Chương 3 Thứ Ba mồng 7 tháng Tư
Cuộc họp đầu tiên với ban biên tập. Sáu người tất cả. Có vẻ như thế là đủ.
Simei đã cảnh báo tôi không được đi loăng quăng điều tra vớ vẩn. Tôi phải luôn có mặt trong ban biên tập để ghi chép các sự kiện. Thế nên để biện minh cho sự có mặt của tôi, Simei nói:
"Các anh chị thân mến, chúng ta biết nhau cả rồi. Đây là anh Colonna, người có rất nhiều kinh nghiệm trong ngành báo chí. Anh ấy sẽ làm việc sát cánh bên tôi, ta có thể gọi là trợ lý chủ bút. Công việc chính của Colonna là duyệt tất cả các bài báo. Mỗi người trong ban biên tập của chúng ta làm việc ở các mảng khác nhau, mà việc làm cho một tờ báo cấp tiến thì khác xa so với kinh nghiệm trong một tờ, có thể gọi là Bản tin chim lợn. Bởi đội ngũ của chúng ta rất eo hẹp, cho nên ai đã từng làm việc trong mục cáo phó giờ có thể viết về khủng hoảng của chính phủ. Cái cần là thống nhất về phong cách. Nếu có ai lại muốn dùng lối văn cầu kỳ thì Colonna sẽ chỉ rõ từ nào không được và gọi ý từ đơn giản thay thế."
Tôi nói: "Một sự khôi phục đạo lý toàn diện."
"Ví như ai đó, để chỉ một tình huống bi kịch mà lại nói rằng ta đang ở trong 'mắt bão', thì ngài Colonna sẽ cẩn trọng mà nhắc nhở các vị rằng theo các nghiên cứu khoa học, mắt bão là nơi bình yên duy nhất, bởi bão xoáy phát triển quanh nó."
Tôi xen ngang: "Không đâu, anh Simei, trong trường họp này tôi sẽ nói rằng ta vẫn cần dùng cụm từ 'mắt bão', bởi khoa học nói gì chẳng quan trọng, độc giả có ai biết đâu, họ chỉ cần biết là cụm từ đó gọi nên ý tưởng 'ở trong tình thế khó khăn'. Báo chí và truyền hình vốn quen dùng thế rồi."
"Rất đúng. Colonna nói phải, cần nói thứ ngôn ngữ của độc giả, chứ không phải thứ ngôn ngữ tinh tế của nhà trí thức. Thêm vào đó, nếu không nhầm thì có bận ông chủ của chúng ta nói rằng độ tuổi trung bình của khán giả xem các chương trình truyền hình của ông ta là mười hai. Đương nhiên với báo thì không phải như thế, song ta cũng nên xác định độ tuổi trung bình của độc giả báo ta: tôi nghĩ khoảng trên năm mươi, thuộc tầng lớp trung lưu, trung thực và biết tuân thủ luật lệ, nhưng cũng rất ham đọc tin đồn thổi này nọ, hay những bật mí về mấy vụ xâm phạm luật lệ đủ mọi dạng khác nhau. Cần phải biết rằng đó không phải là những độc giả được coi là ham đọc. Ta phải xác định ngay từ đầu là phần lớn họ chẳng có lấy một cuốn sách ở nhà, nhưng nếu cần, họ có thể nói về một cuốn tiểu thuyết mới xuất bản nào đó đang bán được cả triệu bản khắp thế giới. Độc giả của chúng ta không đọc sách, nhưng lại yêu thích các họa sĩ kỳ quặc bán tranh hàng triệu đô; cũng như họ sẽ chẳng bao giờ gặp được một minh tinh màn bạc chân dài, thế nhưng lại muốn biết tất cả những mối tình vụng trộm của cô ta. Nhưng thôi, hãy để những người khác tự giới thiệu. Chúng ta hãy bắt đầu với thành phần nữ duy nhất, quý cô (hay tôi nên gọi là quý bà)..."
"Maia Fresia. Gái ế, hay độc thân, hay xinh-gờ, tùy anh muốn gọi thế nào cũng được. Tôi hai tám tuổi, hụt kỳ tốt nghiệp chuyên ngành Ngữ văn vì lý do gia đình. Tôi từng cộng tác cho một tờ tạp chí lá cải được năm năm. Công việc của tôi là tiếp cận thế giới giải trí, đánh hơi xem ai đang kết mối quan hệ thân tình với ai, rồi thì tổ chức những cuộc phục kích ảnh. Rất nhiều khi tôi phải thuyết phục một ca sĩ, hay một nữ diễn viên bịa ra một mối quan hệ thân tình với ai đó, rồi đưa họ tới địa điểm nơi đống phóng viên ảnh phục kích sẵn, chỉ đạo họ nắm tay nhau đi dạo thế nào, thêm vài nụ hôn vụng trộm nữa. Ban đầu tôi cũng thích thú việc đó, nhưng giờ tôi đã mệt mỏi khi phải viết những chuyện vớ vẩn thế rồi."
"Vậy sao cô lại đồng ý tham gia phiêu lưu cùng chúng tôi?"
"Tôi nghĩ một tờ nhật báo sẽ đề cập tới những vấn đề nghiêm túc hơn, tôi sẽ có cơ hội để mình được biết đến với những cuộc điều tra không liên quan tới mối ái tình nào hết. Tôi là người có tính tò mò, và nghĩ là mình biết đánh hơi tốt."
