← Quay lại trang sách

Phần 3 Chương 24 GIÓ LỐC

Tôi mau chóng tìm được việc làm. Đây là công việc nghiên cứu thuộc loại đem lại lợi ích cho sinh mệnh mà không có tác dụng quân sự như tôi từng nói với Cao Ba: Dự báo gió lốc. Mùa hè năm ngoái, tôi và Giang Tinh Thần đã tận mắt chứng kiến cơn lốc xoáy ở hòn đảo nhỏ đó, kỷ niệm để lại rất sâu sắc. Khi sử dụng hệ thống quang học do thám eletron vĩ mô, tôi đã nhìn thấy nhiễu động khí quyển hiện lên rất rõ trên màn hình, và nhanh chóng nghĩ tới việc hệ thống này có thể tạo ra đột phá trong dự báo gió lốc. Hiện tại, giới Khí tượng học đã có hiểu biết sâu về cơ chế Khí động học của quá trình hình thành gió lốc, tạo ra được một mô hình toán học hoàn thiện về quá trình này. Nếu tôi có thể kết hợp mô hình này với sự nhiễu động khí quyển được hệ thống do thám tìm được thì sẽ phán đoán được các nhiễu động khí quyển có khả năng phát triển thành gió lốc, tiến thêm bước nữa là dự báo được gió lốc.

Cao Ba đã giải quyết được trở ngại lớn nhất của dự án này: Chuyển giao kỹ thuật do thám quang học không bào cho bên dân dụng. Sau khi ông liên hệ với quân đội, quá trình diễn ra dễ dàng hơn tưởng tượng rất nhiều, bởi hệ thống này không liên quan trực tiếp đến sét hòn, quân đội rất nhanh chóng đồng ý việc chuyển giao kỹ thuật.

Sau khi quay trở về từ Tổng cục Vũ trang, Cao Ba nói tôi liên hệ trực tiếp với hai đơn vị cùng nghiên cứu về hệ thống do thám không bào. Họ là những người nghiên cứu về phần mềm và phần cứng của hệ thống, đều là những cơ quan địa phương, không có bất kỳ mối liên hệ gì với căn cứ hiện tại. Tôi hỏi Cao Ba về tình hình của căn cứ, ông nói mình chỉ hỏi han bên phòng quản lý của dự án thuộc Tổng cục, chưa từng liên hệ với căn cứ. Ông ấy nghe nói cấp độ bảo mật của căn cứ đã được nâng lên rất nhiều. Bây giờ, căn cứ coi như đã cắt đứt mọi liên lạc với thế giới bên ngoài. Tôi nghĩ về tình thế hiện tại, điều này cũng có lý. Tôi nhận ra một điều rằng mình vẫn nghĩ về họ trong suốt thời gian qua.

Dự án nghiên cứu của tôi tiến triển rất nhanh vì độ chính xác cần có để phát hiện ra nhiễu động khí quyển thấp hơn so với yêu cầu do thám không bào. Thế nên, hệ thống do thám quang học vừa mới chuyển tới đã có thể dùng ngay, thậm chí do hạ thấp độ chính xác nên phạm vi do thám được mở rộng thêm một cấp. Tất cả những gì tôi cần làm là dùng mô hình toán học thích hợp để phán đoán đối với những hình ảnh thu được về nhiễu động khí quyển, nhận biết những nhiễu động có khả năng trở thành gió lốc (Sau này, các nhà chuyên môn thường gọi những nhiễu động này là “noãn”). Trong những ngày đầu nghiên cứu sét hòn, tôi dồn rất nhiều tâm sức vào việc xây dựng các mô hình toán học. Đây là con đường vòng từng có một thời gian khiến tôi không chịu nổi, nhưng hiện tại xem ra cũng không vô ích. Tôi có được khả năng lập các mô hình toán học trong lĩnh vực Động lực học chất khí và chất lỏng, những thứ này đã phát huy tác dụng vô cùng to lớn trong lần nghiên cứu này, khiến phần mềm của hệ thống do thám gió lốc nhanh chóng được hoàn thành.

Chúng tôi thử nghiệm hệ thống này ở tỉnh Quảng Đông, nơi hay xảy ra lốc xoáy và dự báo thành công vài lần. Trong đó, có một lần thành công chỉ cần quét qua một góc của thành phố Quảng Châu. Hệ thống này có thể đưa ra cảnh báo sớm từ mười đến mười lăm phút, chỉ đủ để sơ tán người dân tới nơi an toàn trước khi gió lốc xuất hiện, không có cách nào tránh được các tổn thất khác. Nhưng trong giới Khí tượng, hệ thống này đã là một thành tựu rất lớn rồi. Trên thực tế, dựa vào nguyên lý của Chaos*, dự báo dài hạn gió lốc là chuyện không thể.

