Chương 25 CON CHIP BỊ PHÁ HỦY
Chiến tranh tiếp tục kéo dài, một mùa thu nữa lại tới. Mọi người đã dần quen với cuộc sống thời chiến. Cảnh báo phòng không và địa điểm cấp phát khẩu phần ăn giờ giống như các buổi nhạc hội và quán cà phê, trở thành một phần trong cuộc sống thường nhật.
Tôi cống hiến hết mình cho việc nghiên cứu phát triển hệ thống phòng thủ gió lốc. Dự án này cũng do Sở Sét đảm nhận. Công việc rất gấp rút nên tôi nhất thời quên đi các việc khác. Nhưng rồi sự cân bằng mong manh cuối cùng trong thời chiến cũng bị phá vỡ.
Khoảng ba giờ chiều, tôi đang thảo luận cùng Sở Sét và vài kỹ sư quân đội về một số chi tiết kỹ thuật của máy phóng vi sóng năng lượng cao. Thiết bị này có thể phóng với công suất khoảng một tỷ watt, chùm vi sóng hội tụ với mật độ cao có tần số từ mười đến một trăm gigahertz, mà năng lượng vi sóng trong phổ này có thể hấp thụ được phân tử nước. Nếu vài chùm sóng như vậy kết hợp với nhau thì cường độ năng lượng khu vực chiếu xạ sẽ là khoảng một watt trên một xen-ti-mét vuông, sản sinh ra tác dụng làm khối khí lạnh trong noãn đang chìm xuống gia tăng nhiệt độ, tiêu diệt mối nguy. Thiết bị như vậy kết hợp với hệ thống do thám quang học khí quyển sẽ tạo ra một hệ thống phòng ngự hiệu quả đối với vũ khí gió lốc.
Lúc này, tôi đột nhiên nghe thấy một âm thanh kỳ lạ, rất giống tiếng của một trận mưa đá bất ngờ ập tới. Âm thanh ấy truyền tới từ một nơi rất xa xăm, sau đó âm lượng tăng vọt lên, cuối cùng vang lên ngay trong căn phòng này. Xung quanh chúng tôi có những tiếng nổ đùng đoàng, thậm chí có tiếng còn vang lên từ ngực trái của tôi! Cùng lúc, máy tính xung quanh xảy ra hiện tượng dị thường: Rất nhiều mảnh vỡ nhỏ bay xuyên qua lớp vỏ còn nguyên vẹn của máy chủ. Quan sát kỹ hơn, tôi thấy những mảnh vỡ ấy chính là CPU, RAM và các con chip khác. Những mảnh chip trôi dày đặc trong không khí. Tôi giơ tay lên chạm phải nhiều con chip đang lơ lửng. Đây không phải là ảo ảnh. Ngay sau đó, những con chip lơ lửng này tập hợp thành một cái đuôi rồi biến mất. Bầu không khí lại trống trải như chưa từng có chuyện gì xảy ra. Màn hình của những chiếc máy tính thay đổi, xuất hiện màn hình màu xanh hiển thị các lỗi nghiêm trọng hoặc đen kịt lại.
Tôi thấy ngực trái mình nóng ran, đưa tay lên sờ thử thì thấy chiếc điện thoại nằm trong túi áo đã trở nên nóng rẫy, tôi vội lấy nó ra. Những người xung quanh cũng làm hành động y như vậy. Những chiếc điện thoại đều bốc lên khói trắng. Tôi tháo điện thoại ra thì thấy một đám tro trắng mịt mù. Chip bên trong điện thoại đã bị phá hủy. Chúng tôi cũng tháo mấy chiếc máy tính ra. Trên bo mạch chủ, gần một phần ba các con chip đã bị đốt cháy. Văn phòng làm việc trong phút chốc chứa đầy tro trắng và thứ mùi kỳ dị từ những con chip bị đốt cháy.
Ngay sau đó, những màn hình máy tính và bóng đèn còn lại tắt phụt. Mất điện rồi.
Suy nghĩ đầu tiên của tôi là những con chip đã trở thành mục tiêu tập kích của sét hòn. Nhưng có điều gì đó rất không ổn. Xung quanh đây đều là các đơn vị nghiên cứu, số lượng chip không đếm xuể, năng lượng của sét hòn sau khi giải phóng dù đã giảm xuống nhưng vẫn còn rất lớn. Trong khi bán kính hoạt động của nó không thể vượt quá một trăm mét. Ở khoảng cách này, chắc chắn chúng tôi sẽ nghe thấy tiếng nổ mà sét hòn phát ra khi giải phóng năng lượng. Đôi tai của tôi đã được nghe rất nhiều tiếng sét hòn phát nổ nên trở nên nhạy bất thường, thậm chí tôi có thể nghe được tiếng phát ra trong lúc nó còn đang trôi lơ lửng. Nhưng vừa nãy, ngoại trừ tiếng nổ của con chip khi bị đốt cháy, tôi không nghe thấy âm thanh nào khác, vậy nên có thể khẳng định gần như chắc chắn là xung quanh không có sét hòn.
Việc đầu tiên chúng tôi phải làm là xác định phạm vi của cuộc tấn công. Tôi định sử dụng điện thoại bàn nhưng phát hiện nó cũng không thể dùng được nữa. Tôi chỉ còn cách cùng vài người đi xuống lầu để xem thử. Chúng tôi nhanh chóng phát hiện ra tất cả những con chip trong khu thử nghiệm sét và hai tòa văn phòng đều bị tấn công, khoảng một phần ba số chip bị hủy hoại. Chúng tôi chia nhau tới Sở nghiên cứu Vật lý khí quyển và Trung tâm mô phỏng Khí tượng gần đó, và đều phát hiện ra chip ở cả hai nơi này đều bị tấn công như vậy. Cho tới hiện tại, kẻ tấn công chắc chắn phải cần tới vài chục quả sét hòn mới có thể tạo ra mức độ thiệt hại như vậy. Nhưng tôi không tìm thấy dấu vết nào của nó.
Cao Ba cử một vài thanh niên đạp xe ra ngoài để tìm hiểu tình hình. Những người còn lại thì lo lắng đợi trong văn phòng. Ở Sở Sét, chỉ có tôi và Cao Ba biết chuyện về vũ khí sét. Chúng tôi thỉnh thoảng đưa mắt nhìn nhau, thầm hoảng sợ trong lòng. Mấy cậu thanh niên kia sau nửa tiếng đồng hồ thì đã lần lượt quay trở lại. Họ kinh hãi như gặp phải ma. Họ đạp xe lòng vòng ba đến năm cây, chip ở những nơi đã đi qua đều chịu sự tấn công bởi sức mạnh thần bí này. Tỷ lệ bị đốt cháy là như nhau, đều khoảng một phần ba. Họ không dám đi thêm nữa, không hẹn mà cùng quay trở về Sở để báo cáo tình hình. Trong tình trạng không thể sử dụng điện thoại di động và điện thoại bàn, mọi người đều nhất thời luống cuống.
“Nếu kẻ địch sở hữu loại vũ khí ma quỷ như thế thì chúng ta không còn đường sống nữa rồi!” Ai đó thốt lên.
Tôi và Cao Ba lại liếc nhìn nhau, trong lòng hoang mang: “Như này nhé, chúng ta lấy bốn chiếc xe ô tô trong Sở đi về bốn hướng để kiểm tra tình hình trên phạm vi lớn hơn xem.
Tôi phóng về phía Đông của thành phố, dọc đường đi, tôi thấy bên trong các tòa nhà đều tối om, mọi người tụ tập thành từng tốp ở bên ngoài, gương mặt ai nấy đều căng thẳng, trong tay của rất nhiều người còn cầm chiếc di động đã trở nên vô dụng. Thấy tình hình như vậy, tôi không cần xuống xe cũng biết chuyện gì đã xảy ra. Thế nhưng tôi vẫn xuống xe vài lần, chủ động hỏi mọi người xem có thấy dấu vết gì của sét hòn không. Tuy nhiên, không ai nhìn và nghe thấy gì cả.
