← Quay lại trang sách

Chương 1 Thứ Bảy mồng 6 tháng Sáu năm 1992, 8 giờ sáng

Sáng nay vòi nước không chảy.

Toóc, toóc hai tiếng như tiếng trẻ con ợ, rồi tịt ngóm.

Tôi gõ cửa hàng xóm: ở nhà họ mọi thứ vẫn ổn. Bà hàng xóm bảo: hay cậu lại khóa van tổng rồi. Cháu á? Nó ở đâu cháu còn chẳng biết nữa là. Cháu cũng mới chuyển đến, mà bác thấy đấy, cháu đi làm suốt, tối mịt mới về. Ôi Trời! Thế khi cậu đi vắng cả tuần cũng không khóa van nước và gas à? Rõ là bất cẩn. Để tôi vào xem thế nào.

Bà ta mở chiếc tủ nhỏ dưới bồn nước, vặn vặn cái gì đó thế rồi nước chảy ra. Thấy chưa? Cậu khóa van vào còn gì. Xin lỗi bác, cháu lơ đễnh quá. Ôi giời, xinh-gờ độc thân như chú! ôkê-gâu: vâng thế mời bà đi cho! Giờ thì đến bà hàng xóm cũng nói tiếng Anh kia đấy!

Bình tĩnh nào. Không có chuyện ma quỷ gì ở đây hết, những thứ đó chỉ có trong phim ảnh mà thôi. Tôi cũng không mắc chứng mộng du, mà ngay cả khi có bị mộng du đi chăng nữa, tôi cũng chẳng biết cái van nằm ở chỗ nào, nếu không thì hẳn tôi đã đóng nó lại khi không ngủ được rồi, bởi vòi hoa sen trong nhà tắm bị rỉ nước nên lúc nào tôi cũng có nguy cơ thức chong chong cả đêm vì tiếng róc rách nhỏ giọt, khác nào Chopin trên đảo Valldemossa![1] Quả thật, nhiều khi đã ngủ rồi lại tỉnh, tôi phải ra khỏi giường, đi đóng cửa nhà tắm và cửa phòng ngủ tại để khỏi phải nghe tiếng nước róc rách khó chịu đó.

Cũng không có chuyện chập điện hay gì gì đó (vì van là van tay vặn, cái tên nó cũng đủ để hiểu là cơ chế vận hành bằng tay rồi), mà chuột có chạy qua cũng không thể đủ mạnh để làm quay nắp van có dạng bánh xe sắt kiểu cổ lỗ sĩ (mọi vật dụng trong cái nhà này phải có từ ít nhất năm mươi năm trước rồi), lại còn han gỉ nữa chứ. Cho nên hẳn phải có tay người (hay mang hình dáng người) ở đây. Tôi cũng chẳng có ống khói lò sưởi để cho con đười ươi phố Morgue[2] trèo vào.

Thử nghĩ xem nào. Người ta nói cái gì cũng có nguyên nhân của nó cả. Loại bỏ khả năng có điều kỳ diệu nào xảy ra, bởi đó chỉ là cái vòi hoa sen chứ có phải Biển Đỏ đâu mà Chúa đoái hoài tới. Cho nên kết quả tự nhiên thì nguyên nhân cũng phải tự nhiên. Đêm qua trước khi lên giường tôi có uống một viên thuốc ngủ, như vậy là cho tới lúc đó nước vẫn chảy.

Sáng nay thì không. Cho nên Watson[3] thân mến ơi, van nước đã bị khóa đêm qua, mà không phải do mi. Ai đó đã vào nhà, hắn, hay chúng, sợ rằng tôi tỉnh dậy, không phải do tiếng động chúng gây ra (chúng hẳn êm như ru rồi), mà bởi tiếng nhỏ giọt của vòi nước, khiến chính chúng cũng phát điên, có khi còn tự hỏi sao nó lại không đánh thức tôi dậy. Thế nên, vốn láu cá, chúng đã đóng van nước lại, y như bà hàng xóm hẳn đã làm.