Thời gian trôi đi rất nhanh trong bộn bề công việc, mới chớp mắt mà một năm đã trôi qua. Năm qua, tôi đã tham gia Đại hội Khí tượng thế giới bốn năm tổ chức một lần và giành được đề cử trong danh sách năm người của Giải thưởng IMO, được mệnh danh là giải Nobel trong lĩnh vực Khí tượng học. Sau cùng, tôi không giành được giải do các nguyên nhân liên quan đến lý lịch nhưng như vậy cũng đủ để thu hút sự chú ý của giới Khí tượng.

Một địa điểm phụ của Hội nghị học thuật Quốc tế về Xoáy thuận nhiệt đới được tổ chức ở Oklahoma Bắc Mỹ nhằm giới thiệu thành quả nghiên cứu gió lốc. Nơi đây có một hành lang gió lốc nổi tiếng, bộ phim “Twister” có nội dung về nghiên cứu gió lốc đã lấy nơi đây làm bối cảnh.

Mục đích chính của chuyến đi lần này là tham quan hệ thống dự báo gió lốc thực tế đầu tiên trên thế giới. Xe ô tô băng qua những vùng đồng bằng bằng phẳng. Ba khung cảnh thường thấy nhất của Oklahoma là những cánh đồng lúa mì rộng lớn, đồng cỏ và mỏ dầu, lần lượt xuất hiện qua cửa sổ xe ô tô. Khi gần tới địa điểm, Tiến sĩ Ross, người đi cùng chúng tôi ra hiệu kéo rèm xuống.

“Tôi rất xin lỗi, chúng ta đang đi vào một căn cứ quân sự.”

Tôi đột nhiên mất hứng, tự hỏi liệu có phải bản thân sẽ không bao giờ thoát khỏi quân đội và căn cứ quân sự không? Sau khi xuống xe, tôi nhìn thấy không gian xung quanh đều là những công trình tạm bợ, vài cột ăng-ten nhô lên của hệ thống ra-đa, tất cả đều được bọc trong một mái vòm hình cầu lớn. Tôi còn nhìn thấy một thiết bị giống kính viễn vọng thiên văn đặt trên xe, chắc là một máy phát laser công suất lớn nhằm phục vụ do thám quang học khí quyển. Sau khi bước vào phòng điều khiển, tôi nhìn thấy một dãy máy tính quân sự màu xanh đậm quen thuộc. Những người thao tác đều đang mặc quân phục rằn ri quen thuộc, chỉ có thứ duy nhất xa lạ chính là màn hình plasma siêu lớn có độ phân giải cao. Ở trong nước, chúng tôi hầu như không thể có được thứ này, đa phần đều dùng máy chiếu.

Trên màn hình lớn là hình ảnh nhiễu động của khí quyển mà hệ thống do thám quang học khí quyển thu thập được. Thành quả của việc chuyển nhượng này đã kiếm được rất nhiều tiền cho Sở Sét của Cao Ba. Hóa ra, những hình ảnh nhiễu động trông rất bình thường trên màn hình nhỏ lại quá đỗi hoàng tráng khi được chiếu trên màn hình lớn. Dòng nước xiết hỗn loạn giống như đám mãng xà khổng lồ đang uốn éo cuồng loạn, mang đến cảm giác sợ hãi và mê muội.

“Thật không thể ngờ, bầu trời dường như trống rỗng lại là một thế giới điên rồ như vậy,” ai đó cảm thán.

Các anh còn chưa nhìn thấy những thứ điên rồ hơn thế đâu, tôi thầm nghĩ. Tôi tỉ mỉ quan sát nhiễu động trên màn hình, cố gắng tìm kiếm không bào của electron vĩ mô. Đương nhiên, tôi không thể tìm thấy được, nhưng trong hình ảnh lớn như này, chắc chắc không chỉ có một không bào được. Chúng chỉ được nhận ra nhờ phần mềm nhận biết hình ảnh thuộc loại tuyệt mật.

“Hôm nay chúng ta có thể nhìn thấy noãn không?” Tôi hỏi.

