← Quay lại trang sách

Chương 1 NHỮNG ĐỨA CON CỦA PROTEUS

Năm chiếc bóng lực lưỡng di chuyển dần xuống một con phố vắng lặng ở vùng ngoại ô của khu El Amel, thành phố Baghdad. Trên cao, mảng trời của phút cuối đêm đang cố chống lại sự xâm lấn của bình minh màu vàng cát. Lời kêu gọi các con chiên cầu nguyện buổi sáng vừa phát ra trong thành phố và các vùng lân cận lập tức chìm lỉm trong bầu nhiệt độ như thiêu đốt. Một vài người ngơ ngác mở cửa rồi vội vàng đóng ngay lại; người dân ở đây biết rõ khi nào cần phải ẩn náu. Nhưng trong góc phố, cánh cửa của một ngôi nhà đột ngột mở ra, những người đàn ông nhẹ nhàng đi vào trong nhà. Hôm đó là ngày 30 tháng Chín năm 2004 và họ chuẩn bị triển khai một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất từ trước đến nay.

Đó là một ngôi nhà rất bình thường, giống như một nếp gợn trong bức ảnh mà các điểm ảnh đều bị vỡ, chỉ còn hình ảnh nhòe nhoẹt của những khối bê tông màu vàng nâu kéo tít tắp tới tận đường chân trời. Nhưng bên trong ngôi nhà là căn cứ của một trung tâm đầu não dã chiến có tổ chức, chuyên thu thập dữ liệu và phát đi khắp thành phố các thông tin hướng dẫn. Những tấm bản đồ, hình ảnh mục tiêu và danh sách những việc cần chuẩn bị cho các chiến dịch treo la liệt trên các bức tường. Vật dụng cá nhân, bao gồm vũ khí và trang phục, được đóng gọn gàng và xếp ở góc nhà. Những kẻ chịu trách nhiệm về an ninh đang tuần tra ngoài phố, trong tay lăm lăm vũ khí. Những tân binh chào hỏi các thành viên khác trong nhóm – các sĩ quan phân tích và sĩ quan tình báo – bằng những cái ôm siết. Họ hỏi thăm nhau về gia đình, nói đùa về các đồng nghiệp. Mọi người gặp gỡ ba chiến binh mới được cử vào nhóm – cả ba vừa trải qua đợt tập huấn và được chuyển thẳng đến Iraq. Những gương mặt non trẻ bộc lộ thứ cảm xúc pha trộn giữa bối rối và hào hứng, và những người từng trải hơn chỉ nhìn thoáng qua cũng hiểu rằng những cảm giác ấy sẽ sớm được thay thế bởi nỗi sợ hãi.

Cả nhóm đi qua sảnh chính của ngôi nhà mà họ dùng làm căn cứ, để lại đám bụi trên những bức ảnh gia đình hạnh phúc của chủ nhân cũ ngôi nhà này. Những gã đàn ông mặc trang phục chiến đấu ngồi xuống một chiếc ghế bọc nhung màu tím hoa cà, trong căn phòng từng là phòng khách của gia chủ. Nếu có bất kỳ ai nhận ra sự hài hước hoặc bi ai trong tình huống này thì có lẽ họ cũng không nói ra. Họ đã học cách phân chia rạch ròi những cảm xúc trong chiến tranh, và quy chúng thành dạng “thiệt hại ngoài dự kiến”, ví dụ như cái chết của những người ngoài cuộc. Họ học cách làm vậy để chấp nhận sự tàn nhẫn của cuộc chiến như là một phần tất yếu, nếu muốn có được tương lai tươi sáng hơn. Họ đã quá mệt mỏi trước bất kỳ hành vi mang tính phản xạ nào đối với sự dịu dàng hay hài hước.

Nhân vật lão làng nhất của đơn vị tập trung nghiên cứu tấm bản đồ thể hiện địa điểm mục tiêu và xem xét cách thức tiến quân. Ông tóm lấy ba cái lót cốc và một viên gạch lát sàn, đã vỡ từ những lần đụng độ trước, để mô phỏng cách thức xe của họ sẽ đi vào vùng chiến dịch, cùng hàng chục cạm bẫy ngu ngốc họ phải tìm cách tránh. Mỗi cú khoát tay của ông là lời tổng kết đỉnh cao sau hàng tuần trời nghiên cứu: giải mã và tổng hợp thông tin, thu thập và lắp ráp các thiết bị đặc biệt. Nghệ thuật tiến hành cuộc chiến theo mạng lưới mà họ vừa mới nắm vững là một ví dụ. Mặc dù chỉ có ba người được chọn là những người nổ súng, nhưng hàng chục người ở các vị trí chỉ huy khác nhau và ở các nước khác nhau đã có những đóng góp quan trọng đối với chiến dịch này.

Các chiến thuật và chiến lược tổng thể của cuộc chiến đã khác xa hẳn so với những hình dung ban đầu của họ. Đây không phải là cuộc chiến của các kế hoạch và kỷ luật, nó là cuộc chiến của sự nhanh nhạy và sáng tạo. Đơn vị của họ đã hình thành nhịp độ hoạt động của một khu tự trị địa phương kết hợp thông tin liên lạc thường xuyên với lãnh đạo của họ; những người chỉ huy sẽ quan sát chiến dịch từ xa, còn cuộc hành quân hôm nay là đứa con đẻ của những người có mặt trong căn phòng này và họ hoàn toàn chịu trách nhiệm trước nhiệm vụ của mình.

Vì lý do an ninh, không một nhà báo nào, kể cả những người lăn lộn và thấu hiểu cuộc chiến nhất, được phép đi cùng những đơn vị như thế này. Nếu có cơ hội đó, các nhà báo sẽ được chứng kiến một trường hợp điển hình về cách bố trí tổ chức hiện đại, một mạng lưới tích hợp khả năng đồng bộ và thích ứng tại chỗ đã lan tỏa trong toàn bộ hệ thống các lực lượng chiến đấu của họ. Nếu là trước đây, ngay cả đội quân tinh nhuệ nhất có cùng quân số với đội hôm nay, cũng phải tính toán chiến lược khi tham chiến. Vào thời điểm năm 2004, khả năng hỏa lực đồng nghĩa việc họ có tiềm lực chiến đấu vô tận, và công nghệ thông tin có nghĩa là tin tức về chiến dịch sẽ được đưa đến với khán giả toàn cầu gần như cùng thời điểm diễn ra sự kiện.

Sau lần đánh giá cuối cùng với một vài cái gật đầu, những người đàn ông rời khỏi chiếc ghế dài và chuyển qua phòng bếp để lấy vũ trang. Bốn người sẽ ở lại, bảy người kia nạp đạn vào súng và thắt chặt các dây kéo của chiếc áo giáp nặng nề. Họ trò chuyện về tình trạng đáng thương của Iraq và về việc đất nước này trông sẽ ra sao khi họ đã hoàn thành công cuộc giải phóng. Họ chê cười các chiến thuật của kẻ thù. Những người vừa mới đến vẫn lẳng lặng không nói gì.

Khi bước ra đến cửa, vị chỉ huy đột nhiên thấy nhói buốt bên dưới ủng. Trên sàn nhà, một tấm ảnh nằm giữa cơ man những mảnh kính vỡ: Hình ảnh một cô gái trang điểm đậm, đầu đội mũ lưỡi trai và mặc một chiếc váy dài. Nếu bỏ yếu tố quốc gia sang một bên, những người từng sống trong ngôi nhà này không có gì khác với những người thân trong gia đình của những người đàn ông này hay gia đình riêng mà họ có thể sắp có. Gia đình này không làm gì để gây ra cuộc chiến; tội lỗi duy nhất của họ là đã ở sai chỗ vào sai thời điểm. Vị chỉ huy không biết họ là ai hay đã trở thành người như thế nào, nhưng ông hy vọng những việc mà ông đang làm, theo một cách nào đó, có thể gián tiếp mang lại bình yên cho họ. Ông với tay kéo cửa.

