- 6 - CÔ THI
Một sự xảy ra.
Nếu sự đó không xảy ra, thì không biết rồi cô Quý (tên chị gái bạn tôi) và tôi có yêu nhau không. Ngày nay, tôi thường tự hỏi tôi câu ấy, và tôi vẫn còn lấy làm ngờ.
Nhưng sự kia đã xẩy ra thì bất tất phải bàn đến sự không xẩy ra làm gì.
Sự xẩy ra ấy là sự gặp gỡ của tôi với cô Thi: Một cuộc gặp gỡ cảm động, ngây thơ, rất đáng tức cười, mà rất đỗi đau đớn.
Tôi kéo bộ được mấy tháng, thì lòng tôi sinh chán nản nhất là thân thể tôi lại mệt nhọc vì những đêm thức khuya đánh bạc.
Tới mùa rét! mưa phùn, gió bấc (vào khoảng đầu năm 1918) sự chán nản kia thực trở nên sự khổ thống nan kham cho tôi. Trước tôi còn cố ẩn núp bám sau mui xe ngựa để tránh mưa mà đi đến trường bằng một cách rẻ tiền. Song từ hôm bị một roi của anh ‘‘sà-ích’’, tôi đâm ra sợ hãi, rụt rè.
Nhưng vì thế mà tôi lại nghĩ ra được một cách khác, giản dị hơn: là những hôm mưa gió, tôi không đến trường nữa, đi lang thang dưới mái hiên các cửa nhà hàng, chờ cho hết giờ học sẽ ung dung cắp sách về nhà. Tối đến chỉ việc viết một bức thư đứng tên chú dượng xin ông đốc trường tha lỗi cho ‘‘thằng cháu’’ đã không đi học được, vì bị sốt rét hay đau bụng, hay đi lỵ, bay mắc một bệnh gì đó (tôi liều liệu thay đổi bệnh cho được có vẻ thành thực). Dưới thư, tôi ký tháu tên chú dượng tôi. Ông đốc hẳn là không biết tên ký của chú tôi, người không hề ký tên bao giờ.
Một hôm đi lang như thế, tôi ngẫu nhiên đến trước cửa trường hàng Cót trước giờ nhập học. Và ngẫu nhiên tôi gặp một cô dương cặp mắt đen láy, đăm đăm nhìn tôi như có tình lưu luyến.
Chiều hôm ấy, tôi lại ngẫu nhiên gặp cô nữ học sinh. Lần này, cặp mắt đen lay láy đã ‘‘tòng phạm’’ với cặp môi tươi thắm mà chào tôi bằng một nụ cười thân mật. Cái nụ cười ấy, một giờ sau tôi hiểu ngay là nụ cười biểu đồng tình: cô nữ học sinh, cũng như tôi, là một đảng viên trong phái trốn học.
Thế rồi từ đó, chúng tôi luôn luôn cùng nhau sốt rét và đi lỵ, nghĩa là chúng tôi thường rủ nhau đi chơi vườn Bách thú.
Đưa gái đi chơi Bách thú. Hân hạnh ấy đã mấy người được? Nhưng hồi đó tôi cho là một sự không may, một sự ‘‘tai hại’’ vì tôi chẳng biết khi đi với gái thì phải làm những gì, phải cử động sao, nói năng thế nào, cho khỏi ra một anh chàng quých với cái diện mạo, dáng dấp khờ khạo, ngờ nghệch. Đến nỗi hơn một tháng sau tôi chỉ ao ước cuộc giao du của chúng tôi chóng kết liễu.
Tôi ngnĩ thế, song tôi lại không thể thôi không đến gần cửa trường nữ học đón bạn tôi được. Mà bạn tôi thì không hề bao giờ có cái ý tưởng muốn kết liễu cuộc giao du thân mật.
Tôi thiết tưởng dẫu ai ở vào địa vị tôi, cũng phải lúng túng như tôi..
Cứ tưởng tượng một đôi bạn trẻ mới mười sáu tuổi đầu - mười sáu thời ấy chỉ bằng mười ba, mười bốn ngày nay - đi cách nhau ngoài ba thước, yên lặng nhìn xuống đường và thỉnh thoảng liếc nhau mỉm cười, độc giả cũng thấy cái vẻ khôi hài của cuộc phiếm du kia.
Một đôi khi có nói chuyện, thì chuyện nào có ra chuyện:
- Hôm nay, mát trời nhỉ!