“Chuyện nhỏ,” Ross trả lời chắc nịch. “Gần đây, gió lốc xuất hiện dày đặc ở Oklahoma và Kansas. Tuần trước, Oklahoma đã ghi nhận kỷ lục lịch sử xuất hiện 124 đợt gió lốc chỉ trong vòng một ngày.”

Để không chậm trễ thời gian thêm nữa, chủ nhà đã tạo một phòng họp ngay trong căn cứ. Hội thảo báo cáo học thuật sẽ tiếp tục tại đây, trong lúc đợi noãn xuất hiện. Những người tham dự còn chưa yên vị trong phòng thì chuông cảnh báo đã vang lên, báo hiệu hệ thống do thám đã tìm thấy một noãn. Mọi người xông vào phòng điều khiển, trên màn hình vẫn là một đống hỗn độn quay cuồng, không khác gì nhiều so với ban nãy. Noãn không có hình dạng cố định, chỉ được nhận ra nhờ phần mềm nhận biết mẫu, được đánh dấu sự tồn tại bằng vòng tròn đỏ.

“Nó còn cách nơi này 130km nữa, đã tới rìa thành phố Oklahoma rồi,” Ross thông báo.

“Khoảng bao lâu nữa thì nó sẽ trở thành gió lốc?” Có người lo lắng hỏi.

“Khoảng bảy phút.”

“Không kịp sơ tán người dân,” tôi nói.

“Không, Tiến sĩ Trần, chúng ta sẽ không thực hiện cuộc sơ tán nào cả!” Ross nói lớn. “Đây là bất ngờ mà hôm nay chúng tôi mang tới cho mọi người!”

Trên màn hình lớn, một khu vực hình vuông nhỏ hiện lên, hiển thị một tên lửa đạn đạo đang gào rú từ bệ bắn bay thẳng lên trời. Ống kính theo dõi đường đi của tên lửa, hiện rõ cái đuôi mảnh dẻ màu trắng vạch một đường parabol khổng lồ trên bầu trời. Khoảng một phút sau, tên lửa đạn đạo đã vượt qua đỉnh của parabol và giảm dần độ cao. Một phút nữa trôi qua, tên lửa phát nổ ở khoảng cách cách mặt đất chừng năm trăm mét. Quả cầu lửa nóng bỏng trên nền trời như một đóa hồng nở tung cánh. Trên phần hình ảnh về nhiễu động khí quyển được chiếu ở màn hình lớn, đường tròn đỏ biểu thị vị trí của noãn xuất hiện thêm quả cầu thủy tinh ngày càng được phóng to. Quả cầu trong suốt ấy mau chóng biến mất, nhiễu động hỗn loạn lại bổ sung ngay vào vị trí của nó. Vòng tròn đỏ biến mất, chuông cảnh báo dừng lại, Tiến sĩ Ross tuyên bố là noãn đã bị tiêu diệt. Đây là cái noãn thứ chín mà hệ thống có cái tên rất kêu “thợ săn lốc xoáy” này tiêu diệt được.

Tiến sĩ Ross giới thiệu. “Như mọi người đã biết, gió lốc được sinh ra từ những cơn giông mạnh. Trong cơn giông, không khí ẩm và không khí nóng sẽ bay lên, đi qua tầng không khí lạnh và bị lạnh đi. Hơi nước trong không khí ngưng tụ lại thành giọt mưa hoặc mưa đá. Không khí sau khi được làm lạnh sẽ mang theo giọt mưa hoặc mưa đá rơi xuống, tùy theo tác dụng của các nhân tố như không khí nóng ở tầng dưới cho tới chuyển động tự quay của Trái đất… ảnh hưởng tới, luồng không khí này sẽ lại cuộn lên trên, cuối cùng tạo thành lốc xoáy. Quá trình hình thành của gió lốc không ổn định, khối khí lạnh chìm xuống đại diện cho dòng năng lượng chủ đạo. Luồng khí lạnh này chính là tâm của noãn. Hệ thống thợ săn lốc xoáy sẽ phóng tên lửa đạn đạo mang theo bom napalm* để tấn công chính xác khối không khí lạnh đang chìm xuống. Loại bom napalm này ngay lập tức có thể giải phóng nhiệt lượng cực lớn, đốt nóng khối khí lạnh đang chìm xuống, từ đó phá hủy sự hình thành của gió lốc. Chúng ta đều biết kỹ thuật tấn công của tên lửa đạn đạo và kỹ thuật bom napalm đã có từ lâu. Trên thực tế, đây không được gọi là tấn công chuẩn xác. Độ chính xác yêu cầu trong trường hợp này thấp hơn so với yêu cầu trong quân đội một cấp độ, vì thể giảm được chi phí. Chúng tôi đều sử dụng những tên lửa đạn đạo bị đào thải. Kỹ thuật quan trọng của hệ thống thợ săn lốc xoáy chính là hệ thống do thám quang học khí quyển của Tiến sĩ Trần. Đây chính là sáng tạo giúp chúng ta định vị trước được noãn, cũng biến việc tiêu diệt gió lốc trở thành hiện thực. Nào, chúng ta cùng tri ân anh ấy!”