Sau khi rời khỏi thành phố, tôi vẫn tiếp tục lái xe về phía trước, đến một thị trấn nhỏ ở ngoại ô. Nơi này tuy cũng mất điện nhưng nỗi hoảng sợ ít hơn nhiều so với trong thành phố. Trong tôi đang dâng trào một niềm hy vọng mạnh mẽ rằng mình đã đi tới biên giới của vùng hủy diệt, hoặc chí ít là nhìn thấy dấu hiệu sự hủy diệt đã nguội dần. Tôi đậu xe bên ngoài một quán cà phê Internet và nôn nóng bước vào. Hoàng hôn đang phủ xuống vạn vật, quán cà phê mất điện tối om, nhưng tôi có thể lập tức ngửi thấy mùi khét lẹt quen thuộc đó. Tôi nhấc một chiếc máy tính đem ra ngoài rồi tháo nó ra, xem xét kỹ lưỡng bo mạch chủ. Dưới ánh sáng chiều tà, tôi nhìn thấy một vài con chip trong CPU đã biến mất. Bo mạch chủ từ tay tôi rơi xuống đất, trúng vào bàn chân nhưng tôi không hề cảm thấy đau mà chỉ rùng mình trong cơn gió lạnh. Tôi leo lên xe và quay trở về.
Sau khi tôi về đến Sở, không lâu sau thì ba chiếc xe khác cũng quay lại, chiếc đi xa nhất đã đi hơn một trăm cây số dọc theo quốc lộ, tới đâu cũng gặp chuyện tương tự như ở đây.
Chúng tôi gấp gáp tìm kiếm thông tin từ bên ngoài. Không có ti-vi, không có mạng, cũng không có điện thoại, chỉ có máy thu thanh là còn dùng được. Nhưng chiếc máy thu thanh kỹ thuật số đắt tiền ấy đều dùng IC làm cầu nối nên đã trở nên vô dụng. Tôi tìm mãi mới thấy được một cái đài bán dẫn cũ còn hoạt động của người đưa thư để lại trong phòng tiếp tân. Đài bắt được một số đài phát thanh ở các tỉnh phía Nam với chất lượng âm thanh rất kém, ngoài ra còn hú họa bắt được hai, ba đài tiếng Anh, một đài tiếng Nhật. Mãi tới tận đêm khuya, các đài phát thanh mới dần đưa tin về thảm họa li kỳ này. Từ những báo cáo rời rạc, chúng tôi biết được câu chuyện như sau:
Khu vực hủy diệt chip điện tử là một hình tròn có tâm ở phía Tây Bắc, bán kính 1300km, ảnh hưởng tới một phần ba lãnh thổ đất nước. Phạm vi này khiến người ta kinh hãi. Nhưng tỷ lệ phá hủy chip giảm từ tâm của vòng tròn ra ngoài. Thành phố của chúng tôi nằm ở rìa của vòng tròn này.
Một tuần sau đó, chúng tôi quay về sống trong xã hội nông nghiệp trước khi điện xuất hiện. Ngày tháng trở nên vô cùng khó khăn. Nước được đưa tới bằng xe bồn, lượng nước được cấp phát cho mỗi người chỉ vừa đủ để uống. Buổi tối, chúng tôi phải dùng nến để thắp sáng.
Thời gian này, tin đồn về thảm họa lần này ngày càng nhiều, lời giải thích được tuyên truyền rộng rãi nhất trên phương tiện truyền thông (chỉ còn đài phát thanh) và trong xã hội chính là sự việc này liên quan tới người ngoài hành tinh. Nhưng trong tất cả các loại tin đồn ấy, không có bất cứ tin nào đề cập tới sét hòn.
Trong mớ thông tin lộn xộn ấy, chúng tôi đưa ra được ít nhất một kết luận: Lần tấn công này không phải do kẻ thù, chúng cũng đang bối rối như ta. Điều này khiến chúng tôi nhẹ nhõm phần nào. Giai đoạn này, tôi tưởng tượng ra hàng trăm khả năng, nhưng không khả năng nào thuyết phục được bản thân. Tôi chắc chắn rằng mọi chuyện có liên quan tới sét hòn nhưng đồng thời lại chắn chắn rằng nó không phải sét hòn. Vậy vũ khí lần này là cái gì?
Hành vi của kẻ thù cũng có phần khó hiểu. Đất nước chịu một đòn tấn công như vậy, về cơ bản thì đã mất đi khả năng phòng thủ nhưng cuộc tiến công của chúng lại dừng lại. Ngay cả những cuộc không kích diễn ra mỗi ngày trước kia cũng biển mất. Truyền thông thế giới có một lời giải thích tương đối thuyết phục về chuyện này: Khi người ta phải đối mặt với một thế lực vô danh có thể dễ dàng hủy diệt toàn bộ thế giới văn minh như vậy thì không ai dám manh động cho đến khi mọi chuyện được làm sáng tỏ.
Sự kiện này hóa ra lại mang tới khoảng thời gian yên bình nhất kể từ khi chiến tranh nổ ra, mặc dù cũng có những điều bất ổn và tiêu điều trong sự thanh bình này. Không có điện và máy tính, cả ngày không có việc gì để làm nên nỗi sợ hãi của mọi người không có cách nào để giải tỏa.
Đêm đó, trời đổ mưa lạnh, tôi ngồi một mình trong ký túc xá lạnh lẽo, nghe tiếng mưa rơi bên ngoài, cảm thấy mọi thứ đang ngập ngụa trong bóng tối vô biên. Ngọn nến trước mặt tôi là vật duy nhất phát sáng trong cả thế giới này. Nỗi cô đơn vô bờ khiến tôi choáng ngợp, cuộc đời chưa được xem là dài của tôi dội về tâm trí như một bộ phim: Bức tranh trừu tượng được vẽ bằng tro cốt của những đứa trẻ trong nhà máy điện hạt nhân, bàn cờ vây được Đinh Nghi đặt trong không bào, hồ quang điện dài thượt trong màn đêm, Siberia trong gió tuyết, tiếng đàn và thanh kiếm sắc bén của Lâm Vân, giông bão và bầu trời sao ở Thái Sơn, những năm tháng đại học, và cuối cùng, bộ phim quay tới bữa tiệc sinh nhật trong đêm giông bão năm nào… Tôi cảm thấy cuộc đời mình đã đi một vòng lớn rồi lại quay trở về điểm xuất phát. Chỉ có điều, trong đêm mưa hôm nay không hề có tiếng sấm, ngọn nến trước mặt cũng chỉ còn lại một ít.
Lúc này, tiếng gõ cửa vang lên. Tôi chưa kịp đứng dậy thì người đó đã kịp đẩy cửa xông vào. Anh ta cởi áo mưa ướt sũng ra, thân hình gầy gò run lên vì lạnh. Khi nhận ra gương mặt của anh ta trong ánh nến, tôi kinh ngạc thốt lên.
Người đứng đó là Đinh Nghi.
“Anh có rượu không? Rượu nóng thì càng tốt,” anh ta nghiến răng nói.
Tôi đưa cho anh ta nửa chai rượu xái Hồng Tinh. Đinh Nghi hơ đáy chai lên trên ngọn nến để hâm nóng, nhưng nhanh chóng mất kiên nhẫn, anh ta liền cầm cả chai lên và tu mấy ngụm lớn. Đoạn, Đinh Nghi lau miệng rồi lên tiếng:
“Không nói chuyện cà kê nữa. Tôi cần kể cho anh những chuyện mà anh muốn biết.”
Cuộc phục kích trên biển
(Sau đây là những gì Đinh Nghi kể với tôi về chuyện đã xảy ra sau khi tôi rời căn cứ.)
Vụ việc trong nhà máy điện hạt nhân thành công lớn (ít nhất là thành công về mặt chiến thuật), vũ khí sét hòn dần bị lãng quên bỗng nhiên được chú ý trở lại và nhận được nhiều khoản đầu tư. Các khoản đầu tư lớn này chủ yếu dùng vào việc thu thập các electron vĩ mô có sức tấn công chip điện tử. Các cuộc tấn công có độ chọn lọc cao đánh vào IC, đây là phương án được coi là tiềm năng lớn nhất của loại vũ khí này. Sau rất nhiều giai đoạn, số lượng lưu trữ các electron vĩ mô rất hiếm này đã vượt quá năm nghìn, đủ để tạo nên một hệ thống vũ khí dùng trong thực chiến.