Thế rồi sao? Đống sách vở vẫn để lộn xộn như thường, cho dù toàn bộ mật thám trên thế giới có qua đây lật từng trang sách đi chăng nữa thì tôi cũng chẳng nhận ra. Có xem trong ngăn kéo hay mở tủ ở hành lang chăng nữa cũng vô ích. Thời buổi này nếu muốn tìm gì thì chỉ có một chỗ: lục trong máy tính. Có khi để tiết kiệm thời gian, chúng đã sao lại tất cả rồi trở về nhà. Và lúc này, sau khi đã mở đi mở lại từng tài liệu, chúng hẳn đã nhận ra trong máy tính không có thứ gì đáng quan tâm.

Chúng hy vọng tìm được gì? Hẳn là thứ gì đó liên quan tới tờ báo (tôi chẳng thấy có khả năng nào khác). Chúng không ngu đâu, chúng nghĩ tôi đã ghi chép toàn bộ công việc diễn ra tại tòa soạn, và do đó, nếu biết điều gì về vụ Braggadocio, hẳn tôi đã ghi lại vào đâu đấy. Giờ thì chúng đoán ra sự thật rồi, tức là tôi giữ mọi thứ trong một đĩa máy tính. Đương nhiên đêm qua chúng đã ghé thăm cả phòng làm việc, và không tìm thấy cái đĩa nào của tôi cả. Do đó chúng bây giờ mới suy ra rằng có lẽ tôi giữ nó trong túi. Hẳn chúng đang tự rủa sao lại ngu thế chứ, đáng lẽ phải tìm trong túi áo khoác của nó. Ngu ư? Lũ khốn. Nếu khôn thì hẳn đã không làm cái nghề bẩn thỉu này rồi.

Chúng sẽ thử lại lần nữa, ít nhất là sẽ giở chiêu lá thư bị đánh cắp[4] ra với tôi, chúng sẽ giả làm lũ móc túi mà tấn công tôi trên đường. Cho nên tôi phải nhanh chân lên, trước khi chúng quay lại, phải gửi cái đĩa tới một địa chỉ nào đó, rồi xem lúc nào có thể tới lấy được. Trời ơi sao tôi lại có thể nghĩ những điều vớ vẩn thế được kia chứ? Đã có một xác chết rồi, còn Simei đã phải tháo chạy. Ai cần biết tôi có biết gì hay không đâu: để cho chắc, chúng sẽ loại tôi đi cho rảnh nợ. Tôi chẳng thể lên báo mà trình bày mình chẳng biết gì về vụ việc này, bởi chỉ riêng việc nhắc tới nó thôi đã để lộ ra là mình biết về nó.

Tại sao tôi lại rơi vào vũng lầy này? Tôi tin mọi chuyện là do giáo sư Di Samis và việc tôi biết tiếng Đức mà ra cả.

Tại sao tôi lại nghĩ tới Di Samis? Đã bốn mươi năm trôi qua rồi còn gì. Bởi tôi vẫn luôn đổ lỗi cho ông về việc mình chưa bao giờ tốt nghiệp đại học, và chỉ vì chưa bao giờ tốt nghiệp đại học nên bây giờ tôi mới bị cuốn vào âm mưu này. Còn Anna đã bỏ tôi hai năm sau khi cưới, nói rằng cô ấy nhận thấy tôi là một kẻ bỏ đi, một tên thất bại. Chẳng rõ ngày trước tôi đã kể với cô ấy những gì để tỏ ra mình hay ho đẹp đẽ.