Ngày hôm sau, tại thủ phủ Oklahoma, tôi được phong làm công dân danh dự. Sau khi nhận được Bằng danh dự của Thống đốc, một thiếu nữ tóc vàng ôm bó hoa đại diện Oklahoma tặng cho tôi, đó là loài hoa tầm gửi mà tôi chưa từng nhìn thấy. Cô ấy nói với tôi rằng một cơn gió lốc diễn ra vào năm ngoái đã cướp đi sinh mạng của bố mẹ cô. Vào đêm kinh hoàng ấy, cơn gió lốc cấp F3 đã hất tung nóc nhà và cuốn bay mọi thứ trong nhà lên độ cao hàng trăm mét. Cô bé thoát chết trong gang tấc khi rơi xuống một cái đầm. Lời kể của cô bé làm tôi nhớ tới đêm sinh nhật ác nghiệt đã cướp đi bố mẹ tôi, đồng thời cũng làm tôi thấy tự hào về công việc của mình. Chính công việc này cuối cùng đã giúp tôi thoát khỏi được bóng ma của sét hòn, bắt đầu một cuộc sống mới tràn ngập ánh nắng mặt trời.

Sau buổi lễ, tôi bày tỏ sự kính trọng của mình với Tiến sĩ Ross. Mặc dù tôi có được bước đột phá trong dự báo gió lốc nhưng người cuối cùng chinh phục được gió lốc chính là bọn họ.

“Người chinh phục cuối cùng của gió lốc chính là hệ thống phòng thủ đạn đạo chiến sự đấy,” Tiến sĩ Ross vô tư nói.

“Hệ thống phòng thủ đạn đạo chiến sự?”

“Đúng vậy, chúng tôi gần như cứ thế bê y nguyên mà sử dụng, chỉ thay thế bộ phận nhận biết tên lửa tập kích bằng hệ thống định vị noãn của anh. Hệ thống phòng thủ đạn đạo này dường như được sinh ra dành cho gió lốc đấy.”

Giờ tôi mới nhận ra điểm giống nhau của hai thứ này, đều là tự động nhận biết mục tiêu tập kích rồi dẫn dường cho tên lửa đánh chặn.

“Lĩnh vực nghiên cứu của tôi thực ra không liên quan gì tới khí tượng. Tôi phụ trách Hệ thống phòng thủ đạn đạo và phần mềm hệ thống Phòng thủ tên lửa Quốc gia nhiều năm rồi. Khi nhìn thấy vũ khí do mình phát triển có thể mang lại lợi ích cho xã hội theo cách này, tôi thực sự cảm nhận được một niềm hạnh phúc chưa từng có trước đây. Tiến sĩ Trần, tôi thực sự rất cảm ơn anh.”

“Điều này tôi có thể hiểu được,” tôi chân thành đáp.

“Gươm cũng có thể rèn thành lưỡi cày,” Ross nói, giọng trầm hơn nhiều. “Nhưng một vài lưỡi cày cũng có thể rèn thành gươm, giống như những nhà nghiên cứu vũ khí như chúng tôi. Khi thực thi nhiệm vụ, đôi lúc chúng ta không thể không chấp nhận những mất mát do vũ khí mang tới… Tiến sĩ Trần, anh hiểu điều đó không?”

Tôi đã nghe được những lời kiểu này từ Cao Ba, vì thế tôi lặng lẽ gật đầu và trở nên cảnh giác. Anh ta nói “chúng ta” là để chỉ mình mình hay bao gồm cả tôi nữa. Họ biết công việc tôi đã làm trước kia hay sao?

“Cảm ơn, cảm ơn anh rất nhiều,” Ross nói. Tôi để ý ánh mắt anh ta nhìn tôi rất kỳ lạ, còn bộc lộ một chút buồn rầu. Mãi về sau, tôi mới biết đó là bản thân nghĩ quá nhiều, lời nói của anh ta không liên quan gì tới tôi, mà tới lúc ấy tôi mới thực sự hiểu được hàm ý trong ánh mắt ấy. Tôi có lẽ là nhóm học giả cuối cùng xuất ngoại. Vào ngày thứ mười sau khi về nước, chiến tranh nổ ra.

