại một mình ở trung tâm Sumatra để duy trì hệ thống thông tin liên lạc mà UniCom đã lắp đặt cho chính phủ Indonesia. Anh được cử làm việc tạm thời tại Simpang Tiga, sân bay gần Pakanbaru, tìm cách giải quyết trục trặc nào đó phát sinh tại một trạm tiếp âm nằm cao trên một quả đồi nhỏ có đỉnh nhìn xuống rừng rậm. Nhiệt độ là 38, độ ẩm 100 phần trăm. Thiết bị thông thường bị gỉ sạch trong hai tháng đầu và phải thay bằng thép không gỉ.
Khi Holt tổ chức một đoàn đi bộ để đưa anh từ Pakanbaru đến trạm trên đồi, một vài công nhân đứng tuổi người Sumatra khuyên anh, “Nên mang theo một người đi săn chuyên nghiệp thì hơn.” Anh đáp, “Tôi có súng rồi,” vì vậy họ đành nhún vai và lo lắng tiễn anh lên đường.
Hoàng hôn ngày thứ nhất, đoàn người nghe thấy một tiếng thét kinh hoàng, và giật mình ngoảnh lại đúng lúc thấy người đi cuối hàng bị một con hổ chắc phải dài đến ba mét tính từ mũi đến móng chân sau cào phăng mặt. Các vị thấy đấy, phần lớn những người đến xem hổ trong vườn thú chỉ để ý những cái răng to tướng và nói, “Nó cắn đứt đôi một người lớn dễ như bỡn.” Không phải như vậy. Vấn đề là con hổ đã lẻn đến vồ con mồi từ phía sau. Người ta tuyệt đối không thể nghe thấy tiếng con hổ tiến đến gần. Rồi, với một cú nhảy mạnh áp đảo, con hổ lăng vuốt chân phải về phía trước, khoanh vòng quanh mặt nạn nhân, trong khi vuốt trái cắm sâu vào vai trái và cổ họng. Với đòn hung bạo thứ nhất, con hổ xé toạc cả mặt lẫn hai con mắt của mục tiêu, hủy hoại hoàn toàn hai bộ phận này. Với đòn thứ hai, nó giật đứt khí quản cùng một số mạch máu chủ trên vai. Với bộ răng, tất nhiên, nó ngoạm vào cổ, nhưng việc này không cần thiết vì chính cái tát mạnh mẽ bằng vuốt mới gây ra cái chết. Trong khoảng ba mươi giây đồng hồ sau khi bộ vuốt cào trúng, mục tiêu đã chết, và đêm hôm đó con hổ kéo lê anh công nhân vào rừng rậm trước khi Holt kịp quay lại với cây súng.
Lúc ấy trời đã chạng vạng, vì hổ báo thường thích săn bắt khi màn đêm buông xuống. Thế rồi, do tình thế thôi thúc, Holt quyết định ngay những gì phải làm. Anh tập hợp công nhân lại để dựng trại và dặn họ chú ý giữ cho lửa cháy. Anh sẽ đuổi theo con hổ. Họ cảnh báo anh là không ai có thể theo dấu hổ vào ban đêm, nhưng anh đáp, “Tôi sẽ không theo dấu nó.”
Anh tự tắt đèn, phát hiện vết máu trong ánh sáng mờ nhạt, liền lần theo con đường gồ ghề mà con hổ đã kéo xác anh công nhân. Khi vết máu biến mất trong rừng sâu, Holt không chú ý đến nó nữa mà tiếp tục bám sát con đường anh vẫn theo từ đầu. Cuối cùng, anh đến một khoảng rừng thưa nhỏ, nơi cỏ dại thay thế cho cây cối rậm rạp. Tại đó, dưới ánh sáng cuối cùng trong ngày, anh quan sát xung quanh và chọn một cái cây có cành tạo thành một chạc đôi cách mặt đất khoảng ba mét rưỡi. Người nhễ nhại mồ hôi, tay trầy xước vì vỏ cây xù xì, anh leo lên cái bệ thô sơ đó, bám thật chắc, và còn phòng xa dùng thắt lưng buộc đầu gối vào một cành cây to để ngay cả khi ngủ gật cũng không thể rơi xuống được. Rồi anh bắt đầu chờ đợi.