Maia có thân hình mảnh khảnh, và nói năng khá thận trọng.
"Tốt lắm. Thế còn anh?"
"Romano Braggadocio."
"Một cái tên khá độc đáo. Anh người vùng nào?"
"Chẹp, đây đúng là một trong những nỗi khổ tôi phải gánh chịu. Hình như trong tiếng Anh nó còn mang nghĩa xấu nữa kia, may mà trong các tiếng khác thì không. Ông nội tôi là trẻ mồ côi, và ngài biết đó, trong những trường hợp như thế này, họ tên là do nhân viên xã đặt cho. Nếu vớ phải một gã khùng thì hắn còn có thể đặt cho mấy cái tên kiểu 'Cái đĩ' nữa kia. Trong trường hợp ông tôi, gã nhân viên chỉ khùng khùng thôi, chứ vẫn còn có chút văn hóa. Về phần mình mà nói, tôi chuyên bật mí những vụ xì căng đan om sòm. Tôi làm việc cho chính một trong những tờ tạp chí của ông chủ tòa soạn của chúng ta đây, tờ Có gì ẩn giấu? Nhưng tôi chưa bao giờ được tuyển vào làm cả, toàn trả công theo bài thôi."
Bốn người còn lại gồm có Cambria, hắn vốn chầu chực đêm hôm tại các trạm cấp cứu và đồn cảnh sát để săn tin nóng hổi, như những vụ bắt giữ, những cái chết vì tai nạn bất thường trên quốc lộ. Gã này chưa bao giờ tạo được tên tuổi gì hết. Lucidi thì mới nhìn đã thấy không đáng tin. Hắn tham gia cộng tác cho những ấn phẩm chẳng ai biết đến tên. Palatino đã làm việc lâu năm cho mấy tờ tuần san chuyên về các trò chơi, đố chữ này nọ. Costanza từng làm việc sửa bản in cho một vài tờ báo, nhưng giờ báo có quá nhiều trang, ai mà lại muốn đọc lại tất cả trước khi đem đi in kia chứ. Ngay cả những tờ nhật báo lớn còn viết nhầm tên tuổi các nhân vật quan trọng nữa là. Thành ra cái nghề sửa bản in cũng trở nên vô dụng như máy in tay Gutenberg vậy. Nói chung chẳng ai trong số năm người bạn đồng hành này có được kinh nghiệm nào đáng thú vị cả. Khác gì Cây cầu San Luis Rey[5] kia chứ. Không hiểu Simei móc họ ra từ đâu nữa.
Sau khi phần giới thiệu kết thúc, Simei phác thảo các nét chính của tờ báo.
"Các vị biết đấy, chúng ta sẽ cho ra đời một tờ nhật báo. Tại sao là Ngày mai? Bởi các tờ báo lâu đời vốn đã và đang kể những tin tức diễn ra cho tới buổi tối ngày hôm trước, thế cho nên chúng mới có tên Người đưa tin buổi chiều, Tin chuẩn buổi tối hay Buổỉ chiều. Nhưng thời nay chúng ta đã biết tin tức ngày hôm trước qua kênh truyền hình từ tám giờ tối rồi, thành ra báo chí kể những gì ta đã biết, nên doanh thu ngày càng giảm. Trong tờ Ngày mai, những tin tức đã có mùi cá ươn đương nhiên vẫn sẽ được ghi lại nhưng chỉ tóm tắt trong một cột ngắn, có thể đọc vài phút là xong."
Cambria hỏi: "Vậy tờ báo phải nói về những gì?"
"Bây giờ một tờ nhật báo phải giống như tờ tuần san. Ta sẽ nói về cái có thể sẽ xảy ra vào ngày mai, với những bài xã luận phân tích kỹ lưỡng, những cuộc điều tra bên lề, những dự báo không ai ngờ tới... Ví dụ thế này. Nếu vào lúc bốn giờ chiều có một quả bom phát nổ, ngày hôm sau ai ai cũng biết rồi. Thế nhưng từ bốn giờ chiều tới nửa đêm, trước khi cho in, ta sẽ phải khai thác xem ai có thể cung cấp điều gì đó chưa được nhắc tới về kẻ tình nghi, điều mà ngay chính cảnh sát còn chưa biết, và vẽ ra một kịch bản những gì sẽ xảy ra trong vòng vài tuần sau vụ nổ tấn công đó..."
Braggadocio ngắt lời: "Nhưng để khởi động những cuộc điều tra như vậy trong vòng tám tiếng đồng hồ, cần có một đội ngũ biên tập ít nhất là gấp mười lần, với rất nhiều đầu mối liên lạc, người cung cấp thông tin và rất nhiều thứ khác nữa chứ..."
"Rất chính xác, khi nào tờ báo được thực sự phát hành, ta sẽ có tất cả. Nhưng hiện giờ, trong vòng một năm ròng, ta chỉ phải cho thấy có thể thực hiện được. Và có thể thực hiện được là bởi khi mang nhãn Số Không, tờ báo có thể đề bất kỳ ngày nào nó muốn, ví dụ ta có thể để tờ báo in ngày xuất bản là vài tháng trước khi quả bom phát nổ. Như vậy ta đã biết điều gì sẽ xảy ra, nhưng ta sẽ nói như thể độc giả còn chưa biết. Vậy nên tất cả những vụ rò rỉ thông tin của chúng ta sẽ tạo nên mùi vị mới mẻ, ngạc nhiên, chẳng khác nào lời tiên tri cả. Nói cách khác là ta phải trả lời cho ông chủ của mình: tờ Ngày mai sẽ như thế nào nếu nó được xuất bản vào ngày hôm qua. Các vị hiểu cả rồi chứ? Nếu muốn, thậm chí ngay cả khi chẳng có ai ném bom cả, ta vẫn có thể cho ra một số báo như thể chuyện đó thực sự xảy ra vậy."
