← Quay lại trang sách

Chương 7 Thứ Tư 15 tháng Tư, buổi chiều

Tôi có thể thấy Maia chán nản thế nào nên đi theo khi cô ra về. Rất tự nhiên, tôi khoác tay cô.

"Đừng phật lòng làm gì, Maia. Tôi đưa cô về nhà nhé. Ta có thể uống thứ gì đó trên đường về."

"Cảm ơn anh. Tôi ở phía kênh, dưới đó có nhiều quán lắm. Tôi biết một chỗ pha cocktail rất ngon - đồ uống yêu thích của tôi đấy."

Chúng tôi tới đường Ripa Ticinese. Đó là lần đầu tôi thấy các con kênh ở đây. Đương nhiên là tôi đã nghe nói về chúng, song tôi cứ ngỡ kênh rạch ở Milano thuộc loại kênh ngầm kia. Thực tế tôi có cảm giác như đang ở Amsterdam vậy. Maia khá tự hào nói rằng trước đây Milano quả giống như Amsterdam, với những con kênh chằng chịt tới tận trung tâm. Hẳn nó phải đẹp lắm, nên Stendhal mới thích thú đến vậy. Nhưng sau này vì lý do vệ sinh, nguôi ta cho lấp đi rất nhiều kênh. Chỉ phía này của thành phố mới còn lại vài con kênh, mà giờ nước cũng ô uế cả rồi, trong khi ngày trước người ta còn đem đồ ra giặt dọc kênh. Nếu rẽ vào ngõ hẻm, ta sẽ thấy rất nhiều ngôi nhà cổ, và vô số tòa chung cư cổ. Đó là những tòa nhà lớn, mỗi tòa gồm rất nhiều căn hộ có chung ban công với lan can bằng sắt, quây quanh các khu sân chơi ở giữa. Với tôi, chúng là hình ảnh điển hình của những năm năm mươi. Tôi đã từng đọc cụm từ này khi còn cộng tác biên tập bách khoa toàn thu, hay khi nhắc tới vở opera El nost Milan của Bertolazzi tại nhà hát Piccolo Teatro. Thật không tưởng tượng được là chúng vẫn còn tồn tại.

Maia phá lên cười: "Milano vẫn còn đầy những tòa chung cư kiểu cổ như thế, có điều là giờ chúng không dành cho người nghèo nữa. Đi nào, tôi sẽ chỉ anh xem." Cô dẫn tôi vào trong một khoảng sân lớn: "Toàn bộ mặt bằng đã được xây mới hoàn toàn. Giờ tầng một dành cho mấy cửa hàng đồ cổ (thực ra toàn là đồ mua đi bán lại nhưng ra vẻ cổ để nâng giá) và một vài phòng tranh của những họa sĩ mong được thành danh. Nói chung toàn đồ dành cho khách du lịch. Nhưng nếu nhìn lên cao, hai tầng phía trên vẫn giữ được như xưa."

Những tầng phía trên có lan can bằng sắt, và cửa mỗi căn hộ đều hướng ra ban công chung. Tôi hỏi liệu còn có ai phơi quần áo trên lan can không. Maia cười: "Đây có phải Napoli đâu kia chứ. Phần lớn những tòa nhà như thế này đều được tu sửa, nâng cấp hết cả rồi. Ngày trước cầu thang dẫn thẳng lên ban công, từ đó dẫn vào các nhà. Tít cuối cùng mới có một nhà tắm, chung cho cả tầng, đương nhiên là loại nhà tắm cổ ngày xưa, chứ không có bồn tắm hay vòi hoa sen gì hết. Giờ thì những tòa nhà này dành cho người giàu. Nhiều căn hộ còn có cả bồn tắm nóng lạnh mát xa tự động, sang trọng đắt tiền lắm. Nơi tôi sống rẻ hơn rất nhiều. Tôi ở trong một căn hộ hai buồng, tường nhà ngấm nước. Cũng may là họ đã đục lỗ cho bồn cầu và vòi hoa sen rồi. Nói gì thì nói, tôi vẫn thích ở khu ấy. Nhưng họ cũng sớm cho sửa lại toàn bộ khu nhà đó thôi, và tôi sẽ phải chuyển đi vì không thể trả tiền thuê nhà, trừ phi tờ Ngày mai ra càng sớm càng tốt, và họ tuyển tôi làm ổn định. Chính vì thế mà tôi chịu đựng tất cả những sỉ nhục này."