Sau khi chiến tranh bùng nổ, căn cứ luôn ở trong trạng thái kích động cực đoan. Hầu như ai cũng tin rằng vũ khí sét hòn sẽ giống như xe tăng trong Thế chiến thứ nhất và vũ khí hạt nhân trong Thế chiến thứ hai. Đây sẽ là vũ khí tạo nên lịch sử. Họ ráo riết chuẩn bị làm nên dấu mốc lịch sử nhưng chỉ thị của cấp trên chỉ có hai từ: Đợi lệnh. Kết quả là đơn vị Thần Quang trở thành đội quân nhàn hạ nhất trong chiến tranh. Ban đầu, họ nghĩ rằng chỉ huy sẽ sử dụng vũ khí này vào lúc nguy cấp nhất, nhưng Lâm Vân thông qua nhiều cách luồn lách đã biết được một điều rằng chúng tôi chỉ đang tự huyễn hoặc bản thân. Chỉ huy không đánh giá cao loại vũ khí này. Họ cho rằng sự việc ở nhà máy điện hạt nhân là một trường hợp đặc biệt, không thể chứng minh tiềm năng của vũ khí sét hòn. Các binh chủng đều không hứng thú quá nhiều đối với việc đưa vũ khí này vào chiến trường. Quả nhiên, đầu tư nghiên cứu lại bị đình chỉ.
Sau khi nhóm tác chiến mẫu hạm Châu Phong bị tiêu diệt, căn cứ rơi vào tình trạng khó chịu cực độ. Mọi người đều cho rằng một vũ khí khái niệm khác đã thể hiện được uy lực cực mạnh của nó, thế mà quân ta vẫn giữ thái độ như vậy với vũ khí sét hòn thì đúng là ngu xuẩn. Họ đều cảm thấy vũ khí này là hy vọng duy nhất có thể lật ngược tình thế của cuộc chiến.
Lâm Vân đã rất nhiều lần đề nghị bố mình cho đơn vị Thần Quang tham chiến nhưng đều bị từ chối dứt khoát. Một lần, Đại tướng Lâm nói với con gái: “Tiểu Vân, nỗi ám ảnh của con về vũ khí không nên trở thành mê tín. Con cần suy nghĩ sâu sắc hơn về chiến tranh và nhìn mọi thứ một cách toàn diện. Ý tưởng dựa vào một hai loại vũ khí mới để chiến thắng cả một cuộc chiến thật là ấu trĩ.”
(Lúc kể tới đây, Đinh Nghi nói: “Là một người sùng bái công nghệ, khuynh hướng sử dụng vũ khí của tôi còn cực đoan hơn cả Lâm Vân. Tôi cũng tin chắc rằng sét hòn có thể quyết định kết cục cuộc chiến. Lúc ấy, tôi coi thái độ của Bộ Chỉ huy đối với vũ khí sét hòn là tư tưởng cứng nhắc. Tôi và hầu hết những người trong căn cứ đều cảm thấy phẫn nộ. Nhưng tình hình hiện tại đã chứng minh được sự ấu trĩ của chúng tôi.”)
Cục diện đã được xoay chuyển, căn cứ và đơn vị Thần Quang nhận được lệnh tấn công do thám vào hạm đội tàu sân bay đang tiến vào vùng biển.
Bộ Tư lệnh của hạm đội đã mở một cuộc họp tác chiến, những người tham gia có cấp bậc không cao, rõ ràng là cấp trên không quan tâm nhiều tới hoạt động tác chiến lần này. Chủ trì hội nghị là hai vị đại tá, một người là đội trưởng Đội tác chiến mẫu hạm, người kia ở bên lục quân, là Phó trưởng tham mưu Chiến khu phòng thủ phía Nam ven biển. Hơn hai mươi sĩ quan còn lại hầu như thuộc các lực lượng tàu ngầm và đội chiến hạm Biển Đông.
Đồng chí Phó trưởng tham mưu nói qua về tình hình chiến trường: “Vì nguyên nhân mà mọi người đều đã biết, ưu thế trên biển của chúng ta đã bị suy yếu nghiêm trọng, kẻ địch đang áp đảo. Hạm đội của địch đã nhiều lần tiến tới trong tầm bắn đạn đạo của chúng ta nhưng các đợt tấn công của phe ta đều thất bại. Hệ thống phòng thủ đạn đạo của kẻ địch đã thành công ngăn cản được phần lớn các tên lửa chống hạm. Nếu chúng ta có thể phá hủy tất cả hoặc một phần khả năng cảnh báo của hệ thống phòng thủ tên lửa của địch thì tên lửa trên bờ của chúng ta sẽ tấn công được kẻ địch. Đây là mục đích chính của lần tác chiến này: sử dụng Lá phong để phá hủy thiết bị điện tử phòng thủ đạn đạo của kẻ địch, làm cho nó bị tê liệt hoàn toàn hoặc tê liệt một phần và tạo cơ hội cho tên lửa chống hạm trên bờ của ta.
“Lá phong” là tên gọi của vũ khí sét hòn. Cái tên nghe nhẹ nhàng này đã phản ánh được phần nào ấn tượng của cấp trên đối với loại vũ khí này.
Đội trưởng tác chiến nói: “Sau đây là phương án tác chiến, mọi người sẽ cùng xác định một đại cương chung, sau đó quân chủng và binh chủng sẽ được phân chia theo nhóm.”
“Tôi có một câu hỏi,” một vị thượng tá lục quân đứng lên, ông ấy là chỉ huy của lực lượng đạn đạo trên bờ. “Tôi nghe nói Lá phong chỉ có thể tấn công trong tầm nhìn thôi đúng không?”
Đại tá Hứa Văn Thành gật đầu khẳng định.
“Vậy thì món đồ chơi của các anh có tác dụng gì? Yêu cầu cơ bản của vũ khí hiện đại là tiến hành tấn công ở siêu khoảng cách. Tôi thấy Lá phong chỉ có thể được coi là vũ khí thời cận đại thôi.”
“Thượng tá, tôi cho rằng tư duy của ngài mới là thứ thuộc về thời cận đại,” Lâm Vân tức giận nói, thu hút những ánh mắt bất mãn của những người tham dự cuộc họp.
“Được rồi, chúng ta để chỉ huy của Lá phong nói về ý tưởng của họ đối với phương án tác chiến lần này đi,” đội trưởng tác chiến nói.
“Kế hoạch của chúng tôi là sử dụng tàu ngầm làm bệ bắn cho Lá phong,” Đại tá Hứa nói.
“Lá phong có thể bắn được dưới nước không?” Một vị thượng tá lực lượng tàu ngầm hỏi.
“Không thể.”
“Đối với một cuộc tấn công trên biển trong tầm ngắm, ngay cả với điều kiện lý tưởng, chúng ta cũng phải tiếp cận được mục tiêu trong phạm vi từ tám đến mười nghìn mét, để tàu ngầm ở khoảng cách gần như vậy với lõi chống tàu ngầm của kẻ địch thì khác nào tự sát?” Viên chỉ huy tức giận nói.
“Sau khi Lá phong tấn công, trong một khoảng thời gian rất ngắn, hệ thống điện tử của hạm đội địch sẽ bị phá hủy, hệ thống chống tàu ngầm cũng hoàn toàn tê liệt theo. Chúng không còn là mối đe dọa với quân ta nữa,” Lâm Vân nói.
Chỉ huy lực lượng tàu ngầm khịt mũi khó coi, rõ ràng không thèm ngó ngàng tới vị nữ thiếu tá này, chỉ liếc đội trưởng tác chiến một cái, rõ là có ý rằng: Anh có thể tin vào lời của đứa trẻ này không?
Đội trưởng tác chiến kiên quyết lắc đầu: “Phủ quyết, ý kiến này không thể làm theo được.”
Sau một hồi im lặng, vị trung tá hải quân đề xuất một phương án khác: “Chúng ta dùng tàu phóng ngư lôi tàng hình để phục kích hạm đội quân địch ngoài tầm ngắm, sau khi mục tiêu xuất hiện thì tấn công dồn dập trong tầm ngắm.”
“Như vậy cũng không được,” một vị sĩ quan hải quân khác bác bỏ. “Tàu phóng ngư lôi ở ngoài tầm ngắm thì không thể tàng hình được. Anh đã quên mất việc trinh sát trên không của hạm đội địch rồi. Khi đến gần tàu tuần dương, hoạt động tuần tra trên không của kẻ địch rất dữ dội. Tàng hình thì cũng chỉ là đối phó với ra-đa mà thôi. Hành động lần này cần đồng thời tấn công cả hạm đội. Số lượng tàu phóng ngư lôi cần có cũng khá lớn. Đội hình lớn như vậy chắc chắc sẽ bị trinh sát trên không phát hiện, trừ phi đội tàu phóng ngư lôi phục kích bên ngoài vòng tuần tra trên không của kẻ địch tầm ba trăm cây số. Nhưng như thể thì sẽ không có ý nghĩa gì về mặt tác chiến cả.”