Braggadocio cười khẩy: "Hoặc nếu cần, chính ta cho ném bom luôn."
Simei nhắc nhở: "Đừng có nói linh tinh vậy chứ." Rồi nghĩ lại: "Nếu muốn làm thế, cũng đừng tới mà nói cho tôi hay."
***
Sau cuộc họp, tôi buớc xuống tầng dưới cùng Braggadocio. Hắn hỏi: "Ta từng gặp nhau trước đây chưa nhỉ?", "Tôi nghĩ là chưa", "Hẳn rồi", hắn nói với vẻ hơi nghi ngờ, rồi dùng ngay giọng thân mật trò chuyện. Simei đã dùng ngôn ngữ trịnh trọng với ban biên tập, và tôi cũng thường xuyên giữ khoảng cách với mọi người xung quanh, trừ phi là với người để sau đó đưa lên giường cùng mình. Nhưng hẳn là Braggadocio đang nhấn mạnh việc chúng tôi là đồng nghiệp với nhau, mà tôi thì không muốn ra cái vẻ này nọ chỉ vì Simei đã giới thiệu tôi là trưởng ban biên tập hay tương tự thế. Thêm vào đó, tôi khá tò mò về tay này, và cũng vì chẳng có gì hay ho hơn mà làm.
Hắn kéo khuỷu tay tôi, nói đi uống cái gì đi, hắn biết một chỗ hay. Hắn mỉm cười với cặp môi dày và con mắt hơi lờ đờ, theo cái kiểu tôi thấy khá thô tục. Hắn hói như diễn viên Von Stroheim, cái đầu dính lấy vai, hầu như không thấy gáy, nhưng lại mang khuôn mặt của Telly Savalas trong phim Trung úy Kojak. Đấy, lại cái tật hay trích dẫn rồi!
"Cô nàng Maia cũng đẹp đó chớ, phải không?"
Tôi lấy làm ngại mà thú nhận mình chỉ nhìn cô thoáng qua thôi, rằng tôi tránh xa đàn bà. Braggadocio khẽ đập cánh tay tôi một cái: "Colonna, đừng làm bộ lịch thiệp. Tôi thấy anh lén nhìn cô nàng. Theo tôi, nàng thuộc loại cũng muốn chiều. Thực ra thì đàn bà ai chẳng muốn, chỉ cần tiếp cận đúng cách thôi. Với khẩu vị của tôi thì cô nàng gầy quá, chẳng có ngực gì cả, nhung nói chung cũng được."
Chúng tôi tới đường Turin, rồi ở đoạn nhà thờ thì rẽ phải vào một phố gấp khúc, mờ ảo. Nhiều cánh cửa đóng chặt chẳng biết từ thuở nào rồi, cũng chẳng có cửa hiệu nào cả, như thể khu này đã bị bỏ hoang từ lâu. Thoang thoảng có mùi ôi, nhưng đó ắt chẳng qua là cảm giác đi kèm gây ra bởi những mảng tường bong tróc, bôi đầy chữ viết đang mờ dần. Có một đường ống trên cao tỏa khói, chẳng hiểu dẫn từ đâu ra nữa bởi phía trên đó cửa sổ đóng kín như thể không có ai sống. Có lẽ đó là đường ống đi từ một căn nhà có mặt tiền ở phía bên kia, và chẳng có ai thèm để ý tới việc khói tỏa khắp con phố bỏ hoang.
"Đây là phố Bagnera, con phố hẹp nhất Milano, dù không hẹp bằng con phố Chat-qui-Pêche ở Paris, hẹp tới mức hai người chật vật mới đi qua được cùng lúc. Giờ là phố Bagnera, nhưng trước đây chỉ được gọi là hẻm Bagnera, trước đó nữa là hẻm Bagneria, bởi có mấy nhà tắm công cộng từ thời La Mã[6]."