- Cô giáo em đánh phấn vụng quá.
- Lão giáo học bắng nhắng tệ.
- Này cậu ạ, hôm qua con Mùi nó lại viết lên bảng hai chữ Văn, Thi làm em tức quá, phát khóc.
Nồng nàn lắm cũng chỉ đến:
- Thế nào tôi cũng xin phép nhà tôi lấy được cô. Nếu tôi không lấy được cô, thì tôi thề không lấy ai.
Một đêm trằn trọc không ngủ được, tôi băn khoăn suy nghĩ, nhủ thầm:
- Chẳng lẽ chỉ có thế? Chẳng lẽ ái tình chỉ có thế?
Tôi bèn lập tâm hỏi anh em bạn học lớn tuổi xem ở vào địa vị ấy thì phải cư xử ra sao. Tôi làm thân với một anh đã nổi tiếng là rất có nhiều hạnh phúc về đường tình ái (điều đó cũng khả nghi lắm). Môt lần nửa cợt nửa thật, tôi hỏi anh ta:
- Muốn yêu một người con gái thì phải làm thế nào?
Anh kia muốn lên mặt thành thạo dạy tôi một bài tâm lý ái tình:
- Con gái họ cũng thích mình như mình thích họ, nhưng họ bẽn lẽn không dám biểu lộ ngay ái tình của họ ra. Vậy mình phải tỏ cho họ biết rằng mình yêu họ chứ. Mình phải bạo dạn bắt đầu trước. Chẳng hạn, bây giờ anh gặp một người còn gái đẹp, anh không quen biết, mà anh muốn yêu, thì trước hết anh phải tìm cách làm quen với người ta chứ. Chẳng hạn (lần thứ hai) gặp người ấy ở ngoài đường, anh vờ vô ý đâm sầm vào người ta, rồi tha thiết, tươi cười, xin lỗi Chẳng hạn (lần thứ ba) người ta cũng tươi cười, tha lỗi cho anh, thế là xong. Nếu không anh lại vô ý lần thứ hai, vô ý lần thứ ba, thứ tư đâm vào người ta rồi xin lỗi, thế là thế nào người ta cũng phải lưu ý đến anh, cảm động vì anh.
Điều đó thì tôi khó lòng mà tin được, vì đến lần thứ tư, không khéo người ta sẽ tha lỗi cho mình bằng một cái tát tai. Và bài học ấy cũng không ích lợi gì cho tôi: Thi với tôi không còn thời kỳ vô ý đâm sầm vào nhau nữa. Thì ra đã vượt qua được một quãng khó khăn trên đường tình ái mà vẫn không biết. Tôi lại hỏi:
- Còn cách nào khác nữa không …anh?
- Còn nhiều cách, chẳng hạn (lần thứ tư), cách gửi thư. Cách này hơi khó, vì viết những bức thư đằm thắm, tha thiết, âu yếm, có vẻ thành thực. Tôi coi bộ anh thì khó lòng mà thi hành được cách ấy.
Cái cách khó khăn ấy, tôi có ngờ đâu lại chính Thi dạy tôi.
Một độ, tôi bỏ bẵng đến hơn hai tuần lễ không đến cửa trường hàng Cót đón bạn: Tôi bận học để thi lên lớp, vì dầu sao tôi cũng chẳng quên rằng nếu không được lên lớp thì dễ bị cha tôi mắng, ghét và như thế, tôi sẽ có thể làm ngăn trở mất cuộc nhân duyên của tôi.
Một hôm bài vở xong xuôi, và kết quả đã được mỹ mãn, tôi lại đến gần trường nữ học tìm Thi để khoe. Nhưng gặp tôi, Thi chỉ ứa nước mắt, quay mặt đi thẳng về phía trường.Tôi chạy theo toan kêu van xin lỗi thì thấy Thi bỏ rơi một bức thư.
Tôi vội vàng nhặt lên mở ra coi: Trong thư có vài giòng vắn tắt như sau này:
Hỡi người tệ bạc,
Bỏ người ta trơ trọi một thân, một mình trong gần một tháng trời chẳng thèm đoái hoài tới. Thế mà bảo yêu đấy ! Thôi ! Thà đừng yêu còn hơn.
