← Quay lại trang sách

- 7 - CHÁN ĐỜI

Trong luôn hai năm tôi đã đóng vai chán đời. Hễ anh em, ai nói đến chuyện tình ái thì tôi cố làm ra có vẻ mặt buồn rầu mà buông một tiếng thở dài thật não nùng, đau đớn.

Một vài người bạn thân đem lòng thương hại tôi và an ủi tôi bằng những lời thành thực. Nhưng tôi, quả tôi không thành thực một chút nào. Vì được cái tin chẳng lành mới xảy ra được một tháng, tôi đã quên hẳn Thi. Mà cũng không có lý do gì khiến tôi không quên Thi được, Có sự liên lạc gì dàng buộc tôi với Thi đâu?

Song tôi cho rằng nếu tôi không làm ra bộ nhớ tiếc, oán trách Thi, thì tôi sẽ trở nên một người tệ bạc, hơn nữa, tôi sẽ là một người không có cảm tình, nghĩa là một đứa trẻ con. Vì thế, lúc nào có anh em đông đủ, tôi cũng ngậm ngùi ngước mắt. nhin trời hay cúi nhìn đất bằng cặp mắt mơ mộng giả dối.

Những thơ ca tôi thích ngâm nga nhất là các bài ‘‘Kỷ Niệm’’ và ‘‘Những Đêm’’ đầy lời ta thán. Tiểu thuyết Werther là cuốn sách gối đầu giường của tôi.

Một lẽ nữa khiến tôi tự bắt buộc tôi phải có những tư tưởng thất vọng về tình: Tôi muốn tỏ cho anh em bạn biết rằng không những tôi không quê mà tôi còn có thể tự hào đã từng trải cuộc đời hơn mọi người khác.

Sự từng trải ấy tôi tả bằng diện mạo và dáng điệu sầu bi. Tôi lại tả bằng những câu thơ cảm động cóp nhặt trong các áng văn xưa. Tôi còn nhớ mấy câu rất kêu mà rất sầu, tôi viết trong những giờ học chữ nho:

Dương mắt coi chi buổi bạc tình...

Tình ái đời nay như thế cả,

Yêu người, người lại phụ ta ngay...

Nghỉ đời mà ngán cho đời nhỉ,

Tình ái toàn là giả dối thôi...

Trong nhiều bài, tôi còn ví tôi như con cuốc than hè, như con ve sầu khóc hoa, hay như con chim uyên mất bạn...

Nhưng bài thơ mà anh em bạn thích nhất lại là một bài văn dịch mà họ tưởng lầm là nguyên tác của tôi:

Trần thế lòng ta chán sạch rồi,

Chẳng mong chi nữa ở trên đời,

Hỡi ơi lưu vực nơi quê cũ,

Cho trú một ngày đợi chết thôi.

Thực tôi được anh em bạn học kính trọng một cách đặc biệt là nhờ về ái tính thất vọng của tôi cũng có, mà nhờ về những áng thơ sầu cũa tôi cũng chẳng phải không. Như vậy, Thi quả là ân nhân của tôi; vì đã làm cho tôi trở nên người ‘‘hợp thế thái’’ lắm.

Được thể, tôi càng nặn mãi cái lòng chán đời của tôi ra. Có khi ngồi một mình đương vui vẻ, tươi cười, có bạn thân đến chơi, tôi vội sa sầm ngay nét mặt lại. Có khi gặp tiết thu, tôi ngồi hàng giờ ở bờ hồ Tây để cố gọt rũa một bài thơ, khóc mùa thu, khóc trời thu, khóc người tình xưa đến mùa thu không trở lại.

Ấy là sang tháng tám, ứiáng chín ta, tôi cũng gọi tiết thu cho có vẻ nên thơ, chứ thực ra mùa thu nào có gì đâu là sầu, là trời ảm đạm, là mưa phùn mù mịt, là tiếng nhạn kêu sương. Làn không khí vẫn trong trẻo sáng sủa, mà lắm khi về buổi chiều, trời vẫn còn nóng nực như mùa hè vậy.

Nhưng đối với trái tim ‘‘bị thương’’ của tôi, đối với tâm hồn ‘‘đa tình, đa tứ’’ của tôi, thì mùa thu phải là mùa thu của Lamartine, mùa thu của Đỗ Phủ, Lý Bạch. Tô Đông Pha. Tôi phải tưởng tượng ra một mùa thu na ná như thế.