Tàu hạm Châu Phong bị đánh chìm, cuộc sống trở nên căng thẳng. Mỗi ngày, ngoài việc quan tâm tới tình hình chiến sự thì công việc của tôi cũng có thêm một tầng ý nghĩa khác, một vài niềm vui và rắc rối chủ yếu chiếm lấy cuộc sống trước kia giờ đã không còn trở nên quan trọng nữa.

Hôm nay, tôi nhận được một cuộc điện thoại từ quân đội, thông báo rằng tôi cần tới tham dự một cuộc họp, họ sẽ cử một thiếu úy hải quân tới đón.

Sau khi chiến tranh bùng nổ, thi thoảng, tôi vẫn nhớ tới dự án sét hòn. Trước tình hình nghiêm trọng này, nếu căn cứ cần thì tôi sẽ từ bỏ cảm xúc của bản thân để hoàn thành trách nhiệm nhưng không có tin tức nào được gửi tới. Tin tức về chiến sự không xuất hiện bất cứ thông tin nào về vũ khí sét hòn. Đây vốn là thời điểm tốt nhất để nó xuất hiện nhưng nó lại như thể chưa từng tồn tại. Tôi gọi điện cho căn cứ, phát hiện số điện thoại họ dùng trước kia không còn gọi được nữa, cũng không biết Đinh Nghi đã đi đâu. Tất cả những gì tôi từng trải qua giống như một giấc mộng, không để lại dấu vết gì.

Sau khi đến nơi, tôi nhận ra đa phần những người tham dự cuộc họp đều thuộc bên hải quân, tôi không biết một ai trong số họ. Cuộc họp này rõ ràng không liên quan gì tới vũ khí sét hòn. Biểu cảm trên gương mặt mọi người đều trông khá khó coi, khiến bầu không khí hội trường vô cùng nặng nề.

“Tiến sĩ Trần, chúng tôi muốn nói cho anh biết về tình hình trận hải chiến diễn ra ngày hôm qua. Chuyện này chưa được đưa lên bản tin,” một vị đại tá hải quân nói luôn mà không cần bất kỳ lời phát biểu khai mạc nào.

“Vị trí cụ thể và tình hình chi tiết của trận hải chiến này thì anh không cần biết rõ. Tôi sẽ chỉ nói tới những chuyện liên quan. Khoảng ba giờ chiều ngày hôm qua, nhóm tác chiến mẫu hạm Châu Phong đã bị một số lượng lớn tên lửa hành trình tập kích…”

Nghe thấy cái tên này, lòng tôi nhảy dựng lên.

“… Số lượng tên lửa tập kích rất lớn, hơn bốn mươi. Hạm đội ngay lập tức triển khai hệ thống phòng thủ nhưng mau chóng phát hiện phương thức tập kích lần này rất kỳ lạ: Bình thường, tên lửa hành trình sẽ bay sát biển để tập kích mục tiêu, nhưng độ cao của đợt tên lửa tấn công này lên đến một nghìn mét, như thể chúng không quan tâm có bị bắn hạ hay không. Quả nhiên là đám tên lửa không hề tấn công trực tiếp vào hạm đội mà nổ tung bên ngoài vòng vây phòng thủ của chúng tôi. Độ cao khi phát nổ từ năm trăm tới một nghìn mét. Sức nổ của mỗi đầu đạn rất nhỏ nhưng lại rắc ra một lượng lớn bột màu trắng. Mời anh xem, đây là đoạn băng ghi hình lúc đó.”

Màn chiếu hiển thị bầu trời trong xanh đầy mây, như thể sắp có mưa giông. Ngay sau đó, bầu trời xuất hiện nhiều điểm trắng, những điểm trắng ấy dần lan ra, như hàng chục giọt sữa nhỏ trên mặt nước.

“Đây là những điểm nổ của tên lửa hành trình,” Đại tá chỉ vào các điểm trắng tản mát trên màn hình. “Rất kỳ lạ phải không? Chúng tôi nhất thời không biết kẻ địch định làm gì. Những vật chất trắng này…”

“Hiện trường còn dấu tích gì khác không?” Tôi ngắt lời ngài Đại tá, một linh cảm khủng khiếp đang dâng lên trong tôi.

“Ý anh là gì? Dường như không có dấu tích nào liên quan.”