Anh nắm chặt cây súng trong tay phải, đèn pin chắc nịch trong tay trái, và suốt mấy giờ đồng hồ trước nửa đêm anh lắng nghe những âm thanh hoang dã của ban đêm nổi lên trong rừng rậm Sumatra. Anh nhận ra tiếng lợn rừng, tiếng chim đêm và côn trùng. Anh đoán rằng chuyển động hầu như không một tiếng vang phát ra từ cái cây gần chỗ anh chắc hẳn là do một con rắn, nhưng vùng này không có rắn độc nên anh không quan tâm lắm.
Tiếng động mà anh mong ngóng, tiếng gầm gừ thỏa mãn của một con hổ no nê lần mò về hang sau bữa tiệc vừa ý, đêm hôm đó anh không nghe thấy, vì vậy khi trời hửng sáng anh bèn tháo thắt lưng buộc đầu gối, tụt xuống đất và nằm dưới bóng cây đánh một giấc mấy tiếng đồng hồ liền, hài lòng là con hổ hẳn cũng đang ngủ. Buổi chiều, anh trải qua một phen khốn khổ khi nhận thấy lũ côn trùng đang thám hiểm khắp người mình. Hơi nóng không sao chịu nổi. Mồ hôi chảy thành dòng xuống lưng anh như nước lũ rút khỏi thành phố. Anh không có nước mà cũng không liều mạng đi kiếm được vì trông thấy lũ kền kền lượn vòng trên cao rình rập hòng xâu xé phần thịt người chết, việc này chứng tỏ con hổ đã bỏ cái xác lại và đang lang thang đâu đây trong rừng rậm.
Holt tin chắc là con hổ, sau khi no bụng, sẽ không tấn công nhóm công nhân lần nữa nhưng nó sẽ rời khỏi rừng sâu và lộn lại đến khoảng rừng thưa rồi băng qua đó để đi tiếp đường cũ về phía bên kia. Anh đoán nó sẽ đi qua bãi trống này ngay sau nửa đêm.
Tại sao Holt biết được điều này? Bất kể được cử đến công tác ở đâu, anh đều tận dụng tối đa cơ hội tìm hiểu địa hình và dân địa phương. Anh có đức tính ham hiểu biết không bao giờ thỏa mãn, cộng thêm khả năng hấp thu và hiểu thấu kiến thức thực nghiệm. Từ những ngày đầu ở Sumatra, khi các trung tâm thông tin liên lạc và trạm tiếp âm khác nhau đang được xây dựng, anh đã bị loài hổ hấp dẫn, và mặc dù chưa bắn hạ được con nào, anh hiểu rõ cần phải có những gì để làm được như vậy. Anh tin chắc vào ý kiến của mình về loài hổ cũng ngang với đánh giá của mình về ống điện tử radio: “Nếu anh có nơi ẩn náu cao hơn ba mét rưỡi, cành cây sẽ vướng đường ngắm. Thấp hơn thì con hổ có thể tóm được anh khi nó vồ lấy đèn.”
Vì vậy lúc nhá nhem tối Holt lại leo lên chạc cây cách mặt đất ba mét rưỡi - trong tình trạng mệt mỏi, nhớp nháp mồ hôi, ngứa ngáy bởi những vết côn trùng đốt và môi miệng khô khốc vì khát. Đó là sáu tiếng đồng hồ dài dặc trước nửa đêm, và anh đã ngủ lơ mơ hai lần, nhưng chiếc thắt lưng cài chặt giữ anh ngồi vững.
Khoảng nửa đêm, những tiếng động lúc này đã quen thuộc càng quấy rối anh, nhưng tai anh vẫn phải căng ra ngóng đợi dấu hiệu duy nhất không thấy đâu. Chẳng có con hổ nào. Hai giờ sáng, chợt có tiếng động lạ, nhưng đó chỉ là con vật nhỏ hơn nào đó đang bận tâm đến những vấn đề của bản thân. Bốn giờ, con hổ vẫn bặt tăm và Holt đã bắt đầu buồn ngủ trĩu người, nhưng đến năm rưỡi, ngay trước lúc bình minh, anh nghe thấy một tiếng gầm hoang dã, như thể con hổ phởn phơ đang chuyện trò với chính mình, và khi tiếng gầm gần hơn, Holt lại bắt đầu toát mồ hôi.