Lúc đó có một phụ nữ đẩy xe nôi từ góc phố đi ra. Braggadocio bình luận luôn: "Rõ là bất cẩn, hoặc ngu ngơ không biết gì. Nếu là đàn bà, tôi sẽ chẳng đời nào đi qua đây, đặc biệt là khi trời sẩm tối. Khéo lại bị đâm chẳng biết chừng. Thế thì sẽ đáng tiếc lắm, bởi ả cũng õng ẹo lắm chứ chẳng chơi đâu, mấy bà mẹ trẻ điển hình sẵn sàng chim chuột với cả cánh thợ thuyền. Quay lại mà nhìn cách ả nguẩy mông kìa. Ở phố này từng xảy ra nhiều chuyện đổ máu. Phía sau mấy cánh cửa giờ đang cổng kín then cài kia hẳn vẫn còn những căn hầm bỏ hoang, có lẽ còn cả những lối đi bí mật nữa. Vào thế kỷ mười chín, một thằng khốn vô công rồi nghề tên là Antonio Boggia đã dụ một tay kế toán xuống dưới một trong số những căn hầm đó, lấy cớ là cho xem sổ sách tính toán, rồi dùng rìu đập gã ấy. Nạn nhân thoát được, Boggia bị bắt. Người ta kết luận hắn bị điên, ném vào nhà thương điên trong vòng hai năm. Nhưng ngay khi vừa được thả ra, hắn ta liền đi săn những người giàu có ngây ngô, dụ họ xuống hầm, trấn đồ rồi giết hại và chôn ngay tại chỗ. Một kẻ giết người hàng loạt, serial killer như cách nói ngày nay. Nhưng là một kẻ giết người hàng loạt bất cẩn, bởi hắn để lại dấu vết giao dịch buôn bán với các nạn nhân, thành ra cuối cùng cũng bị bắt. Cảnh sát đào hầm và tìm thấy năm hay sáu xác chết. Tên Boggia bị treo cổ ở phía cổng thành Porto Ludovica. Cái sọ của hắn được đưa vào phòng nghiên cứu khoa giải phẫu học của Bệnh viện Lớn. Đó là vào thời kỳ của bác sĩ Cesare Lombroso, khi người ta còn tìm trong sọ và các đường nét khuôn mặt những dấu hiệu di truyền của xu hướng phạm pháp. Rồi hình như sau đấy cái sọ của hắn được đem chôn ở nghĩa địa Musocco, nhưng ai mà biết được. Những di hài như thế là miếng mồi ngon cho mấy kẻ làm phép huyền bí, ma quỷ đủ loại... Đây là nơi mà tới tận ngày nay ta vẫn cảm giác Boggia hiện diện, khác gì ở London nơi Jack - Kẻ Phanh Thây lượn lờ[7]. Tôi chẳng muốn ở đây ban đêm, dù cũng bị nó thu hút đấy. Tôi vẫn thường qua đây, đôi khi còn có hẹn ở đây nữa."
Ra khỏi con phố Bagnera, chúng tôi tới quảng trường Mentana, Braggadocio dẫn tôi đi vào đường Morigi, cả con đường này cũng khá tối, nhưng còn có vài cửa hiệu và cánh cổng trang trí khá đẹp. Rồi chúng tôi tới một khoảng không gian lớn, với khu để xe rộng rãi, bao quanh là những khu di tích hoang tàn. Braggadocio bảo tôi: "Anh thấy đó, phía tay trái vẫn còn khu di tích từ thời La Mã. Hầu như chẳng ai còn nhớ Milano từng có thời là thủ phủ của đế chế. Do đó chúng vẫn được giữ nguyên, mặc dù chẳng ai thèm quan tâm. Còn khu hoang phế phía sau bãi đậu xe là những ngôi nhà bị bom đạn tàn phá từ thời thế chiến."
Những ngôi nhà trống hoác không có cái vẻ trầm mặc cổ kính như khu di tích La Mã giờ đã chung sống hòa bình với cái chết, và mang vẻ gì đó quái gở bởi sự trống rỗng nghiệt ngã như thể mắc bệnh lupus ban đỏ.
Braggadocio nói tiếp: "Chẳng hiểu sao không ai muốn xây dựng cái gì ở khu này. Có lẽ nó thuộc khu vực được bảo tồn, hoặc bãi đậu xe còn đem lại nhiều lợi nhuận hơn là xây nhà cho thuê. Nhưng tại sao lại để nguyên dấu vết bom đạn? Tôi còn sợ khu này hơn cả phố Bagnera. Nhưng thế cũng tốt bởi nó cho ta thấy Milano sau chiến tranh là như thế nào. Tại thành phố này chỉ còn rất ít chỗ nhắc ta nhớ về chính Milano năm mươi năm trước đây. Đó chính là Milano mà tôi muốn tìm lại, nơi tôi đã sống suốt thời niên thiếu. Chiến tranh kết thúc khi tôi lên chín, thế mà đôi khi nửa đêm tỉnh dậy tôi vẫn có cảm giác nghe thấy tiếng bom đạn. Mà không chỉ có khu hoang tàn thế này đâu nhé, anh nhìn đầu đường Morigi mà xem, ngọn tháp ấy có từ thế kỷ mười lăm, chẳng bom đạn nào đánh sập nó. Lại đây xem, dưới này còn có quán rượu từ đầu những năm chín mươi, quán Moriggi. Đừng hỏi tại sao tên quán lại có thêm một chữ g so với tên đường, hẳn là quận đã làm biển hiệu sai, bởi quán lâu đời hơn, nên tên quán hẳn phải là tên đúng."
Chúng tôi bước vào một phòng lớn. Tường màu đỏ, trần nhà đã bong tróc, trên đó treo lủng lẳng một chiếc đèn trần ốp sắt rèn, một cái đầu hươu treo phía trên quầy, vài trăm chai rượu phủ bụi xếp dài khắp tường, bàn gỗ còn chưa được trải khăn (Braggadocio nói ấy là bởi chưa đến giờ ăn tối, chốc nữa họ sẽ trải khăn ăn ô vuông trắng đỏ lên, rồi viết thực đơn lên trên tấm bảng treo, giống như ở các quán bình dân tại Pháp). Ngồi bên bàn có vài sinh viên, một vài gã để tóc dài theo kiểu bô hê miêng đã lỗi thời - không phải phong cách những năm sáu mươi, mà là phong cách của những nhà thơ đội mũ rộng vành, đeo cà vạt thắt to kiểu Lavallière. Lại còn có cả vài ông già khật khừ say nữa, chẳng hiểu họ đã ở đó từ trăm năm trước rồi, hay các ông chủ mới của quán rượu thuê họ cho thêm không khí. Chúng tôi nhấm nháp đĩa phô mai, thịt nguội, thịt mỡ vùng Colonnata, rồi cùng uống thứ rượu merlot tuyệt hảo.