Song loay hoay nghĩ mãi vẫn không tìm được văn để tả, ‘‘Mùa thu’’ hay “Cái hồ’’. Sau chẳng đừng được, tôi phải

tạm dịch bài thơ Hồ của Lamartine vậy. Trong đó, tôi thích, nhất đoạn:

Này cây, này cỏ, này trời

Này nơi nghỉ mát của người tri âm

Nước còn cuộn, còn ầm tiếng gió,

Cảnh xưa còn, người cũ ở đâu?

Gượng cười, gượng nói càng sâu.

Vắng tri âm có vui đâu bao giờ?

Tri âm thì hẳn là Thi, Đọc thơ, tôi cảm thấy tôi giận Thi lắm. Thà Thi chết như Elvire, chứ Thi còn sống thì bài văn dịch của tôi đổ quách. Tôi liền nghĩ đến dịch bài ‘‘Kỷ Niệm’’ của Musset. Mượn lời tác giả mắng tình nhân và nhiếc móc Thi. Nhưng bài ấy dài mà khó dịch quá. Tôi đành bỏ, và cũng từ đó, tôi bỏ mất cái thứ ngâm nga, than vãn. Rõ tiếc!

SINH VIÊN CAO ĐẲNG

Phải, sự chán đời của tôi là giả dối. Nói cho đúng thì có lẽ chính tôi lại bị tôi lừa dối. Vì vẫn có hai cá nhân, hai bản ngã trong một tôi: Cá nhân thành thực, bé nhỏ, ngây thơ, và cá nhân kiểu cách, chứa đầy những sự kiêu sức khoa trương.

Cái tội số hai che lấp, lấn át hẳn cái tội số một trong những lúc tôi muốn hãnh diện tỏ với anh em rằng tôi là người đã từng nếm vị tân khổ của ái tình và nó bắt tôi phải vờ đeo cái mặt nạ chán đời cho được hợp với chủ nghĩa yếm thế của tôi.

Rồi khi vào học trường Cao đẳng, vì nó, tôi lại bỏ cái mặt nạ ghét đời mà đeo cái mặt nạ yêu đời.

Là vì hoàn cảnh sui nên, sự chán đời của tôi không còn hợp thời nữa. Chung quanh tôi chỉ toàn có những người vui vẻ, tươi cười, đùa bỡn, đằm thắm, tha thiết với đời sống hiện tại. Họ như nồng nàn đem cả tâm hồn ra mà học, mà yêu, mà muốn, mà ao ước dù sự ao ước chỉ vẩn vơ, mơ mộng,

Cố nhiên là tôi bị lôi kéo vào trong cái luồng quan niệm mới về cuộc đời hoạt động của bọn họ, như khúc củi khô bị dòng nước sông chảy cuồn cuộn lôi phăng đi.

Rồi tôi cũng vui vẻ, tươi cười, đùa bỡn đằm thắm, thiết tha với sự sống. So tôi thời ấy với tôi thời còn ở trường Bảo hộ thì thực là hai người, hai tâm hồn khác hẳn nhau. Khi trước là tâm hồn một cậu học trò mà ngày nay là tâm hồn một trang sinh viên Cao đẳng.

Chỉ một cái tên sinh viên Cao đẳng cũng làm cho tôi cao già lên rồi. Chủ nhật cùng anh em ra phố dạo chơi, tôi tưởng như các cặp mắt tò mò nhìn tôi đều lưu ý tới cái danh hiệu Cao đẳng của tôi. Chẳng may cho cô thiếu nữ nào vô tình để mắt vào tôi: Tôi yên trí ngay rằng cô ấy yêu tôi. Nhưng lại may mà tôi luôn luôn nghĩ đến lời thề độc địa của tôi, nên đối với phái phụ nữ, tôi chỉ rửngr rưng như không. Phải, hơi đâu mà yêu họ, rồi như Thi, họ lại tệ bạc với mình.