Bấy giờ mới hơn 9 giờ, và nhiệt độ đã lên đến 320C. Tất cả đều đổ mồ hôi trước khi bước lên xe. Với chiến dịch lần này, họ mặc thường phục và lái xe có mui kín: hai chiếc Huyndai và một chiếc Volkswagen cho chiến dịch, cùng một xe Opel chạy giám sát từ phía sau – những chiếc xe này đã được chọn lựa để họ có thể trà trộn trên đường phố. Sau khi nhanh chóng kiểm tra các thiết bị, lái xe cho xe lăn bánh.

Họ thận trọng quan sát từng ô cửa sổ, từng mái nhà và khách bộ hành. Trong một chiến dịch tương tự cách đó một tuần, một tay bắn tỉa đã bắn tung kính chắn gió và khoan thủng trán của người lái xe, tưới đẫm trần xe bằng màu máu đỏ thẫm như trong một bài kiểm tra Rorschach 6 . Tám ngày sau, một vài người có mặt trong xe lúc đó không thể nhớ lại gương mặt của người lái xe. Bất chấp những mất mát như vậy, giữa tình trạng hỗn loạn của những vụ đánh bom, đột kích và báo thù, những người thực thi nhiệm vụ vẫn nhìn thấy cơn sóng chuyển động, tuy chậm nhưng chắc chắn, đang hướng về chiến thắng. Cuộc chiến này gian khổ hơn mức mà bất kỳ ai trong số họ có thể hình dung, nhưng nỗ lực của họ chắc chắn không vô ích.

[6] Nguyên văn: Rorschach test, là bài kiểm tra tâm lý bằng cách cho người được kiểm tra xem các vết mực và ghi lại cảm nhận của họ về vết mực đó. Tiếp theo, phân tích cảm nhận của họ bằng các diễn giải ở góc độ tâm lý học hoặc bằng các thuật toán phức tạp hơn, và đôi khi cần sử dụng kết hợp cả hai kỹ thuật này. Ở đây tác giả hàm ý mức độ tác động tâm lý của vụ tấn công khi máu của người lái xe bắn đầy trần của chiếc xe hơi. (DG)

Nhiệm vụ ngày hôm nay rất phức tạp, và họ càng di chuyển nhiều thì rủi ro càng lớn. Những làn đạn thù địch là điều không thể tránh khỏi và giống như bất kỳ nhiệm vụ nào khác, họ không bao giờ có đủ thông tin chính xác về đối thủ.

Những chiếc xe chầm chậm len lỏi trên các con phố nhộn nhịp, giữa những người bán hàng rong đang mời chào khách hàng, các ông bố bà mẹ đang mắng mỏ con mình và các cậu trai mới lớn đang trêu ghẹo mấy cô nàng trùm khăn hijab; xe đi trong mùi thơm của đồ ăn tươi mới, lẫn mùi thực phẩm ôi thiu và mùi của lũ chó hoang. Trước khi thực hiện nhiệm vụ, không một người đàn ông nào trên xe từng đến Iraq, nhưng giờ đây, tất cả những âm thanh hỗn loạn này đã dần trở nên quen thuộc. Khi xe rẽ sang Phố 13, họ nhìn thấy một đám người dân đang đứng hò reo dưới tấm băng rôn, trước cổng một nhà máy xử lý nước thải mới khánh thành.

Chiếc xe Volkswagen đi trước, nhưng địa điểm nơi họ định dừng đỗ đã bị chiếm dụng bởi một chiếc xe chở rác. Chẳng nói chẳng rằng, những người lái xe lẳng lặng xử lý tình huống: Hai chiếc xe Hyundai chạy vòng quanh khu phố trong khi chiếc Volkswagen tìm một điểm dừng đỗ mới tại số 7 phố Nissan gần đó. Xe Opel tạm dừng lại, người lái xe nhoài ra vờ hỏi mua món thịt viên của một quán ven đường, cố gắng để không bị lộ qua giọng nói. Các hoạt động đường phố náo nhiệt của Iraq có khả năng che giấu mọi hành tung đáng ngờ.

Một trong hai chiếc xe Huyndai thấy tuyến đường dự kiến của họ bị chặn bởi công trường xây dựng. Lái xe rẽ sang con phố khác, liếc mắt sang các cộng sự để đảm bảo rằng họ hiểu đã có sự thay đổi trong kế hoạch. Kinh nghiệm tác chiến cùng nhau đã khiến họ có được thứ khả năng gần như thần giao cách cảm. Sau 12 phút trễ so với kế hoạch, cả bốn chiếc xe đã vào vị trí. Những người đàn ông ngồi trong ba chiếc xe hành sự lặng lẽ suy nghĩ và cầu nguyện.

Mật khẩu được truyền qua radio trên xe bằng một giọng nói khô khốc, không cảm xúc – cùng một tiếng nói đã truyền đi rất nhiều những mệnh lệnh tương tự trước đó. Gã lái chiếc xe Huyndai đầu tiên hít một hơi và nhấn chân ga.

Tại lễ khánh thành nhà máy xử lý nước thải, đám đông vẫn đứng tụ tập. Lũ trẻ con đứng ở vòng ngoài, chúng mải chơi với nhau hơn là nghe các chính trị gia trình bày về khả năng tái tạo kinh tế. Đứng ở trung tâm vòng tròn là bố mẹ lũ trẻ. Họ đang nở nụ cười, trông ai cũng giống ai trong những chiếc khăn choàng đen, tóc tối màu, ánh lên trong màn nhiệt.

Khi chiếc xe Huyndai chồm lên, đâm thẳng vào đám đông, thân hình nhỏ bé của lũ trẻ dính vào tấm tản nhiệt và đèn xe. Tay lính lái xe lầm bầm tiếng cầu nguyện trước khi ấn kíp nổ. Có lẽ, trong khoảnh khắc một phần nghìn giây khi tín hiệu radio phát ra từ lòng bàn tay gã, qua băng ghế sau và hướng tới thùng xe, gã đã nhìn thấy vầng hào quang của những chiến binh thánh chiến thân hình đầy máu – thứ ánh sáng đã nhấn chìm cả đất nước Iraq. Có lẽ, trong khoảnh khắc bằng một nhịp đập của tim, nỗi căm giận của gã đã nhường chỗ cho cảm giác hối hận trước khi thùng xe chứa đầy thuốc nổ nổ tung và những viên đạn BB trong thùng xe xé nát khung xe kim loại và xé chính cơ thể gã ra thành trăm mảnh.

Con phố giờ đã trở thành bức tranh ghép khổng lồ của xác xe và xác người, ngập tràn tiếng khóc thét. Những bà mẹ điên loạn tìm kiếm con mình. Những tay lính Mỹ – kẻ thù của chúng – từ cuối khu phố đã chạy tới hiện trường. Lính Mỹ thiết lập một vòng vây an toàn và bắt đầu công việc cứu thương.

Giữa những tiếng la hét, không ai để ý một chiếc xe Volkswagen đang tiến tới. Nó lao thẳng vào đám lính Mỹ và lũ trẻ vừa mới xuất hiện để tìm kiếm và nhận dạng thương vong, họ vẫn còn đang choáng váng. Chiếc Volkswagen kích hoạt kíp nổ.

35 đứa trẻ thiệt mạng, 10 người Mỹ và 140 người Iraq bị thương. Khi chiếc xe cuối cùng lao vào giữa con phố, tất cả các lực lượng đồng loạt xả súng vào nó, và chiếc xe chỉ kịp phát nổ ở phía nam của mục tiêu. Nhưng những kẻ ngồi trong chiếc xe còn lại không quan tâm đến thất bại của xe thứ ba, chúng đã mất dạng giữa đám đông. Hiếm có nhiệm vụ nào được thực hiện mà không có thiếu sót. Người đàn ông cầm lái ném ba chiếc chìa khóa mở ga-ra xe mà hắn vẫn đặt trên đùi mình qua cửa xe. Nếu những đồng đội trong chiến dịch vừa xong định đổi ý, chính hắn sẽ sử dụng ba chiếc chìa này để kích hoạt kíp nổ trên xe của họ. Tay lính ngồi trên chiếc ghế có lắp súng xem lại đoạn phim mà hắn vừa quay được từ vụ tấn công. Chỉ trong vài giờ nữa, đoạn băng này sẽ được tung lên mạng, khả năng gây sốc của nó sẽ giúp chúng tuyển mộ được thêm nhiều tay đánh bom cảm tử nữa để phục vụ cho sự nghiệp chung.