Braggadocio hỏi: "Tuyệt đấy chứ hả? Như thể ta vẫn đang còn trong quá khứ vậy."
"Mà sao anh lại bị cái Milano của ngày xưa lẽ ra đã phải bị xóa sổ rồi cuốn hút đến thế?"
"Thì tôi đã bảo anh rồi, tôi muốn thấy cái mà tôi không còn nhớ nữa, cái Milano của ông tôi, và cha tôi."
Rồi hắn ngồi uống, cặp mắt bắt đầu sáng lên. Hắn lấy khăn giấy lau lau vệt rượu dưới đáy cốc tạo thành hình tròn trên mặt bàn gỗ cũ.
"Chuyện gia đình tôi chẳng có gì hay ho. Ông nội tôi là sĩ quan chỉ huy phát xít dưới cái thời mà sau này người ta gọi là chế độ bất hạnh đó. Ngày 25 tháng Tư, trên đường Cappuccio ngay ở gần khu này đây, một du kích đã nhận ra ông khi ông cố lẩn trốn. Họ tóm được ông rồi đem xử bắn, ngay ở góc đường ấy. Cha tôi biết tin muộn. Trung thành với lý tưởng của ông nội, cha tôi đã gia nhập đội biệt kích Xa Mas vào năm 1943. Ông bị bắt tại Salò, rồi bị tống vào trại tập trung Coltano một năm. Ông thoát chết trong đường tơ kẽ tóc: bọn họ không tìm ra các cáo buộc thực sự chống lại ông. Thế rồi vào năm 1946, Bộ trưởng Togliatti ban lệnh ân xá toàn bộ. Thật là những điều trái khoáy trong lịch sử, những kẻ theo phát xít được cộng sản cho cải tạo phục hồi nhân phẩm, nhưng có lẽ Togliatti có lý, bằng mọi giá cần phải quay trở lại tình trạng bình thường. Thế nhưng với chúng tôi, tình trạng bình thường tức là cha tôi không kiếm được việc làm, bởi quá khứ của ông cũng như cái bóng của cha ông, mẹ tôi làm thợ may phải nuôi cả nhà. Thế nên dần dần ông ngày càng chán nản, rượu chè. Tất cả những gì tôi nhớ về ông là khuôn mặt đỏ ngầu và đôi mắt ngậm nước khi ông kể tôi nghe về những ám ảnh của mình. Ông cũng chẳng muốn biện hộ cho chủ nghĩa phát xít (bấy giờ ông chẳng còn biết nó thực sự là gì nữa rồi), nhưng ông nói rằng những người chống phát xít, để kết tội nó, đã kể rất nhiều chuyện thực sự kinh khủng. Ông không tin là sáu triệu người Do Thái bị giết bằng hơi ga trong trại tập trung. Ý tôi là ông không phải một trong số những kẻ tới bây giờ vẫn còn cho rằng nạn diệt chủng Holocaust là không hề có, nhưng ông không tin vào mấy câu chuyện do quân giải phóng nghĩ ra. Ông nói với tôi: 'Tất cả các lời chứng đều phóng đại lên cả. Ta đọc được rằng theo một vài người sống sót, ở trung tâm một trại tập trung, quần áo của những kẻ bị giết chất đống như núi, mỗi đống cao cả trăm mét. Trăm mét? Con có hình dung được không? Một núi quần áo cao trăm mét, mà chất đống lại thì nó phải có dạng hình chóp, suy ra chân núi phải rộng hơn cả khu trại ấy chứ.
"Thế ông ấy không tính tới việc ai buộc phải chứng kiến một điều gì kinh khủng, khi kể lại, thường dùng lối ngoa dụ à? Ví như khi chứng kiến một vụ tai nạn trên đường, anh sẽ kể là các nạn nhân nằm trong bể máu. Không phải anh muốn người ta tin rằng có một bể máu thực sự, mà chỉ muốn họ hình dung được là có rất nhiều máu. Thế nên thử đặt vào địa vị ai phải nhớ lại một trong những trải nghiệm kinh khủng nhất của cuộc đời mình..."
"Tôi không phủ nhận điều này, nhưng cha tôi đã luyện cho tôi không nhắm mắt tin vào bất cứ thông tin gì.