“Không liên quan cũng được, ngài thử nhớ lại xem,” tôi khẩn thiết nói.

Đại tá và một vài sĩ quan nhìn nhau, đoạn một trung tá đeo kính lên tiếng: “Kẻ địch có một máy dự báo bay trên vùng trời này. Cũng đâu có gì khác thường?”

“Còn gì nữa không?”

“À… Kẻ địch sử dụng vệ tinh quỹ đạo tầm thấp* phóng laser công suất cao tới vùng biển này, có thể là để phối hợp với máy dự báo để do thám tàu ngầm ở nước sâu… Chuyện này có liên quan tới việc tên lửa tập kích mà chúng tôi nói sao? Tiến sĩ Trần, anh không khỏe ở đâu à?”

Tôi hy vọng đó là để do thám tàu ngầm, Chúa phù hộ rằng mấy thứ đó dành để do thám tàu ngầm… Tôi vừa lo lắng cầu nguyện, vừa nói: “Không sao, cảm ơn. Các anh biết thứ bột trắng đó là gì không?”

“Tôi vừa định nói với anh…” Đại tá nói, màn hình chiếu thay đổi. Bức ảnh được hiển thị gồm một vài nhóm màu sắc tươi sáng hỗn độn không theo trật tự nào như bảng màu của họa sĩ. “Đây là hình ảnh màu giả hồng ngoại*. Nhìn này, điểm cháy nhanh chóng trở thành một vùng nhiệt độ cực thấp” Đại tá chỉ vào một khoảng màu xanh nổi bật trên khung hình. “Cho nên chúng tôi đoán thứ bột phấn trắng này có thể là chất làm lạnh hiệu quả cao.”

Tôi cảm thấy như mình vừa bị một tia sét đánh trúng, trời đất nghiêng ngả. Tôi bám chặt lấy cái bàn để giữ vững bản thân. “Nhanh, hãy ra lệnh cho hạm đội rút khỏi khu vực biển đó!” Tôi chỉ vào màn hình hét lớn.”

“Tiến sĩ Trần, đây là đoạn băng ghi hình. Chuyện xảy ra từ hôm qua rồi.”

Tôi choáng váng, sững sờ một lúc mới hiểu ý trong lời nói đó.

“Đây là bức ảnh chụp từ phía trên mẫu hạm Châu Phong lúc ấy, anh xem xem.”

Màn hình chuyển sang vùng biển và bầu trời rộng lớn, một tàu khu trục hộ tống xuất hiện rồi biến mất ở góc màn hình. Tôi nhận thấy trên bầu trời xuất hiện hình một cái phễu dài. Cán của cái phễu hướng về phía mặt biển, kéo dài và nhanh thành một sợi vải mỏng. Khi sợi vải ấy chạm vào mặt biển, nước biển được cái phễu hút lên lập tức biến thành màu trắng. Ban đầu, dải ruy băng trắng nối trời với biển còn rất mỏng, đung đưa nhè nhẹ. Phần eo gầy yếu như sắp đứt đoạn. Nhưng trong phút chốc, nó trở nên thô dày, từ một dải vải mỏng từ trời cao rơi xuống biến thành một cột trụ khổng lồ cao vời vợi đứng trên mặt biển chống lấy bầu trời. Màu trắng cũng bị nhuộm đen, chỉ có nước biển đang xoay tròn bên ngoài vẫn lấp lánh ánh mặt trời.

Tôi đã từng nghĩ tới việc này nhưng vẫn không thể tin rằng có người lại có thể làm được.

Noãn là những nhiễu động có khả năng tạo ra gió lốc, có số lượng rất lớn ở tầng khí quyển. Một phần nhỏ trong chúng cũng có thể phát triển thành gió lốc, giống với việc trứng gà có nhiều cỡ nào thì cũng chỉ có một phần nhỏ có được khả năng nở thành gà con. Tâm của noãn là không khí lạnh đang chìm xuống, phải làm khối không khí này tăng nhiệt thì mới cản trở được sự chìm xuống đó, sau đó mới có thể tiêu diệt được noãn sẽ phát triển thành gió lốc, giống cảnh tượng tôi đã thấy ở Oklahoma. Đồng thời, nếu khối không khí lạnh được tăng cường thêm thì noãn vốn chuẩn bị biến mất sẽ lại phát triển thành gió lốc. Do số lượng của các noãn vô cùng lớn, cho nên vào điều kiện thời tiết thích hợp, chúng có thể tạo ra gió lốc bất cứ lúc nào. Chìa khóa của loại công nghệ này chính là phát hiện ra các noãn tiềm năng. Hệ thống dự báo gió lốc của tôi đã cung cấp khả năng ấy. Đáng sợ hơn là hệ thống này có thể phát hiện ra cơ hội: Nếu có hai noãn trở lên gần nhau, thậm chí xếp chồng lên nhau thì có thể đồng thời “ấp” nhiều noãn, tập hợp khéo léo được năng lượng trong khí quyển, thúc đẩy cơn lốc siêu cấp vốn không thể tồn tại trong tự nhiên.