Chính là con thú ấy, đáng sợ nhất trong số những con vật ăn thịt người, và nó sắp đi qua cái cây, đúng như Holt dự đoán. Đêm rừng đặc quánh đến nỗi ngay cả cái bóng một vì sao in xuống cũng không lộ rõ, vì vậy mánh khóe là phải chờ cho đến khi nó đến gần khoảng rừng thưa, rồi, với nòng súng và đèn pin trong tay trái, làm lóa mắt con thứ bằng ánh sáng bật lên bất thình lình. Trong một khoảnh khắc, con hổ sẽ đứng sững, ngơ ngác trước cuộc chạm trán bất ngờ, và chính lúc ấy, anh phải bắn thẳng vào tim con vật, đập tan sức mạnh của nó. Nếu anh bắn trượt, con hổ bị thương sẽ lần theo dấu vết anh và không bao giờ bỏ cuộc cho đến khi nó chết vì mất máu hoặc tìm thấy anh và giết anh.
Holt nổ súng và bắn trượt. Giá có sự chuẩn bị để bắn từ trên cây xuống, anh sẽ bố trí thiết bị giữ đèn pin, để rảnh cả hai tay sử dụng súng. Hoặc anh sẽ tìm một người giúp điều khiển ánh sáng. Còn như tình huống này, khi đèn bật, anh cũng giật mình hoảng sợ chẳng kém gì con hổ, vì ngay bên dưới anh là con thú khổng lồ, vằn vện và ghê rợn những răng cùng vuốt, đang gầm lên. Cây đèn pin vô tình va phải nòng súng, bèn trượt đi, và khi cố nắm nó chắc hơn, tay trái Holt hơi rung rồi mất tự chủ, thế là phát đạn lạc đi đâu mất. Ngay lập tức, anh vội nắm chặt đèn pin và khẩu súng rồi bắn lần nữa, nhưng lúc này con hổ đã chồm lên và viên đạn găm vào vai trái nó. Lực của viên đạn cũng đủ mạnh để đẩy lùi con vật đang giữa đà nhảy, nhưng lại không trúng vào điểm chí tử, Holt nghe thấy con thú điên cuồng lăn lộn giữa những đám cây con và bụi rậm trong khi tìm nơi ẩn náu trong rừng sâu.
Holt không bao giờ kể anh nghĩ gì trong giây phút nguy ngập ấy, nhưng tôi có thể suy ra được qua hành động của anh. Mặc dù trời vẫn chưa sáng, anh tháo thắt lưng, cẩn thận luồn qua đỉa quần, giấu cây đèn pin phiền phức đi và thận trọng tụt từ trên cây xuống. Anh bước chầm chậm vòng quanh thân cây, chú ý để lưng lúc nào cũng quay vào phía trong, mặt lúc nào cũng xoay về hướng phát ra tiếng gầm dữ tợn của con hổ. Anh hy vọng con thú sẽ tấn công mình, nhưng cũng biết là cùng với bình minh tới, con thú khổng lồ sẽ thấy tốt hơn hãy tạm rút lui để liếm vết thương, sau đó sẽ quay lại xử lý con người kia.
Trong ánh bình minh mờ nhạt đầu tiên, Holt nhìn rõ vệt máu mà mình phải dò theo. Anh không bao giờ nảy ra ý nghĩ mình còn có lựa chọn nào khác. Nguyên tắc của mọi vùng định cư ở Sumatra hay Malaya hay Miến Điện hay Ấn Độ, nơi hổ báo thường rình mò, rất rõ ràng: “Khi đã làm một con hổ bị thương, anh phải tìm và giết nó. Nếu anh không làm được, nó sẽ giết sạch toàn bộ dân làng.”
Suốt cả ngày hôm đó Harvey Holt kiên trì bám theo con thú bị thương, mỗi lúc một thêm thận trọng, vì anh biết khi con hổ đã bình tĩnh lại sau cơn choáng váng vì bị trúng đạn cỡ lớn, tính xảo trá của nó cũng sẽ phục hồi, và cơn điên cuồng khao khát trả thù cũng tăng thêm. Gần đến giữa trưa, Holt nhận ra con hổ đã chuyển từ vai trò bị săn đuổi sang vai trò đuổi bắt.