Một vị thượng tá lục quân nhìn quanh rồi hỏi: “Không có ai trong lực lượng không quân tới sao? Chúng ta không cần nhắc đến việc tấn công trên không sao?”
Đại tá Hứa đáp: “Lá phong chưa có mô hình bay trên không. Chưa kể, mức độ nguy hiểm của việc tấn công trong tầm ngắm trên không cũng rất lớn.”
Mọi người lại nhất loạt im lặng. Những người trong đơn vị sét hòn có thể cảm nhận được ẩn ý của những người tham dự khác: Thứ đồ chơi rách nát của mấy người khiến người khác đau đầu quá đấy.
Đội trưởng tác chiến nói: “Mọi người tập trung suy nghĩ vào vấn đề này: Thứ gì có thể đến gần được hạm đội địch trong tầm ngắm?”
Lâm Vân đáp: “Chỉ có một thứ thôi, tàu đánh cá.”
Hội trường nổ ra mấy tiếng cười.
“Dựa vào quan sát của chúng tôi, hạm đội địch thường bỏ qua tàu đánh cá ở gần tuyến hạm, đặc biệt là những tàu đánh cá trọng tải nhỏ. Cho nên, chúng ta có thể lợi dụng tàu đánh cá để làm bệ bắn cho Lá phong. Đây thậm chí là phương tiện có thể tiếp cận tới cự ly gần hơn cả cự ly giới hạn của tầm ngắm.”
Hội trường lại vang lên thêm nhiều tiếng cười, Phó trưởng tham mưu lắc đầu: “Thiếu tá đừng nóng giận. Mọi người ở đây đều đang tích cực nghĩ cách.”
Đại tá Hứa nói: “Không, đây thực sự là phương án chúng tôi chính thức xây dựng, hơn nữa, chúng tôi cho rằng đây là phương án khả thi nhất. Phương án này đã được ấp ủ rất lâu từ trước khi cấp trên ra lệnh tác chiến. Chúng tôi đã cử một nhóm nhỏ đặc nhiệm điều tra rất nhiều lần rồi.”
“Chỉ là…” Một viên sĩ quan hải quân nói được nửa chừng thì Đội trưởng tác chiến đã xua tay cắt ngang.
“Đừng nói nữa, xem ra đây thực sự là một giải pháp! Họ cũng đã vận dụng đầu óc.”
“Ha ha, đây mới là cách làm của thời cận đại,” vị Chỉ huy đạn đạo bị Lâm Vân công kích nói.
“Tôi nghĩ còn chưa tới được thời cận đại đâu,” Chỉ huy đội tàu ngầm hùa theo. “Các anh đã nghe qua trận Jütland* và trận hải chiến Tsushima* dùng tàu đánh cá để tấn công tàu chiến chưa?”
“Nếu thời điểm đó có Lá phong thì họ cũng sẽ làm vậy!” Lâm Vân đáp.
“Thế thì trận chiến này không phải hải chiến hiện đại mà giống hải tặc. Nếu tin tức truyền ra ngoài thì thành trò cười cho thiên hạ sao?” Một vị thượng tá hải quân nói.
“Thì sao? Nếu quả thực có thể tạo ra một cơ hội tấn công cho hỏa lực trên bờ thì đừng nói là hải tặc, chúng tôi có làm trộm cướp cũng được” một vị Phó trưởng tham mưu lục quân trong nhóm những người hoạch định phương án tác chiến nói.
Đội trưởng tác chiến mở lời: “Hai điểm thiếu sót của tàu đánh cá chính là không có vũ khí phòng thủ và tốc độ chậm. Nhưng với cự ly gần như vậy, nguy cơ đối mặt với sức mạnh tấn công của cả một hạm đội địch của tàu đánh cá và tàu phóng ngư lôi cũng không khác biệt gì nhiều.”
Không ai phát biểu thêm, những người tham dự đang nghiêm túc suy nghĩ về phương án này. Một vài sĩ quan hải quân vẫn thỉnh thoảng trao đổi ý kiến với nhau bằng giọng nói thì thầm.
“Hiện tại xem ra có thể làm được, về cơ bản. Nhưng…” Một vị sĩ quan hải quân do dự.
Hội trường lại im lặng. Mọi người im lặng vì từ “nhưng” đó. Ai nấy cũng hiểu hàm ý của nó là gì, nếu tấn công thất bại, hoặc tấn công thành công nhưng hỏa lực trên bờ chưa kịp tới, thì những con tàu đánh cá nhỏ không thể trốn thoát trước pháo hạm của một hạm đội mạnh mẽ như vậy.
Nhưng là quân nhân trong thời chiến, họ cũng biết rằng những gì diễn ra sau từ “nhưng” ấy không cần thảo luận tiếp.
“Được rồi, vậy theo cách này, mỗi nhóm sẽ được chia ra để lập phương án tác chiến cụ thể.” Sau khi trao đổi ý kiến với Phó trưởng tham mưu, Đội trưởng tác chiến lớn tiếng ra lệnh.
Ngày thứ hai, đơn vị Thần Quang ngồi trên ba chiếc máy bay vận tải quân sự, đem toàn bộ thiết bị hạ cánh xuống chiến khu ven biển. Đinh Nghi và Lâm Vân ra khỏi máy bay trước tiên, nhìn máy bay tiêm kích và máy bay ném bom lần lượt hạ cánh trên đường băng hai bên. Trên một đường băng xa hơn, một số lượng lớn các máy bay vận tải cũng đang hạ cánh. Từ phía sau máy bay vận tải, từng tốp binh lính mặc đồ rằn ri và xe tăng xuất hiện. Nhiều nhóm máy bay vẫn đang chờ được hạ cánh trên không, phát ra những tiếng gầm vang rất lớn. Trên con đường phía xa, đoàn xe quân sự bằng thép lao vun vút trong đám bụi mù mịt, không biết đâu là đầu đâu là cuối hàng.
“Việc triển khai hoạt động chống đổ bộ đã bắt đầu rồi,” Lâm Vân u ám nói.
“Sét hòn sẽ khiến việc đó trở nên không còn cần thiết nữa,” Đinh Nghi trấn an cô. Lúc này, anh ta vô cùng tự tin.
(Kể tới đây, Đinh Nghi nói: “Lúc ấy, khi tôi vừa nói câu đó xong, Lâm Vân nhìn tôi mấy giây, giống như đứa bé gái vừa tìm được người an ủi. Cảm xúc của tôi lúc đó không tệ. Lần đầu tiên trong đời, tôi cảm thấy bản thân không chỉ là một nhà tư duy, mà còn là một người đàn ông mạnh mẽ.”
“Anh thực sự cho rằng tinh thần của mình mạnh mẽ hơn Lâm Vân sao?” Tôi tò mò hỏi.
“Cô ấy có những điểm yếu. Thậm chí có thể nói rằng, cô ấy rất yếu đuối. Kể từ khi Châu Phong bị đánh chìm, Giang Tinh Thần tử trận, sự yếu đuối của cô ấy ngày càng bộc lộ rõ hơn.”)
Lâm Vân ra hiệu cho Đinh Nghi nhìn về phía bãi cỏ không xa. Đó là khu an ninh được canh gác nghiêm ngặt, binh lính được vũ trang toàn diện đang bảo vệ một núi hàng hóa. Tất cả đều là các thùng kim loại màu xanh sậm. Mỗi thùng có kích thước bằng một nửa container tiêu chuẩn. Một số lượng lớn xe tải nặng quân sự đang không ngừng vận chuyển những thứ này.
“Đều là C803, có lẽ để dành cho trận chiến này,” Lâm Vân nói nhỏ. Đinh Nghi biết cô đang nói tới tên lửa chống hạm có tên gọi là “Cá bay của Trung Quốc”. Đó là vũ khí mạnh nhất trong hệ thống phòng thủ trên bờ của phe ta. Nhưng hiện tại, nó xuất hiệu nhiều tới mức khiến anh ta hoảng sợ.