Đối với tổ chức Al Qaeda ở Iraq, chiến dịch này là một thắng lợi.

ĐỘI QUÂN TỐT NHẤT

Vào ngày xảy ra vụ đánh bom ở nhà máy xử lý nước thải, tôi đang ngồi trong căn cứ không quân hai lớp tường bê tông được xây dựng từ thời Saddam tại Căn cứ Không quân Balad, cách El Amel 96,5km. Máy tính xách tay và màn hình plasma có kết nối với mạng lưới ăng-ten có dây và cáp treo bày la liệt trên tường và trên mặt chiếc bàn mà chúng tôi làm vội bằng gỗ dán từ mùa xuân trước. Thông tin liên tiếp dội về qua hệ thống các chảo ăng-ten và vệ tinh tới khu chỉ huy có kích thước bằng một sân đấu bóng chày. Các chuyên gia phân tích hình ảnh từ camera giám sát, các đoạn thông tin mà chúng tôi chặn được, các tài liệu bị tịch thu và báo cáo tình báo, tất cả chắp nối lại thành một bức tranh nhiều mảnh ghép về Al Qaeda tại Iraq. Họ tổng hợp thành báo cáo, chuyển đến bàn làm việc của tôi và thuộc cấp để chúng tôi có thể dùng khi lập kế hoạch tấn công với các lực lượng đặc biệt của mình. Đây là trụ sở của Lực lượng Đặc nhiệm Tác chiến.

Tôi vừa bước qua tuổi 50 và đã chỉ huy lực lượng được gần một năm. Đây là vị trí mơ ước của bất kỳ người lính nào. Từ năm 1980 tới năm 2003, chín vị đại tướng uy tín (quân hàm hai sao) đã nắm giữ trọng trách này, năm người trong số họ đã thăng hàm bốn sao. Họ thuộc nhóm những nhà lãnh đạo, chỉ huy, nhà chiến lược xuất sắc nhất của Quân đội Hoa Kỳ, và họ đã tạo ra một tiền lệ phi thường.

Chuỗi những thành tích mà họ đạt được cũng chính là lý do chúng tôi được cử tới vùng tâm chiến ở Iraq, đặc biệt là bởi tình trạng nổi loạn của Al Qaeda (AQI) ở đây – tổ chức đã thực hiện những cuộc khủng bố tàn bạo nhất kể từ khi Mỹ đến Iraq. Nước Mỹ và liên minh đến Iraq để lật đổ Saddam Hussein, và chỉ một thời gian ngắn sau đó, họ đã đạt được mục tiêu này. Nhưng đội quân của AQI là một mối đe dọa khác – chúng hoạt động theo nhóm nhỏ, nhanh và riêng lẻ. Để đấu lại chúng, phải cần đến những kỹ năng đặc biệt mà các đơn vị chúng tôi sở hữu.

Sau thất bại của vụ giải cứu con tin Mỹ bị những người cách mạng Iran bắt giữ năm 1980, Lực lượng Đặc nhiệm ra đời để ứng phó với những bi kịch kiểu như vậy. Lực lượng này là tổ chức duy nhất, tập hợp những đơn vị thực thi tinh nhuệ nhất trong quân đội hùng mạnh nhất thế giới. Với 40 năm lịch sử cùng những thành tích chiến đấu xuất sắc; xét dưới bất kỳ tiêu chuẩn khách quan nào, chúng tôi cũng là lực lượng chiến đấu tốt nhất, chuyên thực thi những nhiệm vụ đặc biệt – “tốt nhất trong những thứ tốt nhất”. Nhưng lịch sử đó giờ đây dường như không giúp ích được gì cho chúng tôi. Chúng tôi đã thất bại trong việc ngăn chặn cái chết của 35 đứa trẻ, đã thua trong cuộc chiến với một nhóm ô hợp những kẻ cực đoan thua kém chúng tôi rất nhiều về nguồn lực.

Về lý thuyết, cuộc đối đầu giữa AQI và Lực lượng Đặc nhiệm không hề cân sức. Chúng tôi là một lực lượng lớn, được huấn luyện kỹ càng và được trang bị cực tốt, trong khi AQI phải tuyển dân địa phương và phải đưa trái phép vào nước những tay lính nước ngoài từng người một thông qua những đường dây nguy hiểm và không chắc chắn. Chúng tôi có trong tay những công nghệ hiện đại nhất, trong khi họ dựa vào những buổi họp mặt trực tiếp và thư tay để hạn chế khả năng bị phát hiện. Lính của chúng tôi đã trải qua những quy trình đào tạo khắc nghiệt nhất trong lịch sử của các đơn vị đặc biệt; còn lính của họ chỉ tham gia những ngôi trường dạy đạo Hồi không chuyên mọc lên rải rác khắp bán đảo Ả-rập và Bắc Mỹ. Chúng tôi có hỏa lực khó ai có thể sánh nổi, xe cộ được trang bị vũ khí và các phương tiện giám sát ưu việt; công nghệ của họ chỉ có bom tự chế được sản xuất trong tầng hầm của những ngôi nhà an toàn, sử dụng các bình khí prô-ban và các khẩu súng cối đã hết hạn sử dụng của Xô viết.

Chúng tôi còn là khuôn mẫu về tính kỷ luật. Nguồn lực ưu việt không khiến chúng tôi tự mãn, chúng tôi luôn đẩy năng lực quân đội của mình tới một giới hạn mới, hơn mức mà kẻ thù có thể làm được. Lính của chúng tôi sẵn sàng tỉnh dậy giữa đêm, rà soát kế hoạch, thông tin tình báo và tóm lược các mệnh lệnh; khi bình minh vừa ló dạng, hành trang đã sẵn sàng, súng đã lên đạn, và máy bay lên thẳng bắt đầu khởi động với tiếng cánh quạt kêu ro ro. Hàng giờ liền trong bóng tối, những tiểu đội bắt đầu thực hiện nhiệm vụ, tấn công hai, ba hay thậm chí mười mục tiêu được giao trong một đêm – mỗi nhiệm vụ đều được lên kế hoạch và thi hành cực kỳ cẩn trọng, mọi nỗ lực đều được người lính thực hiện như thể họ đang cận kề cái chết. Tới đầu giờ sáng, những chiến binh mệt mỏi mới tìm về giường, ngủ vài giờ và lặp lại chu kỳ huấn luyện đó liên tục trong hàng tháng trời.

Những năng lực đặc biệt đó của Lực lượng Đặc nhiệm biến chúng tôi thành những người tiên phong trong cuộc chiến tại Iraq, nhưng chúng tôi chưa từng đối mặt với nhiệm vụ nào giống như thế trước đây. Trong lịch sử hơn 20 năm của mình, chúng tôi đã thực hiện thành công những nhiệm vụ nhỏ gọn với sự chính xác cao độ; còn giờ đây, chúng tôi được triệu tập để đứng đầu chiến tuyến của một cuộc chiến chưa thấy hồi kết. Thảm họa ngày 30 tháng Chín ở nhà máy xử lý nước thải là một lời nhắc nhở không hề dễ chịu rằng: Cho dù chúng tôi có một đội quân nhà nòi, công nghệ, và sự quyết tâm, nhưng chúng tôi đang dần đánh mất quyền kiểm soát.

Khi thông tin về vụ đánh bom bắt đầu truyền đi, các tường thuật ngắn gọn từ báo cáo SIGACT (viết tắt của từ Signficant Activity – Nhiệm vụ quan trọng) tăng dần lên với những thông tin giá trị từ các sĩ quan chuyên trách của lực lượng nằm vùng ở khắp Iraq – bao gồm consố thương vong, thông tin cá nhân và tuổi tác của những người đàn ông, phụ nữ và trẻ em bị thiệt mạng, và cách những người đàn ông trong chiếc xe Opel đã qua mặt chúng tôi như thế nào. Chúng tôi bàn tính cách trả đòn. Đồng thời, chúng tôi cũng tự hỏi một câu hỏi sâu sắc hơn, khó trả lời hơn: Nếu chúng tôi thực sự là đội quân tốt nhất trong những đội quân tốt nhất, tại sao những cuộc tấn công như vậy không hề giảm bớt, mà ngược lại, chúng thậm chí đang tăng lên? Tại sao chúng tôi không thể đánh bại một lực lượng nổi loạn thua kém chúng tôi rất nhiều về nguồn lực? Vì sao chúng tôi thua cuộc?