Song, có điều này, tôi lấy làm một hổ thẹn, một sự thua anh, kém em: Là trong trường Cao đẳng, nhất là trong trường Cao đẳng sư phạm mà tôi đương theo học, mọi người đều khoe khoang có một cô tình nhân ở ngoài phố hay ít ra cũng tỏ cho anh em bạn biết rằng mình đương theo đuổi một cô rất xinh đẹp, rất tình tứ. Thế mà tôi, tôi không có tình nhân, thì phỏng có thể tha thứ được không?

Không, không thể như thế được. Tôi chẳng chịu làm trò và để bạn chế giễu mãi tôi hiền lành như cơn gái.

Song nghĩ đến cuộc dư phiếm của tôi với Thi, tôi lại lo ngại, Tôi không muốn quay về cái thời kỳ ái tình lý tưởng ấy nữa...

Một hôm, vụt có một ý tưởng hay, tôi bỗng bật cười, lên tiếng khiến anh em xúm lại hỏi vặn xem có điều gì thú mà tôi thích chí như thế. Tôi nghiễm nhiên trả lời:

- Thú lắm, các anh ạ, tôi có tình nhân ngộ nghĩnh lắm.

Ngộ nghĩnh nhất là cô tình nhân ấy không xương, không thịt. Muốn tránh cuộc tình duyên lý tưởng thứ hai,

tôi đã quả quyết bắt đầu một cuộc tình duyên tưởng tượng. Quý hồ anh em bạn nhận cho rằng tôi đã làm chủ nhân một trái tim dịu dàng, mềm mại là được rồi.

Phải, cần gì phải yêu cô Lan, cô Liên hay cô Thi mới là yêu. Thì ta cứ yêu ngay một cô vu vơ, bịa đặt ra, cũng chẳng khác gì kia mà. Vả lại biết đâu các anh em bạn ta lại không nói khoác. Họ bảo họ có, ta đã chắc gì họ có, cứ suy lần nầy ta vừa ‘‘bẫy’’ họ đã bị vào cạm ngay, thì đủ rõ rằng những lời phô trương khó lòng mà tin hẳn được.

Từ đỏ, mỗi hôm tôi phải bỏ phí ra một giờ để mơ mộng hay viết thư cho người tình tưởng tượng cưa tôi. Anh Hoàng Ngọc thì thầm khoe với tôi rằng người yêu của anh là con một bà án và là em một quan huyện. Tôi cũng cố lấy giọng bí mật mà ngỏ khẽ cho anh hay rằng người tình của tôi là con gái yêu của một quan phủ. Những lời bịa đặt ấy, tôi phải ghi ngay vào một quyển sổ con, sợ nhỡ sau này quên nhãng, tôi nól sai đi chăng, thì còn gì là danh giá của tôi nữa.

Muốn cho tấm ái tình vô hình của tôi được có vẻ hữu hình, tôi đã chẳng quản sự tiêu pha tốn kém. Một buổi chiều chủ nhật tôi trở về trường, trong túi đựng đồng hồ có thò lên một mẩu khăn tay thêu. Thấy anh em tò mò nhìn, tôi vờ ấn vội xuống để giấu cái vật kỷ niệm yêu quí ấy đi, Nhưng chậm quá rồi: Một anh đã sấn vào ôm chặt lấy tôi cho một anh khác lôi cái khăn thêu kia mà hô to lên rằng:

- Đẹp lắm, mà thơm lắm chúng mày ạ.

Một anh hỏi tôi:

- Ai tặng anh đấy? Hai chữ V.B quặp lấy nhau là Văn với gì nữa thế?

Tôi kín đáo đáp lại:

- Chẳng là gì cả.

Có ai ngờ đâu rằng câu trả lời của tôi chỉ là một cầu nói thực. Vì thực vậy, người tặng khăn cho tôi chẳng là ai hết, nếu không là một bác thợ thêu mà tôi đã thuê làm. Còn chữ B âu yếm ôm lấy chữ V thì giá bác phó có tinh nghịch thay phăng ngay X, Y hay Z vào cũng chẳng làm cho nó sai nghĩa đi mấy tí.

Thế là sự trí trá khôn khéo của tôi đã đặt tôi ngang hàng với anh em bạn trường Cao Đẳng, trừ ra họ trí trá khôn khéo và cũng mừng thầm rằng được đứng ngang hàng với tôi về đường tình ái! Điều đó thực khó lòng mà biết chắc được.