Những gì xuất hiện trước mắt tôi là một cơn lốc xoáy. Cơn lốc có đường kính hơn hai cây số, gấp đôi gió lốc tự nhiên. Cơn lốc lớn nhất trong tự nhiên thường ở cấp F5, như vậy đã được gọi là “bàn tay của Chúa” rồi. Cơn lốc được con người “ấp” nhân tạo này nhỏ nhất cũng phải cấp F7. Trên màn hình, cơn lốc đang từ từ di chuyển sang phải, mẫu hạm Châu Phong đang chuyển hướng khẩn cấp, cố gắng tránh khỏi nó. Lực đẩy của cơn lốc thường thẳng, tốc độ khoảng 60km/h, tương đương với tốc độ tối đa của mẫu hạm. Nếu Châu Phong có thể tăng tốc và chuyển hướng đủ nhanh thì hy vọng có thể tránh được nó.

Nhưng vào lúc này, cột trụ khổng lồ chống trời màu đen lại rủ xuống hai dải ruy băng màu trắng. Chúng tức tốc trở nên dày và thô, nhanh chóng biến thành hai cột trụ khổng lồ màu đen giống nhau.

Khoảng cách của ba cơn lốc siêu cấp này nhỏ hơn so với đường kính của chúng, chưa tới một nghìn mét. Chúng tạo thành một hàng rào tử thần dài tới tám cây số, mạnh mẽ áp sát tới. Số phận của Châu Phong đã được định đoạt.

Cột lốc xoáy choán lấy khung hình trong phút chốc. Làn sương cuồn cuộn mãnh liệt xông tới, giống như thác nước ngang ngạnh. Bên cạnh trụ xoáy là vực sâu tăm tối. Khung hình rung lắc dữ dội rồi biến mất.

Theo lời kể của Đại tá thì một cơn lốc đã quét ngang qua nửa trước của mẫu hạm Châu Phong. Như lời dự đoán của vị Trung tá hải quân nói với tôi trên hòn đảo kia, boong chính của Châu Phong gãy đôi và chìm sau nửa giờ, tính cả thuyền trưởng, hơn hai nghìn binh sĩ đã vong trận. Khi cơn lốc đến gần, thuyền trưởng đã quyết đoán ra lệnh phong tỏa cấp độ A đối với hai lò phản ứng hạt nhân. Điều này giúp giảm thiểu lớn nhất khả năng rò rỉ hạt nhân, nhưng cũng khiến Châu Phong mất đi hoàn toàn động cơ. Hai tàu khu trục hộ tống và một tàu tiếp liệu cũng bị đánh chìm. Sau khi cơn lốc siêu cấp quét qua đội tàu, một con tàu trong số đó đã tiếp tục đi thêm được hơn hai trăm mét nữa rồi mới dần biến mất. Đây là quãng đường dài gấp đôi quãng đường dài nhất của một cơn lốc xoáy được ghi lại trong lịch sử. Cơn lốc này trong lúc phô trương sức mạnh còn quét qua một hòn đảo nhỏ, xóa sổ một làng chài trên đảo, giết chết hơn một trăm người, bao gồm cả phụ nữ và trẻ em.

“Hạm trưởng của Châu Phong là Giang Tinh Thần đúng không?”

“Đúng vậy, anh biết anh ấy à?”

Tôi không nói gì, chuyện này làm tôi nghĩ tới Lâm Vân nhiều hơn.

“Chúng tôi mời anh đến vì anh là học giả có thành tựu nhất trong lĩnh vực nghiên cứu gió lốc ở trong nước. Nguyên nhân thứ hai là hệ thống vũ khí khí tượng có tên là Eros đã tấn công Châu Phong lần này, dựa vào tình báo thì hệ thống này có liên quan tới thành quả nghiên cứu của anh.”

Tôi nặng nề gật đầu: “Đúng vậy, tôi sẵn sàng chịu trách nhiệm.”