Sau khi lô súng máy lôi cầu đầu tiên tới nơi, chúng lập tức được vận chuyển tới cảng. Tàu đánh cá được trưng dụng đã chờ sẵn ở đó. Những con tàu đánh cá này rất nhỏ, trọng tải tàu không quá một trăm tấn. Pin siêu dẫn của mỗi khẩu súng máy lôi cầu đều được đặt ở cabin. Bệ bắn rất dài nên chỉ có thể đặt trên boong tàu, dùng bạt hoặc lưới đánh cá phủ lên. Trên tất cả các con tàu đánh cá, ngư dân được thay bằng thuyền trưởng và các thủy thủ hải quân. Hơn một trăm người, lái năm mươi con tàu đánh cá.
Sau khi rời cảng, Lâm Vân và Đinh Nghi đi tới Trung tâm Chỉ huy Phòng thủ Ven bờ của chiến khu. Hứa Văn Thành và Khang Minh đã dẫn đơn vị Thần Quang tới đó tập kết. Trong phòng tác chiến, một vị đại tá hải quân đang khái quát tình hình của kẻ địch trên màn hình lớn với họ.
“… Trung tâm của hạm đội địch gồm ba hàng không mẫu hạm. Đó là mẫu hạm Carl Vinson, Stennis và Mỹ. Tất cả đều là mẫu hạm chạy bằng năng lượng hạt nhân mới nhất được hạ thủy sau những năm 80 của thế kỷ trước. Phần còn lại của nhóm chiến đấu bao gồm ba tàu tuần dương, mười bốn tàu khu trục, mười hai tàu hộ tống và ba tàu tiếp liệu. Tổng cộng là ba mươi lăm tàu nổi. Không rõ số lượng tàu ngầm. Ước tính khoảng mười tàu ngầm tấn công. Mọi người có thể nhìn thấy sơ đồ về đội hình hạm đội trên đây.”
Màn hình xuất hiện một sơ đồ, giống như một thế cờ phức tạp do nhiều quân cờ dài tạo thành.
“Đây là đội hình phục kích của quân ta.”
Trong sơ đồ, hai bên đội hình của hạm đội địch xuất hiện hai hàng chấm nhỏ. Mỗi hàng có hai mươi lăm dấu chấm.
“Dựa theo sơ đồ này, mọi người có thể dễ dàng xác định được mục tiêu do mình phụ trách. Tôi cần giải thích rằng: Sau khi hạm đội địch tiến vào vùng biển ngoài khơi thì đội hình có thể thay đổi. Đây là cách bố trí phòng thủ ngoài khơi điển hình. Tôi cho rằng đội hình của địch cũng sẽ không thay đổi quá lớn. Đến lúc đó, các điểm hỏa lực sẽ được điều chỉnh lại mục tiêu tùy theo tình hình thực tế.”
“Chúng ta cần nhấn mạnh về trọng tâm của cuộc tấn công: theo như tôi vừa tìm hiểu được, mọi người đã nhất trí cho rằng trọng tâm của cuộc tấn công là mẫu hạm. Bên lục quân nghĩ như vậy thì có thể vì tình mà tha thứ được nhưng các đồng chí hải quân mà cũng giữ ý nghĩ như vậy thì thật nực cười. Hãy nhớ lấy: Không cần quan tâm tới mẫu hạm, trọng điểm tấn công của chúng ta là tàu tuần dương! Những con tàu đó là trung tâm điều khiển và là lực lượng chính của bộ phận điện tử trong hệ thống chiến đấu Aegis*. Sau đó, mục tiêu tấn công tiếp theo của ta là tàu khu trục, chúng là bộ phận cấu thành nên hệ thống phòng thủ. Chỉ cần làm tê liệt những mục tiêu này thì cả hạm đội sẽ như cá nằm trên thớt. Đồng thời, từ vị trí cho thấy, những tàu này cũng gần các điểm hỏa lực nhất. Nếu như bỏ qua vùng ngoài mà đánh vào tàu lõi trước thì hậu quả sẽ không thể tưởng tượng nổi. Tôi nhấn mạnh thêm lần nữa: Mẫu hạm là thịt, còn tàu tuần dương và tàu khu trục là xương sống của hạm đội! Đối với mỗi con tàu tuần dương, chúng ta cần ít nhất tám trăm phát bắn, mỗi tàu khu trục thì cần từ một trăm năm mươi đến hai trăm phát bắn.”
Trên màn hình lớn xuất hiện hình ảnh cắt dọc của một tàu chiến. Hình ảnh cho thấy cấu trúc bên trong của nó phức tạp đến chóng mặt. Sau đó, một đường màu xanh lá cây kéo dài từ đài chỉ huy, ngoằn ngoèo xuyên qua thân tàu, giống như con giun đũa đang ngọ nguậy.
“Đây là hình ảnh mặt cắt của tàu tuần dương mang tên lửa dẫn đường Ticonderoga*. Đường màu xanh này là đường bắn của súng máy lôi cầu.”
Trên đường màu xanh lá cây quanh co đó xuất hiện rất nhiều vòng trò nhỏ, bên cạnh mỗi vòng tròn là một con số.
“Những vòng tròn đánh dấu này chính là những vị trí tấn công quan trọng. Con số bên cạnh là số lượng lôi cầu được đề xuất bắn tới vị trí này. Tập bản đồ mà tôi vừa phát cho mọi người chính là hình ảnh mặt cắt và tuyến đường quét qua của tất cả các tàu của hạm đội địch. Thời gian có hạn nên mọi người không thể nhớ hết được, mỗi người chỉ cần ghi nhớ mục tiêu do mình phụ trách thôi. Đối với bên lục quân, các đồng chí sẽ gặp khó khăn để hiểu được nguyên lý của sơ đồ này nên chỉ còn cách học vẹt. Nhưng tôi có thể giải thích qua rằng: Đối với tàu tuần dương và tàu khu trục, mục tiêu tấn công là hệ thống máy tính Aegis. Tiếp theo, mời người phụ trách kỹ thuật hệ thống vũ khí bổ sung thêm.”
Lâm Vân bước lên phía trước và nói: “Những gì cần nói thì chúng tôi đều đã nói ở Trung tâm huấn luyện Bắc Kinh rồi. Tại đây, tôi chỉ muốn nhắc lại với mọi người: Theo tốc độ bắn thông thường của súng máy lôi cầu, mọi người cần tấn công mỗi mục tiêu trong vòng bốn mươi giây đến một phút. Đây là một khoảng thời gian khá dài cho nên mọi người không cần hoảng loạn. Đường đạn của lôi cầu rất rõ ràng, như mọi người dùng súng máy thông thường bắn pháo sáng thôi. Mọi người chỉ cần tạo đường đạn ổn định rồi di chuyển để bắn quét.”
“Đuôi sóng do hạm đội tạo ra là một vấn đề rất lớn. Tàu của chúng ta đều là tàu nhỏ, do đó sóng động chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới việc bắn. Khi hạm đội địch hoàn toàn tiến vào vùng biển mai phục, đuôi sóng ở nửa sau gần như đã bình lặng, cho nên lúc bắn sẽ chịu ảnh hưởng lớn nhất từ giữa tuyến phục kích. Nhóm quen thuộc với tình hình này nhất được chúng ta sắp xếp chính là nhóm hỏa lực. Họ từng được huấn luyện trên biển, có kinh nghiệm bắn trong tình huống sóng biển dữ dội… Những thao tác này vốn cần được huấn luyện trong một thời gian dài nhưng giờ không kịp nữa rồi, chỉ đành dựa vào việc mọi người phát huy ra sao trên chiến trường thôi!”
“Thiếu tá đừng lo, xạ thủ có thể bắn mẫu hạm làm sao lại bắn không tốt được?” Một vị thiếu úy nói.
“Tôi xin nhắc lại lần nữa: một khi mẫu hạm chưa tiến vào phạm vi tấn công thì không được nghĩ tới nó! Ai lãng phí đạn dược bắn vào mẫu hạm thì phải chịu trách nhiệm!” Đại tá hải quân tức giận hét lên, gây ra một tràng cười.