Tôi chưa bao giờ tốt nghiệp đại học bởi tôi biết tiếng Đức. Bà tôi là người vùng Alto Adige nên đã luyện cho tôi nói tiếng Đức từ bé. Từ năm thứ nhất đại học, tôi đã nhận dịch sách tiếng Đức để trang trải chi phí. Thời đó, chỉ cần biết tiếng Đức thì đã coi như có một nghề rồi. Ai đọc và dịch được những cuốn sách Đức mà người khác không hiểu (và do đó được coi là quan trọng) sẽ được trả công cao hơn so với tiếng Pháp, thậm chí cả tiếng Anh. Ngày nay tôi nghĩ cũng tương tự như ai biết tiếng Trung hay tiếng Nga. Nói ngắn gọn thì hoặc dịch tiếng Đức, hoặc tốt nghiệp. Làm cả hai thì không được. Quả thật, dịch tức là ở trong nhà, cả khi trời nóng lẫn khi trời rét, làm việc mà chân vẫn xỏ dép đi trong nhà, và nhất là học được khối thứ. Sao lại phải lên lớp, theo các bài học ở trường làm gì?

Vốn tính biếng nhác, tôi đã quyết định đăng ký vào khoa tiếng Đức, tự nhủ như thế chẳng phải học gì nhiều, bởi tôi đã biết hết rồi. Thuở đó, giáo sư Di Samis đã tạo ra cái mà đám sinh viên vẫn gọi là tổ đại bàng, trong một tòa nhà xây theo lối ba rốc nay đã cũ nát, nơi phải trèo lên một cầu thang rộng để tới sảnh lớn. Một bên là tới văn phòng của thầy Di Samis, một bên là khán phòng lớn, như cách giáo sư gọi thật khoa trương: phòng học chỉ có sức chứa khoảng năm mươi sinh viên.

Ta chỉ có thể vào văn phòng của thầy Di Samis nếu xỏ dép đi trong nhà vào. Thế nhưng ngoài cửa chỉ có đủ số dép cho các trợ lý của giáo sư và hai hoặc ba sinh viên. Ai không có dép thì đứng ở bên ngoài chờ tới lượt mình. Tôi nghĩ mọi thứ ở đây đều được đánh sáp bóng loáng, kể cả đống sách trên tường, kể cả khuôn mặt của các trợ lý đã già, tự cổ lai hỵ vẫn đang ngồi chờ tới lượt mình được lên chức giảng viên.

Phòng học có mái vòm rất cao và cửa sổ theo lối gô tích (chẳng hiểu nổi sao lại có lối kiến trúc như thế trong một tòa nhà ba rốc), với kính màu xanh. Khi tới giờ, tức là đúng mười bốn phút sau giờ lên lớp, giáo sư Di Samis rời phòng làm việc. Đi cách ông một mét là vị trợ lý già, và cách hai mét là các trợ lý trẻ hơn, chỉ dưới năm mươi thôi. Vị trợ lý già mang sách hộ giáo sư, các trợ lý trẻ vác máy ghi âm - vào thời cuối những năm năm mươi, đống máy ghi âm vẫn còn to đùng, chẳng khác gì chiếc xe Rolls-Royce.

Thầy Di Samis bước qua mười mét ngăn cách phòng làm việc và phòng học như thể khoảng cách là hai mươi mét vậy: ông không đi đường thẳng, mà đường cong (đường cong parabol hay đường elip, tôi cũng chẳng rõ nữa), vừa đi vừa nói to "tới đây, tới đây!", rồi bước vào phòng học, ngồi xuống cái ghế bành chạm trổ cầu kỳ - thiếu mỗi nước ông bắt đầu tự xưng là Thánh Ishmael nữa thôi.

Ánh sáng chiếu qua tấm kính cửa sổ màu xanh khiến cho khuôn mặt ông trở nên nhợt nhạt, ông mỉm cười nham hiểm trong lúc các trợ lý bật máy ghi âm, rồi bắt đầu lên tiếng: "Trái với những gì mà vị đồng nghiệp đáng kính của tôi - giáo sư Bocardo - đã nói gần đây..." và cứ thế suốt hai tiếng đồng hồ.