“Không, anh hiểu lầm rồi. Chúng tôi không mời anh tới để truy cứu trách nhiệm. Anh không có lỗi gì cả. Sở nghiên cứu Sét đã công bố và chuyển giao thành quả của dự án này, nó đã được các cấp bộ ngành liên quan xem xét và thông qua, hoàn toàn hợp pháp. Đương nhiên, chuyện này phải có người chịu trách nhiệm nhưng không phải anh. Về mặt ứng dụng công nghệ cao vào quân sự, chúng ta không nhanh nhạy bằng kẻ địch.”

Tôi lên tiếng: “Loại vũ khí này có thể phòng thủ được, chỉ cần hệ thống phòng thủ đạn đạo của hạm đội và hệ thống do thám quang học khí quyển của chúng tôi kết hợp lại là được. Tôi từng thấy cách dùng bom napalm để tiêu diệt gió lốc. Nhưng chúng ta còn có thể sử dụng phương pháp hiệu quả và nhanh chóng hơn đó là dùng vi sóng công suất lớn hoặc laser để gia nhiệt cho khối không khí lạnh chìm xuống là được.”

“Đúng thế, chúng tôi đang toàn lực phát triển hệ thống phòng ngự này, cũng mời anh tới dốc sức giúp đỡ,” Đại tá khẽ thở dài. “Nhưng thành thật mà nói, hệ thống này trong trận sau sẽ phải dùng tới rồi.”

“Tại sao?”

“Châu Phong đã mất sức chiến đấu, điều này đả kích tới quyền thống trị trên biển của chúng ta. Trong cục diện chiến tranh sau này, chúng ta không còn khả năng để tiến hành một trận quyết chiến quy mô lớn với kẻ địch trên biển nữa. Chúng ta chỉ có thể dựa vào hỏa lực trên bờ để phòng thủ ven biển.”

Sau khi rời khỏi Trung tâm Tác chiến Hải quân, một tiếng còi cảnh báo phòng không vang lên thê lương trong thành phố. Đường phố mau chóng không còn một ai. Tôi bước đi vô định trên đường phố vắng tanh, không nghe thấy những lời gọi hò hét của đội dân phòng. Họ chạy tới kéo tôi đi, nhưng tôi lại hất họ ra, tiếp tục bước đi như kẻ mộng du. Họ xem tôi như một kẻ điên, bỏ chạy tự lo cho chính mình. Giờ tôi hoàn toàn tuyệt vọng, chỉ mong sao có một quả bom chấm dứt cuộc sống thống khổ này. Nhưng tiếng nổ chỉ vang lên ở phía xa, còn khu vực gần đó lại yên tĩnh đến đáng ngờ. Tôi không rõ mình đã đi bao lâu, chuông cảnh báo đã dừng kêu, người trên đường đông đúc trở lại. Tôi mệt mỏi ngồi sụp xuống bậc thềm trong vườn hoa của thành phố, nhận thức được bộ não trống rỗng của mình giờ đã tràn ngập một cảm giác. Lúc này tôi mới hiểu được cảm giác của một người.

Tôi hiểu Lâm Vân.

Tôi cầm điện thoại, bấm số của căn cứ, vẫn không có ai trả lời. Tôi đứng dậy và nhìn quanh tìm kiếm tắc-xi. Tắc-xi trong thời chiến rất hiếm, phải chờ nửa tiếng mới gọi được một chiếc. Tôi muốn tới căn cứ.

Xe tắc-xi đi chừng ba tiếng đồng hồ thì tới nơi. Căn cứ đã bị bỏ hoang một thời gian, mọi nơi đều trống không, người và thiết bị cũng không còn. Tôi đứng cô độc rất lâu giữa khu thí nghiệm kích thích không còn gì. Một tia nắng yếu ớt của buổi chiều tà xuyên qua ô cửa kính vỡ nát chiếu thẳng vào tôi rồi dần biến mất, cho tới khi màn đêm buông xuống thì tôi mới chịu rời đi.

Sau khi quay trở về thành phố, tôi đến các cơ quan liên quan tới quân đội để hỏi thăm về dự án sét hòn và đơn vị Thần Quang nhưng không ai có thể trả lời tôi. Họ dường như đã bốc hơi khỏi nhân gian. Tôi thậm chí còn gọi tới số điện thoại của Đại tướng Lâm nhưng cũng không có ai bắt máy.

Tôi đành quay trở lại Sở Sét, lao đầu vào nghiên cứu việc sử dụng vi sóng công suất lớn để loại bỏ lốc xoáy.