Sau khi trời tối, đơn vị Thần Quang tới một trường bắn. Tại đây, họ nhìn thấy một hạm đội mô phỏng kỳ lạ. Đó là hình dạng mặt bên của những con tàu khác nhau được cắt ra từ hàng chục tấm bìa cứng. Phía dưới mỗi tấm bìa cứng đều có hai bánh xe nhỏ, một binh sĩ ở đằng sau đẩy tấm bìa lên phía trước. Những tấm bìa này đang xếp thành một đội hình hạm đội của kẻ địch, từ từ được di chuyển tới trường bắn. Mỗi một xạ thủ dùng súng máy hạng nhẹ để ngắm mục tiêu do mình phụ trách. Phía trước nòng súng của súng máy đều được buộc một thước trỏ laser. Các xạ thủ phải cố gắng sao cho đốm đỏ chạm tới tuyến bắn quét đang di chuyển trên bia theo dự định. Buổi luyện tập kéo dài tới tận khuya, cho tới khi mọi người đều thuộc lòng quá trình nhắm bắn mục tiêu do mình phụ trách. Hình ảnh các con tàu di chuyển từ từ trong đêm đen, cùng với những đốm đỏ đang di chuyển trên các con tàu ấy tạo nên một bức tranh trừu tượng và bí ẩn có tác dụng thôi miên, cuối cùng khiến mọi người đều cảm thấy buồn ngủ.
Đến giữa đêm, mọi người quay lại một tòa nhà lớn trong doanh trại hải quân để nghỉ ngơi. Người ta kể rằng, trước cuộc đổ bộ Normandie*, một nhà tâm lý học đã quan sát giấc ngủ của các binh sĩ. Ông vốn cho rằng trong đêm trước trận chiến đẫm máu, không ai có thể ngủ được, nhưng thực tế lại hoàn toàn ngược lại, mọi người đều ngủ sâu hơn bình thường. Ông cho rằng đây là phản ứng bản năng của cơ thể đối với sự tiêu hao năng lượng quá mức sắp xảy ra. Phản ứng này chỉ biểu hiện đối với nhóm người. Lúc này, mọi người nhanh chóng chìm vào giấc ngủ. Một đêm không hề mộng mị.
Mới sáng sớm, đơn vị Thần Quang đã tập trung ở bến tàu để xuất phát. Mặt trời vẫn chưa nhô lên khỏi đường chân trời, năm mươi chiếc tàu đánh cá đang đậu ở cảng, dập dình theo sóng biển trong màn sương sớm.
Lâm Vân tới bến tàu trên một chiếc xe jeep, trên xe chất vài cái túi lớn màu rằn ri. Cô ấy mang mấy chiếc túi này xuống xe, đoạn mở túi ra, bên trong nhét đầy quân phục. Đơn vị Thần Quang thay sang bộ quần áo lao động của công ty đánh bắt hải sản còn vương đầy mùi tanh của biển. Những bộ quần áo này chính là đồ họ để lại.
“Lâm Vân, cô làm gì thế?” Trung tá Khang Minh hỏi.
“Anh hãy để các chiến sĩ mặc quân phục rồi khoác đồng phục lao động bên ngoài. Sau khi tác chiến hoàn thành, bọn họ cần lập tức cởi bỏ đồng phục lao động ra.
Khang Minh im lặng rất lâu, đoạn chậm rãi lắc đầu: “Cảm ơn ý tốt của cô nhưng đơn vị Thần Quang có nguyên tắc riêng. Chúng tôi không thể bị bắt làm tù binh. Cô cứ để những đồng chí hải quân trên thuyền mặc đi*.”
“Chưa cần bàn tính tới các sĩ quan trên cấp Trung úy, nhưng những chiến sĩ nhận nhiệm vụ lần này đều là các xạ thủ súng máy lôi cầu. Họ biết rất ít. Tôi đã xin ý kiến chỉ đạo về việc này. Cấp trên đã đồng ý. Hãy tin tôi!”
Những gì Lâm Vân nói là sự thực. Trong thời gian đầu huấn luyện đơn vị Thần Quang, ý kiến của Khang Minh là phải huấn luyện các хạ thủ đa chiều. Tức là họ vừa có thể sử dụng súng vừa bảo quản được súng máy lôi cầu. Nhưng Lâm Vân đã phản đối, cô ấy chủ trương cần nghiêm ngặt tách biệt giữa xạ thủ bắn súng và nhân viên kỹ thuật bảo trì. Sau này, mọi việc đều dựa theo ý kiến của cô ấy. Vậy nên, các xạ thủ súng máy lôi cầu đều không được phép tháo vũ khí ra, không có bất kỳ cơ hội nào để tiếp xúc được với nguyên lý và các thông tin kỹ thuật liên quan tới vũ khí, chỉ biết cách sử dụng. Thậm chí cho tới tận bây giờ, các xạ thủ vẫn không biết đạn họ bắn là sét hòn, họ chỉ cho rằng đây là một loại đạn bức xạ điện từ được các chỉ huy giới thiệu sơ. Hiện tại, xem ra cách làm của Lâm Vân không chỉ vì yêu cầu bảo mật mà còn thực sự suy nghĩ tới lợi ích của mọi người.
“Nhiệm vụ như này rất hiếm gặp trong chiến tranh hiện đại. Nếu tấn công thất bại, chỉ cần phá hủy kịp thời vũ khí thì chúng ta không cần yêu cầu gì nhiều hơn từ các binh sĩ,” Lâm Vân chân thành nói.
Trung tá Khang do dự vài giây, sau đó vẫy tay với nhóm lính: “Được rồi, mọi người mau mặc quân trang đi, mau lên!” Nói xong, anh ta quay sang Lâm Vân và đưa tay về phía cô. “Thiếu tá Lâm, cảm ơn cô.”
(“Từ câu chuyện này, anh cũng có thể nhìn ra được điểm yếu đuối của Lâm Vân,” Đinh Nghi nói.)
Sau mười phút, năm mươi chiếc tàu đánh cá lần lượt rời bến. Đây giống như một cảnh tượng đánh cá buổi sớm điển hình. Ai có thể ngờ được những chiếc tàu đánh cá nhỏ bé, thô lậu này đang phải ra khơi đi tấn công hạm đội mạnh nhất trên hành tinh này.
(Câu chuyện dưới đây đều là chuyện Đinh Nghi được nghe kể sau này.)
Sau khi tàu rời cảng, trên một con tàu đánh cá lớn hơn các con tàu khác được trưng dụng làm tàu chỉ huy, Khang Minh và các chỉ huy hải quân đã mở một cuộc họp. Chỉ huy của hơn một trăm thuyền trưởng và thủy thủ trên tàu đánh cá là một vị Thiếu tá hải quân, một vị Thượng úy và hai vị Trung úy.
Thiếu tá hải quân nói với Khang Minh: “Trung tá, tôi nghĩ người của anh nên trốn ở khoang dưới cùng. Nhìn các anh trông không giống đang đi đánh cá chút nào cả.”
“Chúng tôi không chịu nổi mùi cá tanh ở dưới đó,” Khang Minh cười gượng đáp lại.
Thượng úy nói: “Mệnh lệnh chỉ yêu cầu chúng tôi lái tàu đánh cá tới vùng biển được chỉ định. Khi hạm đội địch xuất hiện thì chúng tôi sẽ nhận lệnh chỉ huy từ anh. Cấp trên nói nhiệm vụ lần này cực kỳ nguy hiểm nên để cho chúng tôi tự nguyện tham gia. Chuyện này cũng hiếm gặp đấy.”
Một vị Trung úy lên tiếng: “Tôi là thuyền trưởng lữ đoàn, nếu bị đánh chìm trên con tàu đánh cá nhỏ như này thì cũng thê thảm quá.”
“Nếu con tàu nhỏ này tấn công nhóm chiến đấu của mẫu hạm thì sao?” Khang Minh hỏi.
Vị Trung úy gật đầu: “Như vậy thì oanh liệt hơn. Tấn công mẫu hạm đương nhiên là lý tưởng cao nhất của tôi, rồi sau đó mới tới việc được làm tàu trưởng, thứ đến là tìm được một cô gái tốt, chấp nhận việc chúng tôi ra khơi dài ngày.”
“Mục tiêu của chúng ta là tàu tuần dương. Nếu thành công, mẫu hạm của kẻ địch sẽ bị đánh chìm trong vài phút.”
Bốn vị sĩ quan hải quân sửng sốt: “Trung tá, không phải anh đang đùa chứ?”
“Có gì mà phải ngạc nhiên vậy?” Khang Minh hỏi vặc lại. “Tinh thần hăng hái của các bậc tiền bối đâu hết cả rồi. Thời những ngày đầu mới thành lập đất nước, hải quân cũng đã dùng một chiếc thuyền gỗ đánh chìm một tàu khu trục.”