NHÓM CỦA NHIỀU NHÓM (SIÊU ĐỘI NGŨ)

Câu hỏi ấy và những câu trả lời mà chúng tôi tìm thấy, cũng như ý nghĩa của chúng với thế giới rộng lớn bên ngoài lực lượng của chúng tôi, là cơ sở nền tảng để ra đời cuốn sách này. Với AQI, chúng tôi phải đối mặt với một mối đe dọa hoàn toàn mới được nuôi dưỡng bởi một môi trường hoàn toàn mới. Cuộc chiến mà chúng tôi bắt đầu không phải là cuộc chiến giữa các quốc gia, và không chỉ vậy, nó khác với bất kỳ cuộc chiến nào từng diễn ra trong thế kỷ XX. Phiến quân, chủ nghĩa khủng bố và xu hướng cực đoan hóa, cũng như các xung đột là những vấn đề muôn thuở. Điều khác biệt là: Vào thời điểm năm 2004, những hiện tượng này có thêm sự hỗ trợ của công nghệ, sự kết hợp này đã sản sinh hàng loạt vấn đề hoàn toàn mới. Rất may là hầu hết mọi người sẽ không bao giờ rơi vào tình huống phải chiến đấu chống lại nhóm quân nổi loạn đầy manh động, nhưng tất cả chúng ta đều chịu ảnh hưởng bởi chính những thay đổi về công nghệ và xã hội đã mang lại thành công cho AQI.

Năm 2004, chúng tôi chỉ vừa bắt đầu hiểu được sức nặng của sự thay đổi này, nhưng sau đó chúng tôi dần hiểu ra rằng muốn đánh bại AQI, chúng tôi phải học hỏi từ chúng. Giống như những người trẻ sinh ra vào những năm 1990 và 2000 được coi là “dân bản địa thời đại số” còn thế hệ cha mẹ chúng chỉ là “dân nhập cư thời đại số”, AQI là một tổ chức “bản địa” của thế kỷ XXI được trang bị công nghệ đầy đủ với những kết nối dày đặc. Chúng hoạt động theo cách hoàn toàn khác biệt với những gì chúng tôi cho là “đúng” và “hiệu quả”. Và chúng đã thành công.

Trong cuộc chiến này, chúng tôi phải học cách quên đi rất nhiều thứ mà chúng tôi tưởng rằng mình biết về cách vận hành của cuộc chiến – và của thế giới này. Chúng tôi phải xóa bỏ cấu trúc tổ chức quen thuộc và xây dựng lại theo một cách thức hoàn toàn khác, thay đổi kiến trúc vững chắc trước đây bằng một lối cấu trúc mềm dẻo hữu cơ, vì đó là cách duy nhất để chúng tôi đối mặt với mối đe dọa cực kỳ phức tạp đang nổi dậy. Đặc biệt, chúng tôi đã tái cấu trúc Lực lượng Đặc nhiệm từ gốc, sử dụng các nguyên tắc chia sẻ thông tin cực kỳ minh bạch (chúng tôi gọi là “chia sẻ nhận thức”) và phân quyền ra quyết định (“trao quyền điều hành”). Chúng tôi xóa đi tất cả những rào cản tiêu cực giữa các bộ phận và từ bỏ hệ thống cấp bậc – những thứ từng một thời làm nên tính hiệu quả trong công việc.

Chúng tôi quan sát hành vi, thói quen của các đơn vị nhỏ nhất và tìm cách để ứng dụng những gì mình quan sát được trong tổ chức của hàng nghìn con người với hoạt động trải rộng ở ba châu lục. Chúng tôi trở thành “một nhóm của nhiều nhóm”: Một đội quân lớn với đặc tính nhanh, nhạy bén mà bình thường chỉ có thể tìm thấy ở những đội quân nhỏ.

Hầu hết những việc chúng tôi làm đều đi ngược lại với truyền thống của quân đội và những cách tổ chức thông thường. Chúng tôi từ bỏ những lời giáo huấn đã từng tạo nên tính thiện chiến của chúng tôi trong thế kỷ XX, bởi vì thế kỷ XXI là một cuộc chơi khác với những luật chơi hoàn toàn mới.

Cuộc chiến của chúng tôi tại Iraq vào năm 2004 không phải là một ngoại lệ mà là một thông lệ mới. Các mô hình tổ chức từng thống lĩnh thế kỷ XX khởi nguồn từ cuộc cách mạng công nghiệp, và thế giới ngày nay đã thay đổi. Trước đây, mục tiêu của quân đội là phải đạt được “hiệu quả”, có nghĩa là thu được nhiều nhất với sự đầu tư ít nhất về năng lượng, thời gian và tiền bạc. Nhưng trong thế giới hiện đại, mục tiêu tối thượng không phải là tối ưu hóa những gì chúng ta đã biết (và tương đối ổn định) mà là khả năng thích nghi với môi trường liên tục thay đổi. Khả năng thích nghi, chứ không phải tính hiệu quả, phải là năng lực trung tâm của chúng tôi.

Ngày nay, các tổ chức hiện đại cũng phải đối mặt với những thách thức mà lực lượng của chúng tôi đã gặp phải. Và cũng giống chúng tôi, các doanh nghiệp và tổ chức đã phát triển rất nhiều khả năng “truyền thống” để đối mặt với một thế giới không còn tồn tại. Kể từ khi rời quân đội và thành lập McChrystal Group năm 2010, tôi cùng các đồng nghiệp đã nghiên cứu những khó khăn mà rất nhiều doanh nghiệp và các tập đoàn phải đối mặt để tồn tại và phát triển thịnh vượng trong một thế giới có quá nhiều đổi thay. Trong cuốn sách này, chúng tôi sẽ giải thích lý do vì sao hầu hết các tổ chức hiện đại đều không có đủ năng lực để đương đầu với những thách thức này, và chúng tôi sẽ trình bày kinh nghiệm mà chúng tôi có được ở Iraq, những giải pháp hữu hiệu mà chúng tôi đã tìm ra, và những nghiên cứu chúng tôi đã tiến hành sau đó để có thể áp dụng các giải pháp này trong nhiều tình huống khác.

Vào thời điểm năm 2004, những câu trả lời này vẫn ở thì tương lai. Chúng tôi đã phải rất vất vả để hiểu được đối thủ khi chúng không ở một địa điểm cố định, không có quân phục, các đặc điểm nhận dạng của chúng đều phi vật chất và không thể đo đếm, hệt như cái không gian ảo mà trong đó chúng thực hiện các hoạt động chiêu mộ binh lính và tuyên truyền. Những thông tin tình báo mà chúng tôi có được từ những cuộc đối đầu nguy hiểm và gian khổ đều không khả dụng, “tính hữu dụng” của chúng biến mất một cách đáng căm giận như cách chiếc xe Opel đã bốc hơi giữa Baghdad vào ngày 30 tháng Chín.

Nhưng dẫu sao chúng tôi cũng có một manh mối – một cái tên: Abu Musab al-Zarqawi. Đó là một bí danh, nhưng con người thì có thật.

AHMAD AL-KHALAYLEH

Năm năm trước, ở khu vực sa mạc Jordan cách Biển Chết 48,2km về phía đông, cánh cửa của nhà tù Suwaqah được canh gác cực kỳ nghiêm ngặt đã mở ra. Những người đàn ông xuất hiện, trong đó có một người rất lặng lẽ, chiếc áo trùm dài Afghanistan của hắn tương phản với những bộ đồ phạm nhân của những người đứng xung quanh. Đó chính là Ahmad al-Khalayleh, hay Abu Musab al-Zarqawi như cách thế giới bên ngoài vẫn gọi tên hắn.