Buổi chiều nóng bức ngột ngạt ấy, trong hoàn cảnh không có thức ăn và không có cơ hội đến gần suối để khỏi bị hổ vồ, là khoảng thời gian cực kỳ khổ sở đối với Holt, về chuyện này, vài năm sau anh có kể cho tôi nghe vài lần: “Làm sao tôi biết nó vẫn lẩn quẩn ở đó ư? Tôi cảm thấy nó ở đó. Nhưng tất nhiên nó có lợi thế. Nó nghe thấy tôi mà!”
Khi trời sắp chạng vạng, Holt có cảm giác hoang mang sợ hãi lần đầu tiên. Nếu không chạm trán với con thú trong một vài phút trời còn sáng, anh có thể làm được gì trong bóng tối? Con hổ có bỏ đi một cách đơn giản và biến mất trong rừng sâu không? Thế thì Holt làm sao theo dấu nó?
Nỗi lo con hổ có thể bỏ mặc anh hóa ra lại vô căn cứ, vì khi màn đêm buộc anh phải trèo lên một cái cây khác, con thú đã đi theo anh, nhưng lấp đầy không gian đêm trống trải bằng vô số tiếng gầm đáng sợ. Nó biết rằng đến sáng con người kia sẽ phải xuống đất để sa vào hàm răng đang nhe ra và móng vuốt đang giương sẵn của mình. Suốt đêm con thú dữ lồng lộn gầm thét, nhưng điều làm cho cảnh tượng có vẻ ma quái là mỗi khi Holt có cơ hội rọi đèn pin, hy vọng bắn một phát vào con thú, cây cối hay bụi rậm lại cản trở, thành ra Holt nhìn thấy hình thù vằn vện nhưng không nổ súng được vì cành lá sẽ làm viên đạn chệch hướng. Và con hổ sẽ tránh ra chỗ khác như một bóng ma hung hiểm.
Bấy giờ lại đến lượt cơn đói hành hạ, và cả cơn khát. Hai lần Holt có cảm tưởng như mình phải nhảy từ trên cây xuống để đi tìm nước; thậm chí anh còn thử thúc đầu gối vào thắt lưng xem có làm nó đứt được không. Qua những mẩu chuyện mà sau này được nghe Holt kể, tôi đoán chắc hẳn anh đã bị mê sảng phần lớn thời gian, hay ít nhất cũng bị những âm thanh và hình ảnh mà anh không kiểm soát được quấy nhiễu, nhưng bất cứ hành động hấp tấp nào anh dự tính cũng bị tiếng gầm gừ của con hổ chặn lại. Và đêm cứ trôi qua như vậy.
Bình minh lên, con hổ sẽ thành mục tiêu lồ lộ cho người đi săn, vì vậy nó bỏ đi, và một lần nữa Holt lại cẩn thận luồn thắt lưng vào đỉa quần, giấu đèn pin, và tụt xuống để thực hiện công việc cực kỳ ghê sợ mà anh vẫn phải đương đầu. Suốt cả buổi sáng, người và thú lượn đi lượn lại hết vòng này đến vòng khác một cách thận trọng và quyết tâm, bên nào cũng cố gắng bắt được đối thủ trong thế có lợi cho mình. Holt có hai viên đạn cỡ lớn trong nòng súng. Con hổ có hai bộ vuốt mà cơn đau buốt nhói dội lên từng đợt và truyền dọc xuống thân bên trái làm cho lợi hại gấp đôi. Không một tia nắng nào lọt được qua vòm lá và dây leo chằng chịt trĩu nặng phía trên những nơi hai đối thủ rình rập nhau. Có một lần Holt phải khụy xuống bên một dòng suối phủ kín lá rụng để uống nước vì anh sắp chết khát, nhưng vừa mới hớp vội được có mấy ngụm dè dặt thì đã cảm thấy sau lưng có gì đó lay động, thế là anh buộc phải đứng lên bước tiếp.
Giữa trưa, độ ẩm trong rừng trở nên không chịu nổi. Một lần Holt từng hỏi tôi: “Làm sao một người sắp chết khát lại đổ mồ hôi nhiều đến thế được nhỉ?” Hai lần trong khoảng thời gian đó dường như anh sắp lả đi, nhưng mối nguy hiểm rình rập phía sau bức màn lá cây rậm rịt đã giữ cho anh tỉnh táo.