Thứ ánh sáng xanh le lét đó khiến tôi luôn rơi vào trạng thái thiu thiu ngủ. Mắt các trợ lý cũng chẳng khá gì hơn. Tôi biết nỗi khổ của họ. Sau hai giờ giảng, trong khi lũ sinh viên chúng tôi ùa ra khỏi phòng học, giáo sư Di Samis cho tua lại đoạn băng rồi rời khỏi ghế bành, ngồi xuống hàng ghế đầu cạnh các trợ lý đầy dân chủ. Thế rồi tất cả cùng nghe lại bài giảng dài hai tiếng đồng hồ, giáo sư gật gù thỏa mãn mỗi khi tới đoạn ông cho là quan trọng. Cần phải biết rằng khóa học có chủ đề là bản dịch Kinh Thánh sang tiếng Đức của Martin Luther. Thật là quá sức tưởng tượng! Lũ sinh viên cùng lớp tôi vẫn nói thế với ánh mắt đau khổ.

Vào cuối năm thứ hai, sau khi theo rất ít bài giảng, tôi liền đánh bạo xin làm đề tài khóa luận về tính châm biếm trong các tác phẩm của nhà thơ Heine (tôi thấy được an ủi với cách ông đối mặt những mối tình bất hạnh, cái cách mà tôi gọi là những lời châm biếm chua cay cần thiết - tôi đang chuẩn bị cho nỗi bất hạnh trong tình yêu của chính mình). Thầy Di Samis thất vọng nói: "ôi giới trẻ bây giờ chỉ chăm chăm bập ngay vào các tác giả hiện thời..."

Trong một phút thông minh bất thình lình, tôi nhận ra rằng không hy vọng gì vào việc viết luận với thầy Di Samis. Tôi nghĩ tới giáo sư Ferio, trẻ hơn, nổi tiếng thông minh sáng suốt. Mảng nghiên cứu của ông là thời kỳ lãng mạn và các thời kỳ lân cận. Nhưng các bạn học lớn tuổi hơn đã cảnh báo tôi rằng muốn gì thì gì, tôi vẫn phải có thầy Di Samis là giáo viên hướng dẫn thứ hai, rằng tôi không được tiếp cận giáo sư Ferio một cách chính thức, nếu không Di Samis sẽ biết ngay và biến tôi thành kẻ thù vĩnh viễn. Tôi phải đi lách, phải giả bộ là chính Ferio đã yêu cầu tôi làm khóa luận với thầy, như thế Di Samis sẽ giận ông ta, chứ không giận tôi. Di Samis ghét Ferio, bởi một lý do đơn giản là chính Di Samis đã giúp Ferio có được cái chức giảng viên này. Tại trường đại học thuở ấy (tôi nghĩ cả ngày nay cũng vậy), mọi thứ đều đảo ngược so với thế giới thông thường: không phải con ghét cha, mà là cha ghét con.

Tôi nghĩ sẽ có thể giả vờ tình cờ tiếp cận Ferio tại một trong các hội thảo hằng tháng do Di Samis tổ chức ở phòng học của ông, vốn được rất nhiều đồng nghiệp tham dự bởi ông luôn mời được các nhà nghiên cứu nổi tiếng.

Nhưng mọi chuyện không diễn ra như vậy: ngay sau hội thảo là thời gian dành cho tranh luận, do các giáo sư độc diễn, rồi tất cả rời đi vì diễn giả được mời tới nhà hàng Con Rùa - nhà hàng ngon nhất trong vùng, với phong cách giữa thế kỷ mười chín, thậm chí những người phục vụ ở đó còn mặc bộ áo đuôi tôm. Từ tổ đại bàng tới nhà hàng, cần phải đi qua một phố lớn hai bên là những mái vòm, rồi quảng trường cổ kính, rẽ tại góc một tòa nhà trang trí cầu kỳ và cuối cùng đi qua một quảng trường nhỏ. Suốt dọc con phố có mái vòm, vị diễn giả được các giáo sư bao quanh, cách họ một mét là các giáo viên hợp đồng, cách hai mét là cánh trợ lý trẻ hơn, và cách đó xa xa là đám sinh viên mạnh dạn nhất. Khi tới quảng trưởng cổ, các sinh viên tản đi, tới góc tòa nhà, cánh trợ lý rút lui, các giáo viên họp đồng đi hết quảng trường nhỏ, nhưng cáo lui trước ngưỡng cửa nhà hàng, chỉ diễn giả và các giáo sư bước vào trong.