Sinh ra trong một gia đình trung lưu tại thành phố công nghiệp Zarqa của Jordan, Ahmad bắt đầu quậy phá từ khi còn nhỏ tuổi, bỏ học và lao vào rượu chè, hút sách. Mẹ hắn cuối cùng phải gửi con trai tới một đền thờ nổi tiếng theo khuynh hướng Salafist – một dòng Hồi giáo Sunni cực kỳ bảo thủ. Ở đó, hắn đã tìm thấy ý nghĩa thực sự của cuộc đời mình, đó là chiến tranh tôn giáo. Hắn đến Afghanistan và Pakistan để tìm hiểu vầng hào quang của những chiến binh thánh chiến, hy vọng sẽ được dự một phần vinh quang vào cuộc chiến chống lại những kẻ ngoại đạo xâm lược, mà cụ thể ở thời điểm đó là Xô viết. Nhưng hắn đã chậm chân: Quân Xô viết đã rút khỏi cuộc xung đột kéo dài cả thập kỷ. Ahmad trở về Amman và gia nhập cộng đồng Hồi giáo cực đoan tại đó. Sau khi tham gia vào những âm mưu chống lại nhà nước, hắn bị giam giữ tại nhà tù Suwaqah, nơi hắn đã dành năm năm để củng cố lòng quyết tâm, luyện tập thể hình, đọc kinh Koran hằng ngày và dùng axit để xóa những hình xăm mà hắn có từ thời thanh niên ngỗ ngược.

Thời gian trong tù đã hoàn tất quá trình chuyển đổi mà mẹ hắn đã vô tình khởi động từ một thập niên trước, từ một đứa trẻ nhạt nhẽo trở thành kẻ chỉ huy quân khủng bố đầy quyền uy. Với tầm ảnh hưởng của hắn, ban quản lý nhà tù cho phép hắn thay bộ đồ phạm nhân truyền thống bằng một bộ shalwar kameez thanh lịch – áo sơ mi dài và quần ống thụng, phồng lên ở eo và mắt cá chân – trang phục truyền thống của Afghanistan. Đây là một phần nhân dạng mới của hắn, cùng với tên gọi mới – Abu Musab al-Zarqawi.

Khi hắn, lúc này 33 tuổi, bước qua cánh cửa nhà tù, hắn đã có kế hoạch để bắt đầu xây dựng nền móng cho cuộc chiến sau sự kiện 11/9. Hắn trở về Pakistan, nơi một nhóm nhỏ với tên gọi Al Qaeda – “Căn cứ” – đang được hình thành. Được truyền cảm hứng bởi nhóm này, hắn thành lập một tổ chức tương tự với tên gọi Tawhid w’al-Jihad (TWJ) – “Đội quân thánh chiến duy nhất”. Sau một vài nỗ lực không thành khi cố tham gia vào các vụ xung đột đang sục sôi ở Pakistan và Chechnya, TWJ thành lập một khu trại tập huấn ở Herat, Afghanistan, chuyên chỉ dẫn các điều kiện vật lý, chế tạo bom và các vũ khí hóa học. Al Qaeda bày tỏ sự quan tâm tới TWJ và mối quan hệ giữa hai tổ chức ngày càng trở nên mật thiết.

Việc Mỹ đem quân vào Iraq là giấc mơ trở thành hiện thực đối với Zarqawi; cuối cùng, hắn đã có cơ hội để chứng tỏ khí phách của mình. TWJ tự coi chúng là đội quân tiên phong trong cuộc kháng chiến của cộng đồng thiểu số những người Sunni ở Iraq; chúng sống bằng nỗi sợ hãi và phẫn nộ của cộng đồng này – những người bỗng chốc phải sống tha hương sau khi triều đại của Saddam sụp đổ. Năm 2003, Zarqawi tổ chức thành công một chiến dịch đánh bom gây thiệt mạng cho hàng trăm người và cười nhạo trước các nỗ lực của quân liên minh đang chiếm đóng để bảo vệ Baghdad. Vụ đánh bom lớn bằng xe tải ở trụ sở Liên Hợp Quốc tại khách sạn Canal đã giết chết 22 người, trong đó có cả Sérgio Vieira de Mello, đại diện đặc biệt của Liên Hợp Quốc tại Iraq. Hai tháng sau, trong một vụ đánh bom tự sát có tổ chức, một chiếc xe cứu thương chở đầy chất nổ đã nhắm thẳng vào trụ sở của Hội Chữ thập đỏ, làm 35 người thiệt mạng và hơn 200 người bị thương.

Mặc dù vụ tấn công tại nhà máy xử lý nước thải rất kinh hoàng, song đây không phải là một sự kiện bất thường ở Iraq vào năm 2004. Tính tới tháng Mười hai, số lượng các cuộc tấn công khủng bố lớn diễn ra tại Iraq đã bằng tổng số vụ tấn công xảy ra trên toàn thế giới trong năm 2003. Năm 2005, chủ nghĩa khủng bố ở Iraq đã gây thiệt mạng cho 8.300 người, gấp ba lần số lượng thương vong của vụ tấn công ngày 11/9, tại một đất nước với dân số chỉ bằng 1/10 dân số Mỹ. Iraq, với số dân chỉ bằng 0,5% dân số thế giới, đã chiếm gần 1/3 tổng số vụ tấn công khủng bố toàn cầu và chiếm phần lớn những vụ thương vong do khủng bố gây ra trong năm 2005. Và tình trạng ngày càng trở nên tồi tệ hơn: Riêng trong mùa xuân năm 2006, hơn 1.000 người Iraq thiệt mạng trên đường phố mỗi tháng. Với những gia đình như chủ nhân của ngôi nhà ở El Amel, những vụ nổ bom tại địa phương diễn ra với mức độ thường xuyên ngang bằng việc thu gom rác ở những vùng ngoại ô của Mỹ.

Saddam đã bị lật đổ và bị đem đi xét xử, giai đoạn từ năm 2003-2005, lẽ ra trên những con phố của Iraq người ta phải nhìn thấy trật tự và dân chủ được thiết lập, nhưng thay vào đó là sự xuống dốc tệ hại: những cửa hàng đóng kín, đường phố bị tàn phá, ngày càng ít người đi lại ngoài đường, và những ánh chớp màu da cam không ngừng nghỉ của những vụ đánh bom tự sát. Năm 2003, nền kinh tế dựa trên dầu hỏa của Iraq suy giảm hơn 20%, khiến mức GDP trên đầu người của nước này chỉ đạt mức 449 đô la, ít hơn 2% GDP của Mỹ. Truyền hình đưa tin về các chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc đều kết luận tình trạng ở đất nước này là “ảm đạm”.

Người Iraq không cần xem những bản tin này trên ti vi. Họ đã tự trải nghiệm chúng. Khi chính quyền lỏng lẻo của Saddam sụp đổ, toàn bộ thành phố Baghdad mất điện, không có ánh sáng, tủ lạnh hay điều hòa. Tại thành phố này, khi mà nhiệt độ mùa hè lên tới gần 520C, nếu để da trần chạm vào kim loại bị hun nóng bởi ánh nắng mặt trời sẽ bị bỏng nặng, đây mới là một tin xấu thực sự.

Các cơ sở xử lý nước sạch và nước thải đều hoạt động trì trệ, rác thải chất đầy phố tạo ra mùi hôi thối kinh tởm ở khắp nơi.

Vùng đất với lịch sử vĩ đại như bất kỳ nơi nào trên trái đất này – nơi có thời từng là “Cái nôi của văn minh” – nay đã trở thành địa ngục trên mặt đất. 7

[7] Một điều đáng chú ý là với hầu hết người dân Iraq, tình hình đất nước trong năm 2004 còn tồi tệ hơn dưới thời Saddam. Mặc dù là kẻ độc tài, làm suy yếu nền kinh tế của đất nước và sát hại rất nhiều người dân, tỷ lệ thương vong và tình trạng kinh tế thời Saddam cũng không thảm hại bằng dưới thời của AQI. Một căn cứ để so sánh là: Trong những năm 1980 và 1990, chương trình phát triển con người của Liên Hợp Quốc đã xếp Iraq đứng thứ 85/160, trong mức “phát triển trung bình”, đứng trên Jordan, ngang hàng với Trung Quốc và Philippines. (TG)

Sự tàn bạo và tình trạng hỗn loạn đều diễn ra có chủ ý. Mục tiêu của Zarqawi là một cuộc nội chiến giữa hai nhóm cộng đồng Hồi giáo Sunni và Shia. Bằng cách để hai bên tự triệt tiêu nhau, hắn cho rằng cả hai sẽ hủy hoại bất kỳ tàn dư nào của một quốc gia từng tồn tại, và bởi thế sẽ hé mở cánh cửa cho một vương quốc Hồi giáo trong mơ của hắn. Bằng chiến lược nhắm vào cộng đồng Shia ở Iraq, Zarqawi sử dụng mồi lửa văn hóa để châm ngòi cho các cuộc tàn sát đẫm máu giữa các phe phái nổ ra trên khắp Iraq. Hắn đã khôn khéo kích hoạt đòn bẩy: Mỗi một vụ tấn công của AQI đều được tính toán kỹ càng để sau đó, chúng sẽ kéo theo hàng loạt vụ tấn công trả đũa. Sau cái chết của những kẻ đánh bom tự sát, đến lượt những kẻ bị lực lượng dân phòng của hai phe tôn giáo của Iraq bắt giữ và tra tấn: giật điện, phanh thây trong những hầm giam giữ, xác người bị quẳng lăn lóc ở những con ngõ trong tình trạng đầu nạn nhân còn bị chụp trong túi đựng rác.