Và rồi gần đến giữa buổi chiều, cái nóng gay gắt đã dịu đi một chút, Holt bất ngờ gặp một dòng suối thứ hai, và anh đã bị mất nước nhiều đến nỗi không thể tự kiềm chế lâu hơn được nữa mà phải ngã sấp xuống uống ừng ực. Anh vừa làm vậy, con hổ, đang chăm chăm trông đợi chính khoảnh khắc đó, nhờ tính xảo quyệt ở động vật mà hiểu được rằng một người hoạt động liên tục như vậy, đổ mồ hôi nhiều như vậy, tất sẽ phải uống nước, lập tức phóng vụt ra khỏi nơi ẩn nấp bên bờ suối, nhảy vọt lên ba bước dài phi thường, hạ xuống với bộ vuốt xòe rộng và hàm răng nhe sẵn để rồi đối mặt với nòng một cây súng cỡ lớn vừa đột ngột xoay đúng vị trí vào phút chót.
Một tiếng nổ chát chúa vang lên, rồi đến tiếng thứ hai. Không hề hoảng sợ, Holt bắn thẳng vào ức con hổ đang chồm đến, và tay anh nắm chắc cây súng đến mức viên đạn thứ hai trúng gần như đúng vị trí của viên đạn thứ nhất, phá vỡ cấu trúc xương của con thú to lớn và làm nổ tung quả tim của nó.
Bộ móng vuốt, như được ý chí của bản thân tiếp thêm sinh khí, vẫn điên cuồng cào Holt, nhưng đều trượt. Cái đầu đồ sộ, với bộ ria tua tủa và những đường vằn nhăn nhúm dữ tợn, lao vào mặt Holt sát đến nỗi anh có thể cảm thấy răng của nó sượt qua vai mình. Trong lúc giãy chết, thân nó rơi ngang qua người anh, máu phọt ra vấy bẩn quần áo anh. Và trên các cành cây quanh đó, chim chóc và khỉ ríu rít bàn tán về sự kiện lạ lùng mà chúng vừa được chứng kiến.
—★—Như các bạn hẳn đã đoán được, Harvey Holt yêu thích hệ thống hi-fi. Anh yêu bản thân âm nhạc, nhưng vì còn là một chuyên gia điện tử, nên anh lại càng say mê tính kỹ thuật của thiết bị có độ trung thực cao. Anh lắp đặt nhiều bộ dàn cho người ta đến nỗi thỉnh thoảng một chuyến bưu kiện chuyển tới, sau khi nằm hàng tuần tại một kho phân phối chính nào đó, sẽ chứa khoảng nửa tá bộ phận mà anh đặt mua giùm bạn bè tại bất cứ đất nước nào anh đang công tác trong thời gian đó.
Bộ dàn của anh mà tôi thường được nghe hồi ở Afghanistan là một kiệt tác đáng giá hơn ba nghìn đô la nhiều. Anh có amply Marantz đặt mua ở Mỹ, bốn thùng loa phóng thanh đa hướng từ London, một đế xoay đĩa hát Mirachord lắp đặt đặc biệt tại Đức, máy ghi âm Roberts với một số bộ phận lắp thêm ở Nhật, và đủ loại thiết bị phức tạp khác của Thụy Điển và Pháp. Anh có khoảng chừng hai mươi bảy núm điều chỉnh và đĩa số mà anh có thể tha hồ vặn vặn xoay xoay, cho nên bộ dàn của anh có thể phát ra tiếng rì rầm hoặc âm thanh với sức mạnh của một cơn bão. Anh không thích bạn bè đụng đến bộ dàn của mình - nó quá phức tạp cho bất cứ ai không thành thạo - nhưng anh lại vui lòng giải thích hàng giờ nếu có người quan tâm.
Holt không được nhiều người yêu mến lắm. Cảm phục thì có. Yêu mến thì không. Nhưng anh đã làm một việc khiến các fan âm nhạc trong vùng quý trọng. Anh sưu tập từ nhiều nguồn những đĩa hát hay nhất sẵn có. Cổ điển, rock-and-roll, đồng quê, soul - bất kỳ thể loại nào. Anh thích dùng những đĩa hát mới được bật chỉ một hai lần, và vì khá nhiều người ở nước ngoài du nhập những đĩa hát tuyệt vời của công ty Sam Goody hay cùng công ty ấy ở Copenhagen cho nên khá dễ dàng thu thập mẫu tiêu biểu của bất cứ thể loại âm nhạc nào. Sau đó Holt sẽ chuyển biên những đĩa ấy sang băng từ ch?