Thế nên thầy Ferio không biết tới sự tồn tại của tôi. Mà bấy giờ tôi cũng hết hứng thú với môi trường ấy, cho nên không tới lớp nữa. Tôi làm công việc dịch thuật như một cái máy, chấp nhận dịch bất cứ cái gì khách hàng yêu cầu. Có lúc tôi còn đắm mình trong cái lãng mạn của trọn bộ ba tập về vai trò của nhà lý thuyết kinh tế Friedrich List trong việc sáng lập ra Liên minh quan thuế Đức Zottverein. Thế nên có thể hiểu được tại sao sau đó tôi từ bỏ việc dịch tiếng Đức, nhưng lúc ấy thì cũng đã quá muộn để quay trở lại trường đại học rồi.

Vấn đề nằm ở chỗ ta không chịu chấp nhận sự thật: ta cứ tiếp tục sống mà đinh ninh rằng một ngày nào đó sẽ hoàn thành tất cả các bài thi và luận văn. Và khi sống mà nuôi hy vọng bất khả thì ta đã là kẻ thất bại rồi. Khi nhận ra điều đó thì chẳng còn cách nào khác là từ bỏ.

Ban đầu tôi tìm được công việc gia sư cho một thằng bé Đức quá ngu không thể đến trường tại vùng núi Thụy Sĩ Engadina. Khí hậu rất tốt, cô quạnh trong mức có thể chịu đựng được, tôi ở đó một năm vì tiền công cao. Thế rồi một hôm, bà mẹ thằng bé xán lại sát người tôi trong hành lang, ám chỉ bà ta sẵn lòng chiều tôi. Bà ta răng vẩu, mép lún phún ria. Tôi lịch thiệp nói cho bà ta hiểu mình chẳng mặn mà gì. Ba hôm sau tôi bị đuổi việc với lý do thằng bé không đạt tiến bộ gì trong học tập.

Thế là tôi làm nghề viết báo thuê để kiếm sống. Tôi muốn được viết báo chính thức, song chỉ được đăng trên mấy tờ tin địa phương, kiểu như phê bình kịch cho các buổi biểu diễn trên tỉnh hay các đoàn diễn rong để đổi lại vài đồng tiền công rẻ mạt. Tôi chỉ có đủ thời gian xem màn khởi động trước khi diễn, nhòm sau cánh gà các nữ vũ công mặc bộ lính thủy (lớp da nhăn nheo của họ chẳng khiến tôi ngán), rồi theo họ tới quầy bar, nơi họ ăn tối bằng một cốc cà phê sữa, hay nếu không hết sạch tiền thì họ còn gọi thêm cả món trứng tráng bơ. Tôi có trải nghiệm tình dục đầu tiên với một nữ ca sĩ, dùng tình để đổi lấy bài khen ngợi trên một tờ báo tỉnh Saluzzo: với cô ả thế là đủ.

Tôi không có nơi nào có thể gọi là nhà. Tôi sống tại nhiều thành phố khác nhau (tôi tới Milano chỉ sau khi nhận được cuộc gọi của Simei), làm việc chỉnh sửa bản thảo cho ít nhất ba nhà xuất bản (thuộc trường đại học, chứ chưa bao giờ cho những nhà xuất bản lớn). Một trong ba nhà xuất bản đó giao cho tôi việc rà soát bách khoa toàn thư (cần phải kiểm tra mấy thông tin như ngày tháng, nhan đề các tác phẩm...], tất cả các công việc khiến cho tôi có được cái mà sau này nhà biên kịch Paolo Villaggio gọi là một thứ "văn hóa gớm guốc". Những kẻ thất bại, cũng như những kẻ tự giáo dục, luôn có thứ hiểu biết rộng hơn kẻ chiến thắng. Muốn thắng, bạn phải biết rõ một thứ thôi, mà không mất thời gian vào những thứ khác. Sự uyên bác dành cho kẻ thất bại. Càng biết nhiều, thì mọi thứ của anh ta lại càng đi lệch hướng.