“Đúng thế, nếu mọi thứ cứ tiếp diễn như này thì chúng ta có lẽ sẽ dùng cả ván lướt sóng để tấn công căn cứ chiến lược trên biển*,” vị Thiếu tá nói.
Một vị Trung úy thắc mắc: “Mặc dù vậy, chúng tôi cũng phải có vũ khí chứ? Vũ khí trên thuyền hiện chỉ là mấy khẩu súng lục mà chúng tôi có.”
“Các anh nghĩ thiết bị mà chúng tôi mang lên tàu là gì?” Khang Minh hỏi.
“Đó là vũ khí sao?” Thiếu tá đưa mắt nhìn ba đồng nghiệp của mình rồi hỏi.
“Nó giống như ra-đa. Thứ trên boong tàu không phải là ăng-ten sao?” Thượng uý nói.
“Tôi nói các anh nghe này, đó là thứ vũ khí mà chúng ta sẽ sử dụng để tấn công nhóm chiến đấu của mẫu hạm,” Khang Minh nói.
Thiếu tá bật cười: “Đồng chí Trung tá, anh cứ khiến chúng tôi không nghiêm túc nổi.”
Một vị Trung úy khác tự cao chỉ vào hai cục pin siêu dẫn, nói: “Tôi biết rồi, đây là bom chìm*, cái giá sắt phía trên là ray phóng đạn.
Khang Minh gật đầu: “Tôi không thể nói cho các anh biết tên thật của thứ vũ khí này, gọi nó là bom chìm cũng được.” Nói đoạn, anh ta chỉ cho các vị sĩ quan hải quân một nút màu đỏ trên pin siêu dẫn. “Đây là nút tự hủy, trong trường hợp khẩn cấp, điều đầu tiên mà chúng ta cần làm đó là nhấn nút này và ném thứ vũ khí này xuống biển. Bất luận thế nào cũng không được để kẻ địch nhìn thấy nó.”
“Chuyện này đã được cấp trên nhấn mạnh nhiều lần. Anh cứ yên tâm… Nếu không còn việc gì khác, chúng tôi xin phép tiếp tục làm việc. Cái tua-bin rách nát này rỉ dầu ra khắp nơi rồi.”
Tới trưa, những con tàu đánh cá đã tới vị trí phục kích, bắt đầu thời gian chờ đợi đằng đẵng. Trong khoảng thời gian này, Khang Minh không còn việc gì ngoài tuần tra một vòng tuyến phục kích và kiểm tra trạng thái súng máy trên các tàu.
Trên con tàu của Khang Minh có một bộ điện đài, mới liên lạc với Tổng bộ hai lần. Một lần là để báo cáo tàu đã tới vị trí chỉ định, lần thứ hai là để giải quyết một vấn đề phụ: Khang Minh đặt câu hỏi về việc tắt đèn trên tàu khi trời tối, hành động này chắc chắn sẽ làm kẻ địch nghi ngờ. Tổng bộ đồng ý, ra chỉ thị sau khi trời tối thì các thuyền vẫn bật đèn như bình thường. Đối với hành tung của hạm đội địch, Tổng bộ không đưa ra bất cứ tin tức mới nào.
Sự căng thẳng và hưng phấn của họ nhanh chóng bị mặt trời nóng bỏng cuốn trôi, họ không đưa ống nhòm để nhìn về phía chân trời ở hướng Bắc nữa. Để không thu hút sự chú ý, con tàu thỉnh thoảng đi lại trong một phạm vi nhỏ, còn thả lưới xuống rồi kéo lên vô ích. Vị Thượng úy hải quân kia rất giỏi đánh bắt. Anh ta thậm chí còn đánh được mấy con cá. Trong lúc nói chuyện, Khang Minh biết được anh ta tới từ một làng chài ở Sơn Đông.
Họ dành phần nhiều thời gian để chơi bài poker và tán gẫu trong bóng râm trên boong tàu, bàn về tràng giang đại hải nhưng tuyệt đối không đề cập tới nhiệm vụ trước mắt và số mệnh của hạm đội phục kích nhỏ nhoi này.
Khi trời dần về khuya, sau một thời gian dài chờ đợi, đội ngũ đã bắt đầu thả lỏng. Kể từ lần cuối cùng liên lạc với Tổng bộ, hơn tám tiếng đã trôi qua. Trong thời gian này, điện đài vẫn im ắng. Tiết tấu đơn điệu của những con sóng đập vào mạn thuyền, Khang Minh đã mấy đêm không yên giấc bắt đầu buồn ngủ, nhưng anh vẫn cố gắng duy trì trạng thái tỉnh táo.
Có người khẽ huých anh, là vị Thiếu tá hải quân. “Nhìn về bên trái phía trước, nhưng đừng lộ liễu quá,” anh ta nói nhỏ. Lúc này, ánh trăng màu đỏ sẫm nhô lên từ đường chân trời, mặt biển trở nên sáng rõ. Khang Minh nhìn theo, đầu tiên, anh thấy một đuôi sóng hình chữ V trên mặt biển, đoạn nhìn tới phần đầu của đuôi sóng, đó là một cái que mảnh mai màu đen dựng đứng. Phần đầu của cái que có một quả bóng.
Cảnh tượng đó làm anh ta nhớ đến bức ảnh con quái vật hồ Loch Ness. Con quái vật trong bức ảnh có cái cổ dài ngoằng vươn lên từ mặt hồ đen ngòm.
“Kính tiềm vọng*,” Thiếu tá thì thầm.
Cái que dài di chuyển với tốc độ rất nhanh, vạch ra một đường vòng cung khi thân của nó trượt trong nước. Người trên tàu có thể nghe thấy tiếng nước róc rách. Nhưng tốc độ di chuyển của cái que chậm dần, sóng nước tạo ra cũng nhỏ lại rồi biến mất. Kính tiềm vọng di chuyển tới ngay trước mũi tàu, cách khoảng hai mươi mét rồi dừng lại.
“Đừng nhìn vào nó,” Thiếu tá nói với một nụ cười mỉm, giống như đang chuyện trò say sưa với Khang Minh.
Trong khoảnh khắc rời ánh mắt đi, Khang Minh nhìn thấy rõ ánh phản quang của thủy tinh trên quả bóng ở đầu cái que. Lúc này, Thượng úy và hai vị Trung úy bước ra khỏi buồng lái, cầm con thoi trong tay, ngồi xuống tấm bạt đang phủ lấy bệ bắn để vá lưới trong ánh trăng. Khang Minh nhìn chằm chằm vào đôi tay điêu luyện của viên Thượng úy, sau đó cũng ngồi vá cùng họ. Đầu óc của anh ta lại tập trung vào cái mắt quái dị đang nhìn chằm chằm sau lưng, cảm thấy như có gai chọc vào lưng mình.
“Tôi sẽ ném cái lưới này xuống, nhắm vào chân vịt của thứ đen đủi đó,” viên Thượng uý nói với vẻ mệt mỏi, như thể đang càu nhàu vì phải làm việc lúc đêm hôm khuya khoắt như thế này.
“Sau đó ném hai quả bom chìm xuống,” vị Thiếu uý cười toe toét, sau đó nói với Khang Minh: “Nói gì đó đi.”
Nhưng Khang Minh không thốt lên được lời nào. Thượng úy chỉ vào lưới đánh cá rồi hỏi anh ta: “Nhìn xem tôi vá đẹp không này?”
Khang Minh giơ tấm lưới mới được vá lên trong luồng ánh sáng chiếu ra từ buồng lái, nói với Thượng úy: “Hãy để chúng nhìn thấy tài nghệ của anh.”
Thiếu tá thì thầm: “Nó quay lại rồi.”
Thượng tá cảnh cáo Khang Minh: “Đừng quay đầu lại.”
Sau một lúc, bọn họ lại nghe thấy âm thanh lạch cạch, quay đầu nhìn thì thấy cái que đã di chuyển về xa với tốc độ rất nhanh, sau đó hạ thấp dần rồi chìm vào trong nước.
Thượng úy ném con thoi xuống, đứng lên nói với Khang Minh: “Trung tá, nếu tôi là người thuyền trưởng kia thì đã sớm nhận ra kẽ hở rồi. Cách anh cầm thoi không đúng!”
Lúc này, điện đài nhận được đoạn tin ngắn từ Tổng bộ, nói rằng hạm đội địch đã tiến tới vùng biển phục kích, chuẩn bị tấn công.