Báo chí dối trá, truyền hình dối trá, cả các nhà sử học cũng nói dối nốt. Anh còn nhớ chỉ một năm trước đây, vào thời điểm cuộc chiến vùng Vịnh, các bản tin đăng tải hình ảnh một con cốc dính đầy dầu mỏ đang ngắc ngoải chết trên vịnh Ba Tư? Thế rồi người ta nhận ra vào mùa ấy trong năm đào đâu ra chim cốc ở Vịnh? Mấy hình ảnh đó có từ tám năm trước rồi, ở thời kỳ chiến tranh Iran-Iraq. Lại có người còn nói thực chất chúng là những con cốc trong vườn thú bị đổ dầu đó thôi. Với tội phạm phát xít hẳn cũng thế. Xin nhớ cho là tôi không bận tâm tới các lý tưởng của cha tôi và ông tôi, cũng chẳng hề tự huyễn hoặc là người Do Thái không bị tàn sát. Ấy, một vài người bạn thân thiết nhất của tôi là người Do Thái nữa kia đấy. Chẳng qua là tôi không tin vào điều gì hết. Có thực là người Mỹ đã đi lên mặt trăng không? Chẳng phải là không có khả năng họ dựng lên tất cả trong phòng quay. Nếu quan sát kỹ, sẽ thấy bóng các nhà du hành sau khi tàu vũ trụ hạ cánh thật đáng ngờ. Cuộc chiến vùng Vịnh là có thực, hay họ chỉ cho chúng ta thấy một vài mảng tư liệu dựng lên? Chúng ta sống trong dối trá, và nếu biết có kẻ đang lừa dối mình, thì ta phải luôn biết nghi ngờ. Tôi nghi ngờ, lúc nào cũng nghi ngờ. Điều duy nhất tôi thực sự có được bằng chứng chính là thành phố Milano của vài thập niên trước. Những vụ ném bom là có thật, và chính người Anh, người Mỹ đã ném chúng xuống."
"Thế cha anh sau đó thế nào?"
"Ông chết vì rượu lúc tôi mới mười ba tuổi. Để thoát khỏi những ký ức đó, khi trưởng thành, tôi đã cố đi theo chiều ngược lại. Năm 1968, dù đã ba mươi tuổi đầu, tôi vẫn để tóc dài, mặc áo len dài tay và áo khoác kiểu người Eskimo, gia nhập một cộng đồng thế giới chủ nghĩa. Sau đó tôi phát hiện ra phe này đã xử tử số người bằng mấy phe kia cộng lại. Không chỉ có thế, có lẽ một số kẻ thuộc sở Mật vụ còn trà trộn vào cộng đồng đóng vai kích động. Thế là tôi quyết định trở thành nhà báo chuyên đi săn tin về các mưu đồ. Nhờ thế mà tôi tránh được việc bị rơi vào bẫy của những kẻ khủng bố phương Đông (tôi có những mối quan hệ nguy hiểm). Tôi đã hoàn toàn đánh mất niềm tin vào mọi thứ, ngoại trừ mỗi một điều, đó là luôn có kẻ nào đó tìm cách lừa dối sau lưng ta."
"Giờ thì sao?"
"Giờ thì, nếu như tờ báo được phép xuất bản, có lẽ tôi đã tìm được một nơi mà các khám phá của tôi được đánh giá cao. Tôi đang thăm dò một thông tin là... Ngoài tờ báo, còn có cả một cuốn sách cũng sẽ được xuất bản. Thế thì... Nhưng thôi hãy chuyển chủ đề đi, ta sẽ nhắc lại chuyện này khi tôi có thể sắp xếp mọi dữ kiện lại với nhau... Tôi cần phải làm gấp mới được, đang cần tiền mà. Số tiền Simei phát cũng giúp phần nào, nhưng không đủ."
"Để trang trải sinh hoạt phí?"
"Không, để mua xe. Đương nhiên tôi sẽ mua trả góp, nhưng cũng vẫn phải trả theo hạn chứ. Tôi lại còn cần tới nó ngay, để còn đi điều tra."
"Nghĩa là anh đi điều tra để lấy tiền mua xe, nhưng lại cần xe để đi điều tra."
"Để làm rõ một số thứ tôi phải di chuyển nhiều, tới chỗ này chỗ nọ, có khi phải dò hỏi người này người kia. Không có xe, mà lại phải tới tòa soạn hằng ngày, tôi buộc phải kiến tạo mọi thứ qua trí nhớ, làm việc trong trí óc mà thôi. Mà giá như đó là vấn đề duy nhất thì đã tốt."
"Vậy vấn đề thực sự là gì?"
"Anh thấy đấy, tôi không phải là người thiếu quyết đoán, nhung mà để hiểu được cần làm cái gì thì phải biết kết hợp các thông tin. Một thông tin không thôi chẳng nói lên được điều gì, tất cả thông tin xếp lại cho ta thấy được cái mà ban đầu ta không nhìn ra. Cần phải thấy được cái mà chúng cố giấu ta."
"Anh vẫn đang nói về cuộc điều tra đấy chứ?" "Không, tôi nói về việc lựa chọn loại xe nào..." Braggadocio nhúng một ngón tay vào cốc rượu rồi chấm chấm lên bàn một loạt các nốt, giống như trong mấy tờ báo giải trí phải nối các nốt chấm để tạo nên hình.
"Xe thì cần phải chạy nhanh, thuộc loại đẳng cấp, chứ không chỉ một chiếc rẻ tiền. Mà với tôi thì hoặc là FWD - động cơ nằm cả ở bánh trước, hoặc không xe cộ gì hết. Tôi đang nghĩ tới con Lancia Thema 16V, đó là một trong những con đắt nhất, gần sáu mươi triệu lia. Có thể tăng tốc đạt 235 km/h từ vị trí xuất phát chỉ trong vòng 7,2 giây. Như thế là gần như đỉnh rồi."
"Đắt thật."
"Không những thế, còn phải đi tìm hiểu những thông tin bị giấu kín. Quảng cáo xe hơi nếu không nói dối thì cũng giấu điều gì đó. Cần phải săm soi loạt thông số kỹ thuật đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành, và anh sẽ phát hiện ra nó rộng 183 cm."