Thậm chí ngay cả Al Qaeda cũng cảm thấy không thể chịu nổi sự thái quá của Zarqawi. Nhưng lãnh đạo của Al Qaeda cũng không thể phủ nhận thứ sức mạnh quân sự tuyệt đối mà gã đàn ông đến từ Jordan đã thiết lập được trong tổ chức của hắn. Nếu muốn có ảnh hưởng với Iraq, Al Qaeda buộc phải bắt tay với hắn. Tháng Mười năm 2004, Zarqawi thề trung thành với Osama Bin Laden. Đổi lại, tên khủng bố nổi tiếng nhất thế giới đã cho một kẻ vô tích sự đến từ Zarqa sử dụng danh tiếng của mình. AQI chính thức ra đời.

BẢNG TRẮNG

Là thành viên trong một tổ chức có truyền thống đưa các lãnh đạo quân khủng bố vào tầm ngắm, những thành viên của Lực lượng Đặc nhiệm chúng tôi không khỏi bị cám dỗ bởi “thuyết vĩ nhân” và không thể phủ nhận thành công của AQI là nhờ Zarqawi. Việc hắn ta thông minh và có tài là điều không thể chối cãi. Chiến lược khiến dòng Sunni đối đầu với dòng Shia của hắn xuất sắc một cách tàn nhẫn. Nhưng ý tưởng vốn rẻ mạt; không thiếu các vị tướng bàn giấy đã đưa ra những đề xuất để giành chiến thắng trong các cuộc chiến, trong đó có những đề xuất khá thông minh, nhưng chỉ những người có thể thực sự kiến thiết và quản lý một lực lượng có khả năng thực thi nhiệm vụ mới thành công. Tất nhiên, AQI của Zarqawi hưởng lợi từ sự sợ hãi của người Hồi giáo Sunni, sự oán hận của người dân Iraq đối với quân xâm lược Mỹ, lòng nhiệt thành với tôn giáo và sự điên rồ đi kèm với bạo loạn hỗn mang, nhưng tốc độ và sức mở rộng của họ vẫn đáng kinh ngạc. Việc Zarqawi đào tạo một nhóm nhỏ những cá nhân tận tâm thành một tổ chức khủng bố đoàn kết không gây ngạc nhiên, nhưng khả năng của hắn khi lợi dụng nhóm đó, bằng cách tuyên truyền một thứ quan điểm đáng kinh tởm về chủ nghĩa hư vô, để biến thành cuộc nổi dậy được ủng hộ rộng rãi và hiệu quả về mặt chiến lược cần được giải thích rõ hơn. Chúng tôi điều nghiên mọi khả năng có thể là lời giải – lịch sử của khu vực này, sự tàn độc trong hệ tư tưởng của AQI và cả những chiến thuật vượt mọi giới hạn được họ áp dụng – nhưng vẫn không đủ để giải thích cho những gì chúng tôi nhìn thấy trên chiến trường.

Những ngày đầu tiên thành lập sở chỉ huy của Lực lượng Đặc nhiệm tại Balad, chúng tôi treo bản đồ khắp nơi trên tường. Bản đồ là vật bất khả xâm phạm của một người lính. Ở sở chỉ huy quân sự, bản đồ được gắn lên tường và giữ gìn với sự tôn sùng gần như là một tín ngưỡng. Một bản đồ được đánh dấu hiệu quả là bản đồ có thể thể hiện tức thời tình hình của địch và ta cũng như kế hoạch cho các cuộc hành quân sắp tới. Người ta có thể truyền đạt mệnh lệnh chỉ bằng một tấm bản đồ được đánh dấu và một vài từ ngắn gọn. Đã có nhiều câu chuyện kể về việc phá dỡ một bức tường trong quá trình sửa sang văn phòng Lầu Năm Góc đã để lộ ra ngay sau nó một bức tường khác với những tấm bản đồ có từ cuộc xung đột trước. Trong lịch sử, hầu hết nguyên nhân của chiến tranh là địa hình, lãnh thổ bị chiếm đóng, các mục tiêu địa lý, và bản đồ là công cụ quý báu để nhìn nhận vấn đề và đưa ra giải pháp.

Nhưng những bản đồ ở Balad không thể miêu tả được một chiến trường nơi mà quân thù có thể đăng tải những thước phim tới hàng triệu khán giả từ bất kỳ căn nhà nào trong bất kỳ khu dân cư nào, hoặc chở một quả bom đi khắp nơi trong bất kỳ chiếc ô tô nào trên bất kỳ đường phố nào. Thay vì bản đồ, những chiếc bảng trắng bắt đầu xuất hiện ở sở chỉ huy của chúng tôi. Và chúng nhanh chóng xuất hiện ở khắp nơi. Chúng tôi đứng quanh bảng, tay cầm bút, bàn bạc ý tưởng, phác thảo giản đồ về cái mà chúng tôi biết, nghi ngờ và không biết. Chúng tôi phủ kín bề mặt bảng trắng với các chữ và hình vẽ viết bằng nhiều màu sắc rồi xóa chúng đi, và sau đó lại viết kín lên. Chúng tôi không vẽ các đặc điểm địa lý tĩnh; chúng tôi vẽ các mối quan hệ tương quan – mối liên hệ giữa mọi thứ với nhau thay vì riêng lẻ.

Giống như trò tìm kiếm những đồ vật quen thuộc ẩn trong một bức tranh lớn của bọn trẻ, Lực lượng Đặc nhiệm chúng tôi cố gắng định vị các cấu trúc và quy luật quen thuộc trong một tấm thảm hỗn loạn có tên là Iraq. Mặc dù không thể nhìn thấy nhưng chúng tôi biết chắc rằng chúng vẫn ở đó. Khi thu thập tin tức tình báo, chúng tôi vẽ giản đồ về những mối quan hệ giữa các thành viên trong tổ chức. Nhưng thay vì những đường thẳng và góc vuông của một sở chỉ huy quân đội, chúng tôi chỉ thấy các mạng lưới chằng chịt không giống như những cấu trúc tổ chức mà chúng tôi từng biết. Các mô hình kỳ lạ xuất hiện trên bảng có vẻ lộn xộn và khó hiểu với nhiều mâu thuẫn – việc tìm hiểu chúng không khác gì đọc tài liệu kỹ thuật bằng ngoại ngữ.

Những gì chúng tôi chứng kiến trên chiến trường đã chỉ ra những mối liên kết bất ổn định này thay vì cấu trúc phân chia cấp bậc quen thuộc mà chúng tôi được huấn luyện để tìm kiếm. Chúng tôi bắt đầu nghĩ đến khả năng rằng mô hình quen thuộc mà chúng tôi tìm kiếm không hề tồn tại – rằng AQI và cuộc chiến này về bản chất hoàn toàn khác với tất cả những gì chúng tôi từng biết trong quá khứ.

AQI khéo léo sử dụng công nghệ thông tin, nhờ đó làm tăng tính hiệu quả của các chiến thuật được các nhóm quân du kích và khủng bố áp dụng trong nhiều thập kỷ. Điều đó quá rõ ràng, nhưng có một điểm thay đổi lớn hơn. Sự tăng trưởng theo cấp số nhân của mối liên kết toàn cầu đồng nghĩa với việc chúng ta không những phải quan sát các con đường cũ với tốc độ lưu thông nhanh hơn mà còn đối diện với một quang cảnh hoàn toàn khác biệt và liên tục biến đổi. Tương phản với cấu trúc tác chiến chuẩn gồm các đơn vị cấp dưới và các nhân vật bảo thủ, AQI thể hiện phẩm chất linh hoạt. Điều đó không phải là quan trọng nhất hay mạnh nhất nhưng, cũng như thần Proteus, AQI là một kẻ thù khiến ta nản chí vì chúng có thể tự biến hình theo ý muốn.