Tôi dành vài năm đọc đống bản thảo mà các nhà xuất bản chuyển đến (đôi khi cả những nhà xuất bản quan trọng), bởi chẳng có ai ở chỗ họ muốn đọc những bản thảo được gửi tới. Họ trả tôi năm ngàn lia cho mỗi bản, tôi nằm cả ngày trên giường điên cuồng đọc, rồi bôi ra hai trang đánh giá bản thảo theo cách mỉa mai nhất có thể để phá hoại một tác giả nào đó, kẻ chẳng bao giờ ngờ được rằng bản thảo của mình bị từ chối là do tôi. Các nhà xuất bản thở phào nhẹ nhõm, gửi thư tới kẻ bất hạnh đó rằng họ lấy làm tiếc mà phải từ chối xuất bản... Đọc các bản thảo không bao giờ được xuất bản có thể trở thành một nghề đích thực.

Trong thời gian đó lại còn cả chuyện với Anna, mối quan hệ của chúng tôi đã kết thúc đúng như nó phải thế. Kể từ đó tôi không thể (hay nhất quyết từ chối) hứng thú nghĩ tới đàn bà, bởi tôi sợ sẽ lại thất bại. Tôi viện tới tình dục vì mục đích trị liệu: những cuộc phiêu lưu ngẫu nhiên, không lo sợ phải yêu đương, chỉ một đêm (cảm ơn em, chuyện đêm qua thật tuyệt) và thế là xong; hay trả tiền cho một mối quan hệ định kỳ, để không bị ham muốn ám ảnh (các nữ vũ công đã giúp tôi không thấy gớm khi nhìn lớp da nhăn nheo).

Và tôi vẫn mơ về điều mà tất cả những kẻ thất bại đều mơ, ấy là một ngày nào đó có thể viết một cuốn sách đem lại cho tôi vinh quang và giàu có. Để học cách trở thành nhà văn lớn, tôi thậm chí còn làm đen (hay người viết thế, như cách gọi ngày nay để tránh mắc tội phân biệt chủng tộc) cho một nhà văn trinh thám. Gã này, để thu hút độc giả, còn dùng một cái tên Mỹ làm biệt hiệu, giống như các diễn viên phim cao bồi miền Tây vậy. Nhưng cũng thật thú khi làm việc trong bóng tối, ẩn mình sau hai tấm rèm (Kẻ khác và tên khác của Kẻ khác).

Viết truyện trinh thám cho kẻ khác rất dễ, chỉ việc bắt chước kiểu của Chandler hay cùng lắm là kiểu của Mickey Spillane - hai tiểu thuyết gia trinh thám nổi tiếng người Mỹ, nhưng khi thử viết gì đó cho chính mình thì tôi nhận ra rằng để miêu tả ai đó, hay cái gì đó, tôi luôn viện tới các ẩn dụ văn hóa: tôi không có khả năng nói một gã nào đó đang đi dạo vào một buổi chiều trong xanh, mà phải viết là hắn đang đi "dưới vòm trời đẹp như trong tranh của Canaletto". Rồi tôi nhận ra ngay cả nhà văn nổi tiếng D'Annunzio cũng làm vậy: để nói rằng Costanza Landbrook có vài phẩm chất tốt đẹp, ông ta viết dường như đây là một sáng tạo của Thomas Lawrence, rồi quan sát rằng các đường nét của Elena Muti gợi nhớ loạt bức chân dung của Moreau thời kỳ đầu, và trông Andrea Sperelli chẳng khác nào quý ngài vô danh trong bức chân dung tại Viện tranh Borghese. Và thế là để đọc được một cuốn tiểu thuyết, người ta phải lần giở cả đống sách về lịch sử nghệ thuật.