"Thế có gì không tốt?"
"Vậy là anh cũng chẳng để ý tới việc trong tất cả các tờ quảng cáo người ta chỉ luôn nói tới chiều dài: cái này đương nhiên là cần thiết khi tính tới việc đậu xe hay để làm sang. Nhưng rất ít khi người ta đề cập tới chiều rộng, vốn là điều rất quan trọng nếu anh có hầm để xe nhỏ, hay chỉ có chỗ để xe rất hẹp, ấy là còn chưa nói tới việc phải lái xe lòng vòng như điên trong thành phố để tìm chỗ đủ rộng mà lách xe vào bãi đậu. Chiều rộng cũng quan trọng lắm. Cần phải tìm loại dưới 170 cm."
"Hẳn phải có nhiều loại rồi."
"Đương nhiên, nhưng ở trong một cái xe rộng 170cm, nếu có ai ngồi bên cạnh thì ta khó mà có đủ chỗ cho cùi tay phải. Đương nhiên cũng không có mọi tiện nghi như đối với những chiếc xe rộng, với nhiều nút điều khiển ở bên tay phải, gần cần số."
"Thế thì biết làm sao?"
"Cần để ý bảng đồng hồ phải có nhiều chức năng, phải có điều khiển ở vô lăng, như thế thì tay phải không phải dò dẫm xung quanh. Thế nên tôi đã tăm một con Saab 900 Turbo, 168 cm, tốc độ tối đa 230 km/h, và giá giảm xuống còn trên năm mươi triệu."
"Đó đúng là con xe dành cho anh rồi."
"Phải, thế nhưng chỉ một góc thông tin bé tí xíu cho biết khả năng tăng tốc 0-100 km/h là 8,5 giây, trong khi lý tưởng mà nói phải ít nhất là 7, như con Rover 220 Turbo, bốn mươi triệu, rộng 168 cm, tốc độ tối đa 235 và tăng tốc 0-100 km/h trong vòng 6,6 giây. Khác gì xe đua đâu."
"Vậy thì anh phải nhắm nó thôi."
"Không được, bởi ở cuối bảng thông tin mới lộ ra là nó cao có 137 cm, chẳng khác gì loại xe đua dành cho bọn choai choai thích thể thao. Quá thấp cho một người vóc dáng cao ráo như tôi. Trong khi con Lancia cao 143 cm con con Saab cao 144 cm, nên thoải mái chui ra chui vào. Mà đâu chỉ có thế, nếu là một tên choai choai không xem kỹ thông tin kỹ thuật, vốn chẳng khác gì phần thông tin tác dụng phụ của thuốc được viết lí nhí khiến ta bỏ qua mà không nhận ra rằng uống vào sẽ chết ngày hôm sau, con Rover 220 nặng có 1.185 kg - thế là không nhiều, nếu lao vào xe tải thì bị lật tung ngay, cần phải nhắm những con xe nặng hơn, với các bộ phận tăng lực bằng thép. Không cần phải tới con Volvo, vốn chẳng khác gì xe tăng, nhưng lại quá chậm, nhưng ít nhất cũng phải như con Rover 820 TI, khoảng trên năm chục triệu, 230 km/h, 1.420 kg."
"Hẳn con này cũng không được bởi..." tôi bình luận, bấy giờ thì chính tôi cũng bị lây cái chứng hoang tưởng của hắn rồi.
"Bởi nó mất tới 8,2 giây để tăng tốc 0-100 km/h: khác gì rùa bò; mà nó lại không được tạo ra để chạy nước rút. Con Mercedes 280c cũng vậy, rộng 172cm, nhưng ngoài chuyện giá những sáu mươi bảy triệu, nó tăng tốc mất 8,8 giây. Rồi lại còn năm tháng sau mới giao hàng nữa chứ. Đó cũng là điều phải cân nhắc, bởi một trong số những mẫu mà tôi vừa nhắc tới chỉ yêu cầu có hai tháng, một số khác còn giao ngay. Sao lại không giao ngay chứ? Bởi có ai muốn chúng đâu. Phải luôn cảnh giác. Hình như con Calibra 16V được giao ngay: 245km/h, xe dẫn động bốn bánh 4WD, tăng tốc sau 6,8 giây, rộng 169cm, giá trên năm mươi triệu."
"Nghe có vẻ quá ổn rồi."
"Ấy không, bởi nó nặng có 1.135 kg. Thế là quá nhẹ. Cao có 132 cm: thế là thấp hơn tất cả các loại kể trên, đúng là dành cho lũ khách hàng có tiền nhưng lùn tịt. Mà đâu chỉ có thế. Ta còn chưa xét đến cốp để hàng. Loại rộng nhất là của con Thema 16V, nhưng lại rộng những 175cm. Trong số những con xe hẹp, tôi có để ý tới con Dedra 2.0 LX, cốp rộng, nhưng để tăng tốc 0-100 km/h mất những 9,4 giây, nặng không dưới 1.200kg, và chỉ có tốc độ tối đa là 210km/h "
"Vậy thì biết làm thế nào?"
"Vậy nên tôi chẳng biết đâm đầu vào đâu nữa. Trí óc tôi vốn bận rộn sẵn với cuộc điều tra rồi, giờ tôi còn thức đêm để xem xét cân nhắc các loại xe nữa."