Ở thành phố Fallujah đậm tính truyền thống và bộ lạc, chúng khoác lên mình bộ áo choàng của tộc trưởng và tài trợ cho các buổi liên hoan đầy chất thơ kiểu Hồi giáo. Thông qua các đại biểu địa phương, gián điệp gây ảnh hưởng lên Hội đồng Mujahedeen Shura của thành phố Fallujah, vốn gồm những nhân vật tôn giáo địa phương được kính trọng mà AQI đã mua chuộc hoặc đe dọa. Nhưng nếu một gián điệp của AQI di chuyển 72km về hướng đông tới Baghdad, hắn ta sẽ hòa vào quang cảnh thành phố, mặc quần áo thành thị và lái xe chở các thiết bị phát nổ tự chế đi lại trong thành phố. Không những không có phương pháp thực hiện chuẩn, chúng còn không có hệ thống phân cấp chuẩn. Mỗi khi chúng tôi nghĩ mình đã giáng một đòn chí tử vào toàn bộ tổ chức, loại bỏ tên cầm đầu cấp cao khiến chúng bị như rắn mất đầu thì chúng lại quay trở lại. Như nhà lý thuyết về mạng lưới kiêm chuyên gia phân tích quân sự John Arquilla đã nói: Chúng tôi đã giết “khoảng 20 ‘tên số 3’ của Al Quaeda trong thập kỷ vừa qua, nhưng tất cả các thành viên trong mỗi mạng lưới đều là số 3”. Trong suy nghĩ của chúng tôi, một tổ chức không có một phương pháp khả đoán hay hệ thống chỉ huy rõ ràng thì không thể là một tổ chức được. Với lợi thế của chúng tôi, AQI đáng nhẽ ra đã rơi vào tình trạng hỗn loạn nội bộ. Nhưng không. Nó vẫn hoạt động, lì lợm và mạnh mẽ hơn bao giờ hết, thể hiện sự gắn kết về mục đích và chiến lược.

Chúng tôi không tìm thấy bằng chứng nào thể hiện cấu trúc khó hiểu này là một sản phẩm thiết kế có chủ đích; thay vào đó, nó dường như đã tiến hóa qua việc liên tục thích ứng. Và chúng tôi nhanh chóng nhận ra, nó đại diện cho một thứ thiết yếu của thế giới mới mà chúng ta đang hoạt động trong đó.

HÀNH ĐỘNG VÀ MÔI TRƯỜNG

Nhiều năm sau đó, vào năm 2010, tôi nhận một vị trí giảng dạy ở trường Đại học Yale, nơi tôi có cơ hội nhìn nhận lại các trải nghiệm này với cộng đồng những người thông minh tinh quái. Tôi có một cuộc tiếp xúc rất thú vị. Tiến sĩ Kristina Talbert-Slagle, một nhà nghiên cứu miễn dịch AIDS xuất sắc, đã đến gặp tôi và muốn biết sự tương đồng mà bà nhận thấy giữa việc nhiễm trùng trong cơ thể người và những cuộc nổi dậy ở một quốc gia có giống với quan sát của tôi hay không. Thật sự là có; HIV hay AIDS không giết chết bất cứ ai ngay nhưng cơ thể con người bị làm suy yếu đến mức dễ bị tử vong bởi các bệnh nhiễm trùng không nguy hiểm khác. Yếu tố môi trường làm suy yếu vật chủ đã gián tiếp làm tăng thêm sức mạnh và nâng cao vị thế của kẻ tấn công.

Vào năm 2004, tôi không có nhiều vốn từ vựng về miễn dịch học, nhưng tôi bắt đầu nhận ra rằng sức khỏe của một tổ chức – cũng như của một sinh vật – không thể được đánh giá trong môi trường chân không; nó là một sản phẩm của sự tương thích với môi trường xung quanh. Việc tìm hiểu môi trường là yếu tố then chốt để tìm ra lý do vì sao chúng tôi thất bại và AQI chiến thắng. Chúng tôi có thể có vũ khí tối tân nhất và những đơn vị đặc nhiệm hiệu quả nhất trên thế giới, nhưng trong vai trò là một tổ chức, chúng tôi không thật sự phù hợp về cả không gian lẫn thời gian.

AQI đã thành công vì môi trường cho phép điều đó. Nguyên nhân chủ yếu là do sự thất bại của nhà nước Iraq, nhưng dường như có yếu tố lớn hơn vượt ra khỏi tầm lãnh thổ quốc gia – một cái gì đó ngắn hạn chứ không đơn thuần về địa lý.

Đã có rất nhiều bài viết đề cập đến việc thế giới trở nên “phẳng” hơn và nhanh hơn như thế nào. Con người trở nên kết nối hơn, di động hơn và di chuyển nhanh hơn bao giờ hết. Bằng cách hạ thấp cái mà các nhà kinh tế gọi là “rào cản thâm nhập” – những chi phí cản trở liên quan đến việc thâm nhập vào một thị trường – những thay đổi này đã mở ra một thế giới cơ hội mới cho những người chơi hoạt động ngoài hệ thống thông thường: Mark Zuckerberg, không có các mối quan hệ của gia đình, vốn khởi nghiệp, hay bằng đại học, nhưng đã thay đổi thế giới trước tuổi 25; Justin Bieber đăng một video tự thực hiện lên mạng năm 2007 và đã bán được 15 triệu album kể từ đó, tích lũy gần 200 triệu đô la trong tài sản cá nhân; và Abu Musab al-Zarquawi, phấn khích trước những hướng dẫn chế tạo bom trực tuyến và quyền lực đã chiêu mộ và thực hiện tuyên truyền trên toàn thế giới, kích động một cuộc chiến tranh. Sự liên kết và khả năng truyền tải thông tin nhanh chóng đã mang đến cho các nhóm nhỏ sức ảnh hưởng chưa từng có: ban nhạc trong gara, khởi nghiệp trong ký túc xá, blogger được nhiều người biết đến, và tế bào khủng bố 8 .

8 Một tế bào khủng bố (thường gồm 3-5 thành viên) là một đơn vị hoạt động của khủng bố; các thành viên trong mỗi tế bào thường cải trang để hoạt động tại một vùng, chờ tới khi được lệnh hành động. Để bảo đảm an ninh hoạt động, các thành viên của các tế bào gần nhau không biết nhau hay danh tính của người lãnh đạo mình. (BTV)

Về cơ bản, thế kỷ XXI là một môi trường hoạt động khác với thế kỷ XX, và Zarqawi đã xuất hiện đúng thời điểm. Không chỉ là những phòng trò chuyện hay YouTube, cấu trúc của AQI – được kết nối và không phân cấp – là hiện thân của thế giới mới. Theo cách nào đó, chúng tôi có nhiều điểm chung với tình cảnh của một công ty thuộc nhóm Fortune 500 đang cố gắng chống lại một loạt các công ty khởi nghiệp hơn là với một vị chỉ huy của quân Đồng Minh đang chiến đấu với Đức Quốc xã trong Thế chiến II.

Nếu không thể thay đổi môi trường để phù hợp với chúng tôi hơn, chúng tôi sẽ buộc phải thay đổi để phù hợp với nó. Câu hỏi là bằng cách nào? Chúng tôi không phải một nhóm nhỏ những kẻ nổi loạn hoạt động ngoài vòng pháp luật và hành động theo kiểu tới đâu hay tới đó. Lực lượng Đặc nhiệm là một bộ máy quân sự lớn, có thể chế và kỷ luật.

Mặc dù nhanh nhạy hơn so với hầu hết các lực lượng khác, chúng tôi vẫn là một con thủy quái khổng lồ thực sự so với AQI. Làm thế nào để đào tạo một con thủy quái khổng lồ biết cách ứng biến?