THI
GIẤC MỘNG ÊM ĐỀM
Thế là hôm ấy, tôi thức đến quá nửa đêm loay hoay gọt dũa bức thư trả lời. Thực không bài luận văn nào tôi viết được kỹ càng, chu đáo như bức thư tình thứ nhất của tôi. Vả lại, làm văn, dù là Pháp văn đi nữa, đã có mẫu mực thầy dạy cứ thế mà theo, còn thư tình thì tôi có học bao giờ mà biết. Vì thế, ba lần tôi viết xong, ba lần tôi đọc lại, ba lần tôi xé đi.
Một lẽ nữa, khiến tôi húy hoáy trong năm, sáu giờ đồng hồ mới được một trang giấy là bởi mấy hôm trước, anh Ngôn có cho tôi coi bức thư anh viết cho một cô, ý chừng một cô mộng tưởng. Thấy trong thư có nhiều câu ca lục bát, tôi yên trí ngay rằng thư tình bao giờ cũng phải xen lẫn vận văn nào mới có vẻ đậm đà, âu yếm.
Tôi liền mở quyển Kiều, đọc một lượt và lấy bút chì gạch những câu tình tứ mà tôi muốn trích, muốn lấy. Như thế cũng đã mất mấy tiếng đồng hồ rồi. Bức thư của tôi đại khái như thế này:
Cô Thi yêu quí của tôi ơi,
Hôm qua được chút thơm rơi, tôi lấy làm vui mừng khôn xiết kể. Thực là:
Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu,
Tôi trộm nghĩ:
‘‘ Kiếp tu xưa ví chưa đầy,
‘‘Phúc nào đọ được giá này cho ngang’’.
Từ ngày trộm liếc dung nhan, tôi ngày đem mơ tưởng, năm canh biếng giấc, sáu khắc quên ăn. Lúc nào tôi cũng tự hỏi: ‘‘Không biết đài gương có soi đến dấu bèo cho chăng?...
(Kể thì tôi cũng biết nó soi đến rồi).
Nhưng thôi, tôi chẳng muốn lợi dụng lòng tín nhiệm của độc giả mà bắt phải nghe từ đầu đến cuối áng văn tình tuyệt tác thứ nhứt ấy. Cho đến cả tập thư tôi gửi cho cô Thi, tôi cũng đành để nó nằm yên trong ngăn ký ức, chỉ xin độc giả lấy trí tưởng tượng mà ức đoán sự ngộ nghĩnh, của một công trình thư tín vận, từa tựa như mẫu văn trên đây,
Cứ như thế trong nửa năm trời, Chúng tôi luôn luôn cùng nhau dạo chơi vườn Bách Thảo một cách lý tưởng, rồi tối lại về viết cho nhau những bức thư lý tưởng.
Kể ái tình lý tưởng thì cũng thú lắm, Thực là một giấc mộng dịu dàng, êm ái, Song tiếc rằng ở đời này không có giấc mộng nào liên miên, bất tuyệt hết. Đã có mộng thì tất phải có tỉnh mộng, dù là giấc chiêm bao hay giấc mộng tình lý tưởng, Mà tỉnh giấc chiêm bao thì mình chỉ có cái cảm tưởng nhờ tiếc không đâu, chứ tĩnh giấc mộng tình vớ vẫn thì có khi mình lại đau đớn, khổ sở vì nỗi oan uổng độc địa. Chính tôi đã gặp nông nỗi ấy.
Bây giờ hồi tưởng lại, tôi mới hiểu là lỗi tại tôi, hay đúng hơn lỗi tại sự thật thà, khờ khạo của tôi: khối óc tiêm nhiễm tiểu thuyết của tôi yên trí rằng ái tình chỉ có thế, chỉ có đi dạo chơi ở vườn Bách Thảo, và nói chuyện với nhau hay ngồi gần nhau độ nửa thước đã là quá lắm rồi, đã là vượt qua giới hạn của ái tình rồi.
Cũng có một đôi khi tôi lờ mờ nghĩ đến những cái hôn nồng nàn trong tiểu thuyết, nhưng tôi chỉ thoáng nghĩ đến mà thôi. Còn như làm thế nào để hôn được, hôn được thì sẽ có cảm giác như sao, những câu hỏi ấy không hề bao giờ lởn vởn trong tâm trí tôi. Tôi xin thề rằng những tính tình cao thượng, trong trẻo và ngây thơ luôn luôn bảo hộ cho linh hồn tôi và nâng bổng hẳn trí thức tôi lên từng quang đãng, khiến mắt tôi ngắm vật gì cũng đẹp hơn trước, và mùi thơm của các hoa tôi ngửi, như có nhiễm đầy vẻ thần tiên, huyền bí. Ngoài ra tôi không có một ý nghĩ gì khác nữa.