Nếu D'Annunzio là một nhà văn tồi, thì không có nghĩa là tôi cũng phải viết tồi như thế. Để thoát khỏi tật trích dẫn, tôi quyết định thôi không viết lách gì hết nữa.

Tóm lại là cuộc đời tôi chẳng có gì to tát cả. Giờ, khi đã ngoài năm mươi rồi, tôi nhận được lời mời của Simei. Tại sao không? Cũng đáng thử xem sao.

Tôi phải làm gì bây giờ? Thò mặt ra ngoài sẽ rất nguy hiểm. Tốt hơn cả là đợi ở trong này, chúng có thể canh bên ngoài chờ tôi ra. Tôi sẽ không ra đâu. Trong bếp, tôi có vài gói bánh quy cùng mấy hộp thịt nguội. Tôi vẫn còn nửa chai whisky từ tối qua. Vậy là đủ cho một vài ngày. Tôi rót cho mình một ít (chiều có thể uống thêm chút nữa, chứ uống vào ban sáng khiến người trở nên mụ mẫm), và cố gắng nghĩ ngược trở lại từ đầu cuộc phiêu lưu này. Tôi không cần viện tới cái đĩa máy tính bởi tôi nhớ tất cả, ít ra là bây giờ, khi còn tỉnh táo.

Nỗi sợ chết khiến trí nhớ thức tỉnh.

Chú Thích

[1] Nhà soạn nhạc nổi tiếng người Ba Lan Chopin đã sống tại làng Valldemossa nằm trên hòn đảo Majorca thuộc Tây Ban Nha vào mùa đông khắc nghiệt năm 1938-1939, nơi ông bị căn bệnh lao phổi và những cơn trầm cảm tồi tệ hành hạ. (Mọi chú thích không có lưu ý gì thêm đều là của dịch giả.)

[2]"Vụ ám sát trên phố Morgue" (1841) là truyện ngắn trinh thám của nhà văn Mỹ Edgar Allan Poe. Hai người phụ nữ bị ám sát ngay trong chính nhà mình, các nhân chứng kể lại có nghe thấy hai giọng nói: một giọng nam nói tiếng Pháp, nhưng không phân biệt được kẻ còn lại nói thứ ngôn ngữ gì. Nhờ vài sợi lông tìm được tại hiện trường, thám tử nghiệp dư Dupin tìm ra được thủ phạm là một con đười ươi, được chủ là một thủy thủ mang về Paris từ đảo Bomeo, một hôm đã trốn khỏi nhà, theo đường ống khói vào căn hộ phố Morgue, tiếng hét của hai phụ nữ đã khiến nó trở nên giận dữ và sợ hãi mà giết chết cả hai.

[3] Tên nhân vật bác sĩ Watson, bạn đồng hành với thám tử Sherlock Holmes trong các vụ án bí ẩn thuộc loạt truyện trinh thám nổi tiếng của nhà văn Conan Doyle.

[4] Tác phẩm cùng tên của nhà văn trinh thám Mỹ Edgar Allan Poe viết năm 1845. Cảnh sát được giao nhiệm vụ đoạt lại một lá thư mật mà bộ trưởng D. đã đánh cắp. Sau khi bí mật lùng sục khắp phòng khách sạn nơi vị bộ trưởng này ở mà không có kết quả, họ đành nhờ tới thám tử nghiệp dư Dupin. Biết được tính mưu mẹo của mục tiêu, Dupin khám phá ra thực chất lá thư được ngụy trang rất tài tình và để ngay trong phòng khách. Ngày hôm sau, Dupin kiếm cớ trở lại nhà vị bộ trưởng, và trong lúc ông này bị sao nhãng vì vụ đọ súng nổ ra trên phố (do Dupin bày ra), tay thám tử liền đánh tráo lá thư bằng một lá thư giả để không gây nghi ngờ.