KIỂM SOÁT SỰ HỖN LOẠN

Cũng như những người lính khác, tôi thích nghiên cứu lịch sử quân sự. Ngay cả những trận chiến được kể đi kể lại nhiều nhất cũng có thể có những thông tin lý thú với những ứng dụng bất ngờ. Năm 2004, bị sa lầy trong cuộc chiến chống lại kẻ thù khó nắm bắt và khó đương đầu nhất, tôi say sưa với cuốn sách Seize the Fire: Heroism, Duty, and the Battle of Trafalgar (tạm dịch: Bắt lửa: Chủ nghĩa anh hùng, nghĩa vụ và cuộc chiến Trafalgar) của Adam Nicolson, ghi chép sự kiện đô đốc người Anh Horatio Nelson đối mặt với cả một hạm đội Pháp – Tây Ban Nha siêu việt.

Vào ngày 21 tháng Mười năm 1805, Nelson, vị đô đốc 47 tuổi với thân hình cao 1m68 đứng trên boong tàu của mình, chiếc HMS Victory, và nhìn chằm chằm vào kẻ thù. Nelson, người đã để lại một mắt và một cánh tay trong những trận chiến trước, hiểu rằng liên hạm đội Pháp – Tây Ban Nha của Napoleon mong sẽ tiêu diệt phần lớn lực lượng của ông, cô lập hải quân Anh và mở đường cho một đội tàu nhỏ khởi động một cuộc xâm lược nước Anh trên đất liền. Nếu quân của Nelson thất bại, nước Anh sẽ sụp đổ. Người Anh chưa từng bị đe dọa như thế này kể từ khi họ bao vây tấn công Hạm đội Tây Ban Nha vào năm 1588.

Tình thế có vẻ không thuận lợi. Nelson chỉ có 27 tàu, trong khi đối phương có tới 33 chiếc. Nhưng ông đã có trong tay một trong những kế hoạch không chính thống được chuẩn bị kỹ càng nhất trong lịch sử quân sự.

Thông thường các đô đốc hải quân tham chiến bằng cách bố trí tàu của họ song song với tàu của kẻ thù. Cả hai bên sẽ xả hàng loạt đạn liên tiếp cho đến khi một hạm đội đầu hàng do bị suy yếu vì tổn hao quân lực, tàu và đạn dược. Cách sắp xếp này tận dụng tối đa việc dàn trận pháo dọc theo chiều dài của tàu chiến. Điều đó cũng tạo điều kiện cho việc kiểm soát tập trung: đô đốc, đứng ở trung tâm đội ngũ, có thể theo dõi toàn bộ trận chiến và phát lệnh bằng cách vẫy cờ hiệu. Cuộc tấn công trở thành cuộc đối đầu trực tiếp của những nghệ nhân điều khiển rối. Tuy nhiên, Nelson lại lên kế hoạch tiếp cận từ bên hông với hai hàng tàu vuông góc và đâm thủng hàng ngũ của Pháp – Tây Ban Nha, chia chúng thành ba phần. Ông hy vọng sẽ khiến hạm đội bất ngờ, làm phân tán cả hai phía của tàu và tạo nên sự hỗn loạn khiến cho chỉ huy của đối phương không thể ra lệnh một cách rõ ràng được.

Khi vẽ trên giấy hay di chuyển theo mô hình trên bàn, ngay cả những người không chuyên cũng có thể thực hiện được các bước đi táo bạo của Nelson. Nhưng sự khác biệt giữa không gian của một bản vẽ trong phòng và vùng biển xáo động ngoài khơi bờ biển Tây Ban Nha khiến việc quản lý kế hoạch này trở nên khó khăn. Tàu Victory với chiều dài 69,2m là một cỗ máy khổng lồ làm từ gỗ, sắt, vải và dây thừng được vận hành bởi 850 thủy thủ liên tục di chuyển vội vã từ các khoang dưới mặt nước lên đến các đầu trục căng buồm của ba cột buồm lớn. Các thủy thủ sử dụng 41.843m dây thừng để căng và điều chỉnh 5.443m² vải buồm để có được 37 chiếc buồm cần thiết để đẩy tàu. Điều chỉnh buồm trong khi nạp đạn, ngắm bắn và khai hỏa những khẩu súng lớn theo nhịp tròng trành của tàu yêu cầu sự phối hợp chặt chẽ của toàn bộ thủy thủ đoàn được huấn luyện tinh nhuệ. Bình thường, việc bao quát hành động của từng thủy thủ trên cả tám boong tàu trong suốt hải trình đã khó, và trong suốt trận chiến là điều không thể. Không có điều gì diễn ra giống như trong phòng vẽ.

Ngay cả việc vào vị trí sẵn sàng tấn công cũng rất rủi ro. Pháo của tàu quay về hướng cửa tàu và mạn phải, không thể quay lại để bắn về phía mũi hay đuôi tàu. Khi tấn công, đội tàu của Nelson có thể bị sơ hở và mất thế tự vệ trước hỏa lực của địch. Tuy nhiên, một khi đã đâm thủng hàng ngũ của địch, họ có thể khai hỏa, bắn thẳng qua dãy tàu của Pháp và Tây Ban Nha, gây ra những tổn thất nghiêm trọng hơn nhiều so với những cuộc đối đầu thông thường.

Vào ngày 29 tháng Chín, trong buồng chỉ huy của chiếc Victory, Nelson mô tả kế hoạch cho các chỉ huy của mình. Ngày 9 tháng Mười, ông gửi kèm theo một bản ghi nhớ bí mật giải thích rõ hơn hạm đội sẽ chia thành các hàng như thế nào để tấn công kẻ thù. Quan trọng hơn việc vạch ra một chiến lược cụ thể, Nelson chú trọng đến vai trò cá nhân của từng chỉ huy. Điểm cốt lõi trong kế hoạch của ông mà sau này ông gọi là “Nelson touch” (tạm dịch: Cú chạm của Nelson) là: Mỗi chỉ huy nên chủ động hành động khi chiến sự trở nên hỗn loạn. Hiểu rằng kế hoạch có thể bị phá sản, lời khuyên cuối cùng của ông rất đơn giản: “Không vị thuyền trưởng nào có thể phạm sai lầm nghiêm trọng nếu anh ta neo tàu của mình ngay cạnh tàu của quân thù.” Như nhà sử học, nhà khảo cổ học Rou Adkins đã viết: “Kế hoạch tấn công đã được quyết định, và mỗi chỉ huy trong hạm đội biết những gì mình sẽ phải làm” nhờ vào kết quả của những buổi họp và các bản ghi nhớ. Adkins giải thích rằng Nelson: “đã kiên nhẫn thấm nhuần ý tưởng của mình vào tâm trí các chỉ huy trong suốt các cuộc thảo luận chiến thuật trước trận chiến. Ông cho phép và thực sự kỳ vọng thuộc cấp vận dụng các sáng kiến của chính mình, đồng thời giảm sự phụ thuộc của hạm đội vào các phương pháp liên lạc truyền thống” như ra hiệu lệnh.

Ngược lại, hạm đội Pháp – Tây Ban Nha, ở cách đó vài dặm, phải tuân thủ những quy tắc độc đoán. Theo quan sát của Nicolson, Napoleon đã ra lệnh cho Phó Đô đốc Pierre Charles Villeneuve tuyệt đối không được thông tin với các thuyền trưởng của mình về chiến lược tổng quát để đánh bại quân Anh. Adkins cho biết thêm: “Sự lệ thuộc vào mệnh lệnh từ chỉ huy trung tâm là một điểm yếu thường gặp trong hải quân Pháp – Tây Ban Nha, trong đó, theo truyền thống, chỉ huy của từng tàu chiến phải đợi mệnh lệnh truyền tải thông qua cờ hiệu mà cờ hiệu thì có thể bị khói che khuất, bị phá hủy vì hỏa lực của địch hoặc đơn giản là bị hiểu lầm.”

Khi mặt trời lên cao, những chiếc tàu nặng nề giương buồm, Nelson, với tàu của mình ở vị trí tiên phong trong thế dàn quân mũi nhọn, dẫn đầu hạm đội bước vào cuộc chiến. Có nhiều yếu tố có thể gặp trục trặc – chỉ cần gió chuyển hướng một chút cũng có thể khiến lợi thế t