Thi có những cảm giác, cảm tưởng như tôi chăng? Tôi không biết. Tôi chỉ nhận thấy cặp mắt Thi nhiều lần nhìn tôi đăm đăm, long lanh khác thường. Có khi Thi nhích lại gần tôi như muốn nói thầm một điều gì âu yếm, khiến tôi nhút nhát, lo sợ, sẽ xê ra. Lúc đó, mắt Thi bỗng hơi lim dim nhắm lại, rồi Thi lạnh lùng, im lặng có dáng hờn giận, buồn rầu.
Năm ấy, Thi trượt kỳ thi Sơ học Pháp - Việt. Sự đó chẳng có chi lạ. Tôi viết thư an ủi, lời lẽ thành thực, thiết tha. Trong thư, tôi hứa sẽ học thành tài để sau này làm cho người vợ yêu quý của tôi được hoàn toàn sung sướng.
Rồi tôi về nhà nghĩ hè. Hôm từ biệt nhau lần cuối cùng (mà cuối cùng thật) ở vườn Bách Thảo, Thi khóc lóc thảm thiết. Còn tôi, tôi cũng cố dơm dớm ít nước mắt. Vì quả thực, lúc xa cách Thi, không biết nên buồn hay nên vui.
Buồn thì kể cũng buồn, mà mừng thì có lẽ không phải không đáng mừng. Tôi tự cho là tôi ở vào một cảnh ngộ khó khăn nan tiến nan thoái: Đi bên cạnh một người con gái đẹp, vẫn là một sự đáng tự hào. Song rồi làm gì nữa mới được chứ? Chuyện nói mãi cũng hết. Mà dáng điệu thì chỉ sợ ngờ nghệch, vụng về, quê kệch. Thành thử tôi phải giữ gìn từng tí, rất là khổ sở. Biết bao lần về nhà soi gương, tôi ôn lại những cử chỉ của tôi ở trước mặt Thi xem có khó coi không: hoặc nhách mép mỉm cười, hoặc nhắc lại những câu nói với Thi. Nếu tôi thấy tôi có duyên thì hôm ấy tôi yêu tôi lắm, tôi trọng tôi lắm - Chẳng may trong khi nói chuyện với Thi, tôi lỡ lời thốt ra một câu mà tôi cho là xuẩn ngốc, thì tôi buồn tới một tuần lễ. Đến nỗi giữa đêm băn khoăn, trằn trọc không ngủ được, tôi suy nghĩ mãi về câu nói hớ ấy rồi buột mồm tôi lớn tiếng tự mắng: ‘‘Rõ mình khỉ quá!’’
Vì thế khi từ biệt Thi về nhà nghỉ hè, tôi như thoát nạn, tôi như cất được một gánh nặng trên vai, trong lòng khoan khoái vui mừng.
Nhưng ở nhà được vài hôm, tôi lại nhớ Thi lắm. Tâm hồn tôi trở nên trống trải, và đời tôi lạnh lẽo hết thi vị.
Thấy tôi kém ăn, kém ngủ, kém vui, mẹ tôi săn sóc, hỏi han. Một hôm tôi khóc nức nở thú hết với mẹ tôi, và xin mẹ tôi cho phép tôi lấy Thi. Mẹ tôi an ủi tôi, viện đủ mọi lẽ để khuyên tôi không nên lấy ‘‘cái con người ấy’’.
- Con phải biết nếu nó phải lòng con thì nó cũng có thể phải lòng người khác. Con cứ yên tâm, mẹ đã giấm cho con một đám đẹp gấp mấy kia, mà lại biết làm ăn, trông coi việc đồng áng.
Tôi trả lời quả quyết:
- Bẩm, trừ Thi ra, con nhất định không lấy ai. Mà Thi cũng đã thề với con, nếu không lấy được con, Thi sẽ tự tử.
- Con tin gì lời thề của nó.
Tôi giận mẹ tôi quá, không nói chi nữa. Từ đó, tôi càng khổ sở, người gầy sọp hẳn đi, nhất là thư từ Thi gửi cho tôi lại một ngày một thưa, rồi gần một tháng sau, tôi chẳng nhận được một cái nào nữa.,
Thế rồi sao nữa? Chắc độc giả có ngtrời nóng ruột vội hỏi tôi câu ấy. Câu trả lời, đáng lẽ tôi dã nói thẳng ngay với độc giả, để khỏi làm thêm khô héo trái tim tôi, nếu nền mỹ thuật của khoa kể chuyện không bắt buột tôi phải viết cho có đầu, có đuôi, có phá, có thừa, có luận, có kết.