Một lúc sau, họ nghe thấy tiếng gầm nhẹ, âm thanh này càng ngày càng to. Họ nhìn về phía Bắc, thấy một hàng chấm đen xuất hiện trong bầu trời đêm, đếm được có năm chấm, một chấm tình cờ nằm trong ánh sáng của mặt trăng nên họ có thể thấy rõ cánh quạt đang quay.
Năm chiếc trực thăng nhanh chóng áp sát, ầm ầm lao qua bọn họ, đèn ở bụng máy bay đang nhấp nháy tín hiệu đỏ. Một chiếc trực thăng ném xuống một cái gậy, thứ này tạo ra một đám bột trắng xung quanh vùng biển cách họ không xa. Sau khi bay qua một đoạn nữa, một chiếc trực thăng lại ném cái thứ đó xuống. Khang Minh hỏi đó là gì, vị Thiếu tá vừa bước ra từ boong tàu đáp:
“Phao âm*, dùng để do thám tàu ngầm. Kẻ địch rất chú ý tới việc chống tàu ngầm.”
Đám trực thăng nhanh chóng biến mất về phía Nam, bốn bề lại yên tĩnh trở lại. Lúc này, tai nghe siêu nhỏ trong tai của Khang Minh vang lên tiếng từ Tổng bộ. Chiếc tai nghe này được kết nối với điện đài trong cabin.
“Mục tiêu đã đến gần. Các thuyền vào trạng thái bắn. Hết.”
Lúc này, mặt trăng bị mây mù che khuất, mặt biển tối đen, nhưng bầu trời phía Bắc lại xuất hiện một vầng sáng lớn. Lúc còn ở căn cứ, mỗi tối, Khang Minh đều nhìn thấy thứ ánh sáng này trên bầu trời phía xa thành phố. Anh ta giơ ống nhòm lên, có lúc còn tưởng mình đang nhìn thấy bờ biển đèn đóm sáng rực.
“Vị trí của chúng ta gần phía trước quá rồi!” Thiếu tá đặt ống nhòm xuống hét lên, sau đó nhảy vào buồng lái, động cơ của tàu đánh cá gầm lên, quay đầu ngược lại.
Vùng trời phương Bắc ngày càng sáng, khi những con tàu đánh cá quay đầu lần nữa thì đã có thể nhìn thấy đèn sáng ở “bờ biển” ngay đường chân trời mà không cần dùng tới ống nhòm. Dùng ống nhòm nhìn thêm lần nữa, họ phân biệt được rõ từng thân tàu. Lúc này, âm thanh trong tai nghe của Khang Minh vang lên:
“Các tàu chú ý, đội hình của mục tiêu không có gì thay đổi, tất cả hành động theo phương án ban đầu. Hết.”
Khang Minh biết quyền chỉ huy trên chiến trường bây giờ đã hoàn toàn chuyển giao cho con tàu này của bọn họ rồi. Nếu mọi việc diễn ra theo đúng kế hoạch thì họ chỉ cần đợi tàu tuần dương đi đầu hạm đội địch tới trước con tàu đánh cá nhỏ này là có thể ra lệnh khai hỏa. Bởi vì đội hình hạm đội địch đã được biết trước, khi chúng đi vào vòng phục kích. Hiện tại, việc cuối cùng họ cần làm trước khi khai hỏa chính là mặc áo phao vào.
Hạm đội nhanh chóng tiếp cận, dùng mắt thường cũng có thể phân biệt được mỗi con tàu trong ánh sáng của đèn biển. Khang Minh bắt đầu nhận biết từng mục tiêu, nghe thấy giọng của viên Thượng úy hải quân hét lên: “Nhìn kìa, USS Stennis*” Có lẽ trong Học viện Hải quân, hình dáng của mẫu hạm này đã in sâu vào tâm trí anh ta. Anh ta vừa hét vừa nhìn Khang Minh như thể muốn nói: Để tôi xem bây giờ mấy anh định làm cái gì. Khang Minh đứng lên mũi thuyền, bình tĩnh nhìn hạm đội đang tiến sát tới.
Lúc này, mặt biển trước mắt họ đang phản chiếu rất nhiều đốm sáng hình bầu dục do đèn pha của đội tàu rung lắc dữ dội rọi tới. Tàu đánh cá bị các đốm sáng này vây quanh, mặt biển kéo theo những chiếc bóng dài, nhưng chùm ánh sáng của đèn pha nhanh chóng rọi sang phía khác. Con tàu đánh cá nhỏ này rõ ràng không đáng để lưu tâm. Lúc này, trên mặt biển, hạm đội khổng lồ đã được thu vào tầm mắt. Từng chi tiết của hai con tàu tuần dương phía trước trong ánh trăng và ánh đèn trên tàu đều được nhìn rõ. Sáu con tàu khu trục ở hai bên vẫn chỉ là những bóng đen. Chính giữa hạm đội là ba con tàu hàng không mẫu hạm. Thân hình khổng lồ của chúng tạo thành ba cái bóng khổng lồ trên biển. Lúc này, người trên tàu đánh cá nghe thấy tiếng rít sắc nhọn ngày càng lớn ở trên đầu mình, giống như bầu trời đang bị cắt làm mấy phần, khiến da đầu tê dại. Họ bất ngờ ngẩng lên thì thấy bốn chiếc máy bay tiêm kích đang chao liệng trên không trung. Những con sóng bắt đầu đánh ầm ầm vào mạn thuyền. Đây là âm thanh do sức mạnh của những con tàu thép khổng lồ va vào sóng biển. Thân trắng mảnh mai của tàu tuần dương di chuyển trước mắt họ. Theo sau là một vài tàu khu trục màu xám. Mặc dù nhỏ hơn tàu tuần dương nhưng vì chúng ở phía bên này của hạm đội, gần với họ nhất nên nhìn có vẻ vẫn lớn hơn rất nhiều so với mấy con tàu phía sau. Kết cấu phức tạp trên thân tàu và các loại sợi ăng-ten xếp ngang dọc khiến người nhìn vào hoa mắt chóng mặt. Họ có thể nhìn thấy rõ các thủy thủ đang đi lại trên tàu. Không bao lâu sau, ba chiếc tàu mẫu hạm bị tàu khu trục chắn mất dần xuất hiện trên mặt biển. Đây là ba thành phố trên biển chạy bằng năng lượng hạt nhân. Ba ngọn núi thép mang theo hơi thở chết chóc, hình dáng khổng lồ thoạt nhìn không hề giống một thứ do con người tạo ra. Trước hạm đội đồ sộ này, những người trên các con tàu đánh cá có một cảm giác siêu thực, giống như họ vừa đáp xuống một hành tinh xa lạ có những lâu đài thép khổng lồ.
Khang Minh kéo ra chiếc micro không dây nhỏ từ cổ áo. Hai xạ thủ của đơn vị Thần Quang đang đợi trong khoang tàu kéo tấm bạt che súng máy lôi cầu ra, nằm phục xuống phía sau súng máy, ngắm bắn con tàu tuần dương đi qua, bệ bắn di chuyển từ từ theo con tàu ấy. Khang Minh trầm giọng ra lệnh: “Các điểm hỏa lực! Bắn.”
Tia sét xuất hiện trước bệ bắn, một chuỗi tiếng nổ chấn rung màng nhĩ vang lên, ánh sáng điện màu xanh chớp mạnh chiếu sáng cả vùng biển xung quanh. Một chuỗi lôi cầu màu đỏ bay sát mặt biển, kéo theo một cái đuôi rất dài, phát ra những tiếng rít sắc nhọn. Chuỗi sét hòn nhẹ nhàng bay qua phần đuôi của con tàu khu trục thứ nhất, rồi bay tiếp qua phần đầu của con tàu khu trục thứ hai, hướng thẳng về phía tàu tuần dương. Cùng lúc đó, điểm hỏa lực của những con tàu đánh cá khác cũng đang bắn những chuỗi sét hòn về phía hạm đội, nhìn từ xa trông giống những con đường ánh sáng. Khi dừng lại ở một vị trí đủ lâu, chuỗi sét hòn sẽ để lại dấu tích huỳnh quang ở chính vị trí đó trên đường đạn ấy. Dấu tích này do ion hóa không khí tạo thành. Sau khi chuỗi sét hòn rời đi, dấu tích ấy sẽ phát ra huỳnh quang trong một thời gian dài. Dấu vết huỳnh quang kéo dài sẽ tạo thành hình quạt có trung tâm là các t