"Anh nhớ tất cả sao?"
"Tôi đã lập bảng thống kê thông tin. Khổ một nỗi là tôi đã ghi nhớ hết các bảng đó rồi, nhưng mọi chuyện trở nên không thể nào chịu nổi. Tôi bắt đầu nghĩ là lũ xe đó được thiết kế theo cách để tôi không thể mua chúng được."
"Nghi ngờ như thế chẳng phải hơi quá à?"
"Nghi ngờ không bao giờ là quá cả. Nghi ngờ, lúc nào cũng phải nghi ngờ. Như thế mới tìm ra sự thật. Chẳng phải các nhà khoa học vẫn nói thế sao?"
"Nói và làm thật."
"Vớ vẩn. Cả khoa học cũng lừa bịp nốt. Thử coi lại câu chuyện về phản ứng hạt nhân nhiệt độ thấp mà xem. Họ đã lừa chúng ta suốt hàng tháng trời, để rồi lộ ra sau đó chỉ là chuyện bịa mà thôi."
"Họ đã phát hiện ra."
"Ai? Lầu Năm Góc, có lẽ bởi họ muốn che giấu điều gì đó còn đáng xấu hổ hơn. Có lẽ đám người theo thuyết phản ứng hạt nhân ở nhiệt độ thấp có lý, và chính những kẻ nói họ nói dối thực ra mới là kẻ nói dối."
"Thôi thì Lầu Năm Góc và CIA còn được, chứ chẳng lẽ anh thực sự nghĩ tất cả các tờ tạp chí xe hơi nằm trong tay của cơ quan tình báo dán mác dân chủ được kiểm soát bởi những tay Do Thái nhà giàu muốn hại anh sao?" Tôi cố gắng kéo hắn trở về thực tế.
Hắn trả lời với nụ cười cay đắng. "Không phải thế sao? Đó là những kẻ có quan hệ với cả nền công nghiệp khổng lồ của Mỹ và Bảy Chị em công ty dầu mỏ lớn nhất thế giới. Chúng là kẻ đã ám sát Mattei[8] - tôi chẳng bận tâm chút nào tới vụ đó - ngoại trừ việc chúng cũng chính là những kẻ đã xử bắn ông tôi thông qua việc tài trợ cho lũ du kích. Anh có thấy là mọi thứ đều liên quan tới nhau không?"
Bấy giờ phục vụ bàn đã trải khăn ăn ra, ngầm cho chúng tôi hiểu rằng thời gian dành cho những ai chỉ uống hai ly rượu đã qua rồi.
Braggadocio thở dài: "Từng có thời chỉ uống hai ly là có thể lưu lại tới hai giờ đêm. Giờ ở đây cũng chỉ bận tâm tới khách hàng có tiền. Có khi ngày nào đó họ lại chẳng dựng sàn nhảy nhấp nháy ánh đèn chứ chẳng chơi. Mọi thứ ở chốn này còn rất thật, nhưng đã bốc mùi như thể tất cả đều giả rối. Họ lại còn bảo tôi là đã từ vài năm nay, chủ sở hữu cái quán ở trung tâm Milano này đều là người vùng Toscana. Tôi chẳng có gì chống lại dân vùng Toscana cả, hẳn họ cũng giỏi giang, nhưng tôi nhớ hồi còn bé, có lần ai đó nói về đứa con gái của người quen có cuộc hôn nhân bất hạnh, ông cậu tôi thốt lên: 'Cần phải dựng một bức tường ngăn ngay dưới Firenze’. Mẹ tôi vặn lại: 'Dưới Firenze á? Chếch lên phía Bắc, lên phía Bắc nữa đi!' "
Trong khi đợi người hầu bàn đem hóa đơn lại, Braggadocio thì thầm bảo tôi: "Anh không cho tôi vay ít tiền được à? Tôi sẽ trả lại trong vòng hai tháng."
"Tôi á? Tôi cũng rỗng túi khác gì anh."
"Ờ phải. Tôi không rõ Simei trả anh bao nhiêu, cũng chẳng có quyền hỏi. Cơ hôm nay anh bao nhỉ?"
Tôi quen Braggadocio như thế đó.
Chú Thích
[5] Cây cầu San Luis Rey (1927): cuốn tiểu thuyết thứ hai của nhà văn Mỹ Thornton Wilder, kề về một vài người có mối liên quan với nhau cùng thiệt mạng trong vụ sập cây cầu dây tại Peru. Một mục sư chứng kiến vụ tai nạn sau đó đã đi tìm hiểu tiểu sử các nạn nhân, nhằm trả lời cho câu hỏi tại sao mỗi người trong số họ lại phải chết. Tác phẩm được nhận giải văn học Pulitzer danh giá năm 1928.
[6]“Bagno” trong tiếng Ý nghĩa là “nhà tắm”.
[7]Jack the Ripper (Jack - kẻ phanh thây) là biệt danh của tên tội phạm bí ẩn đã giết hại và phanh thây năm phụ nữ trong khu Whitechapel tại London vào mùa thu năm 1888 (và có lẽ đã giết mười một người khác cho tới năm 1891). Danh tính của kẻ giết người hàng loạt này cho đến nay vẫn còn là điều bí ẩn.
[8] Enrico Mattei (1906-1962): chính trị gia, đồng thời là một doanh nhân quan trọng, người thành lập Tập đoàn dầu khí quốc gia Y Eni.