Bây giờ đã đến đoạn kết câu chuyện tình, tôi xin buồn rầu mà thưa với độc giả rằng: thế rồi... thế rồi tôi cũng như khi xưa tôi đánh luyến gặp ao cá hay gặp cửa nhà quan. Một kẻ sung sướng hơn tôi đã được trẩy những hoa quả ở cây mà tôi mất công trồng tỉa, vun sới.
Nếu chỉ có thế thì cũng chẳng nên phàn nàn. Song nào chỉ có thế. Tôi lại còn bị oan uổng ê chề nữa kia.
Hết hè tôi vui vẻ ra Hà Nội, trong lòng mừng thầm sắp được gặp mặt Thi. Tôi nhẩm lại sẵn trong trí những câu oán trách những lời tình tứ để đem ra nói với Thi.
Nhưng vừa chân ướt chân ráo bước vào sân trường, tôi đã được nghe câu chuyện ghê gớm, làm tôi tê tái cả người như bị giội một thùng nước đá lên đầu: Thi bỏ nhà đi theo tình nhân, mà anh chàng tình nhân quý hóa ấy chẳng phải ai xa lạ, chính là... tôi. Nếu lúc bấy giờ tôi còn giữ được hồn thơ lai láng thì tôi tất phải ngâm câu Kiều:
Tin đâu sét đánh ngang tai.
(có lẽ không đúng)
Trời ơi! Thi theo trai! có thể như thế được chăng?
Người vợ hiền chưa cưới của tôi theo trai? Mà ‘‘trai’’ ấy lại không phải tôi, có thể vô lý như thế được chăng?
Chỉ thiếu một chút là tôi ngất đi.
Anh em bạn thấy tôi kinh ngạc thì cho là tôi vờ. Vì họ biết rằng tôi với Thi “yêu’’ nhau, và họ nhất định quả quyết rằng tôi đã quyến rũ Thi đi ở ẩn một nơi nào trong gần một tháng.
Tôi cãi sao được? Tập thư tình của tôi còn kia; Và nếu nhà Thi không phát đơn kiện tôi, là chỉ vì không muốn bị vỡ lở câu chuyện không hay ấy ra làm gì đó thôi.
Thì ra Thi đã bội ước, đã trái lời thề. Hay Thi đoán được rằng cha mẹ tôi không cho phép tôi lấy Thi? Song Thi không tự tử, - vì tự tử kể cũng khó đấy chứ - Thi chỉ yêu một người khác và yêu một cách thiết thực chứ không lý tưởng như trước nữa.
Hoặc giả ái tình lý tưởng của tôi đối với trái tim kia khao khát sự yêu đã là một cốc rượu khai vị uống trước bữa cơm ngon lành để thêm đói thì cũng chưa biết chừng.
Cố nhiên là tôi thất vọng. Rồi tôi thề với tôi rằng (lại thề) tôi sẽ không yêu ai nữa.
Song nỗi oan, tôi khó lòng mà biện mà bạch được. Sự quyến rũ đê hèn, người đời họ đã chép vào lịch sử của tôi rồi, còn làm thế nào mà xóa đi được. Cả đến người anh cô Thi cũng chẳng xét được nỗi éo le, cay đắng cho tôi, luôn luôn đe nạt tìm tôi để đánh một trận nên thân cho bỏ ghét.
Ngoài những sự nhỏ nhen vừa kể trên này ra, thì sự ‘‘rủi ro’’ thứ nhất về đường tình ái cũng là một điều hay cho tôi vì đã làm cho tôi tỉnh ngộ và trở nên đỡ ngây thơ. Chẳng thế mà hai năm sau thi bằng thành chung, tôi lại đậu được thứ mười tuy nuốt phải một góc điểm về bài tập đọc tiếng An Nam. Ông giám khảo môn ấy nào phải ai xa lạ: chính là ông anh cô Thi, anh người tình lý tưởng của tôi.
Muốn biết tôi đã tỉnh ngộ hẳn chưa, và nỗi oan uổng đã buông tha tôi ra chưa, xin xem những mục sau sẽ rõ.