"Đừng dễ phật lòng thế, Maia. Đương nhiên là ở trong giai đoạn thử nghiệm này ta cần phải học xem cái gì viết được, cái gì không. Mà Simei cũng có trách nhiệm của mình, không phải chỉ với tờ báo, mà cả với chủ tòa soạn nữa. Có lẽ khi làm về những mối quan hệ tình cảm trong giới nghệ sĩ, cô muốn làm gì thì làm, nhưng ở đây thì khác, ta đang viết nhật báo kia mà."

"Chính vì vậy nên tôi cứ hy vọng có thể thoát khỏi những thứ lá cải như thế. Tôi muốn làm một nhà báo nghiêm túc kia. Nhưng có lẽ tôi chỉ là một kẻ thất bại. Tôi còn chưa tốt nghiệp đại học, tôi phải bỏ dở để giúp đỡ cha mẹ. Khi họ mất đi thì đã quá muộn để quay lại học tiếp rồi. Giờ tôi sống trong cảnh ổ chuột. Tôi sẽ chẳng bao giờ trở thành đặc phái viên báo chí, được cử đi... vùng Vịnh chẳng hạn. Việc của tôi là gì? Viết tử vi, lợi dụng những kẻ cả tin. Thế chẳng phải là thất bại hay sao?"

"Chúng ta vừa mới bắt đầu, khi nào đã lên bệ phóng rồi thì hẳn cô sẽ có nhiều cơ hội hơn. Cho tới giờ cô đã đưa ra nhiều ý tưởng rất hay, tôi thích chúng. Tôi nghĩ cả Simei cũng thích chúng."

Tôi có thể nhận thấy mình đang nói dối. Tôi nên nói rằng cô đang đi vào ngõ cụt, rằng cô sẽ chẳng bao giờ được cử đi làm tin ở vùng Vịnh, rằng có lẽ tốt hơn hết là thoát ra trước khi quá muộn. Nhưng tôi không thể khiến cô buồn hơn nữa. Thành ra tôi lại nói với cô về một viễn cảnh có thật, nhưng không phải về cô, mà là về chính mình.

Cũng bởi tôi đang sắp sửa thổ lộ tâm tình chẳng khác nào một nhà thơ, nên tôi tự động chuyển sang ngôi thân mật hơn.

"Em thử nhìn anh mà xem. Anh cũng chẳng có bằng cấp gì. Hơn nửa đời người lúc nào cũng chỉ có những công việc thời vụ, giờ trên năm mươi tuổi lại chuyển sang làm báo. Em có biết khi nào thì anh nhận ra mình là kẻ thất bại không? Từ khi nghĩ mình là một kẻ thất bại. Giá như không mất thời gian ngồi than vãn về điều đó, có lẽ ít ra anh cũng đã làm nên được điều gì rồi."

"Trên năm mươi? Trông anh không tới ngần ấy tuổi... ý em là anh..."

"Em cho anh khoảng bốn mươi chín thôi phải không?"

"Ồ không. Anh rất có phong độ, lại hài hước. Hài hước vốn là điểm cho thấy sự trẻ trung."

"Ấy, đó là điểm cho thấy sự thông thái thì có. Mà thông thái tức cho thấy độ cao tuổi."

"Không, anh cũng không tin vào điều mình đang nói mà. Hẳn là anh quyết định tham gia cuộc phiêu lưu này với lòng hoài nghi đầy... hứng khởi."

Đầy hứng khởi? Cô vừa có cái vẻ hứng khỏi, vừa có vẻ sầu não, và nhìn tôi (một nhà văn tồi sẽ nói thế nào nhỉ?) với cặp mắt nai ngơ ngác.

Cặp mắt nai? Thôi nào, chẳng qua là vừa đi vừa nói chuyện, ánh mắt cô ngước lên nhìn, bởi tôi cao hơn. Tất cả chỉ có thế thôi. Bất cứ người phụ nữ nào ngước lên nhìn bạn đều trông có vẻ như chú hươu Bambi cả.

Chúng tôi tới quán bar ưa thích của cô. Cô nhấp ly cocktail Bellini, còn tôi thấy rất thoải mái trước cốc whisky của mình. Tôi nhìn cô, trước một người đàn bà không phải là gái điếm, tôi thấy mình trẻ ra.

Có lẽ là tại chất cồn, nhưng bấy giờ tôi cảm thấy bị hối thúc muốn được tâm sự. Từ bao lâu rồi tôi không tâm sự với ai? Tôi kể với cô đã từng lấy vợ, nhưng bị vợ bỏ. Tôi kể rằng mình đã bị người đàn bà đó chinh phục bởi một lần, khi mới quen nhau, tôi đã làm việc gì đó rối tung lên, và để xin lỗi, tôi nói có lẽ mình ngu ngốc quá, và cô ta trả lời tôi rằng có ngu ngốc nàng vẫn yêu tôi. Những điều như thế khiến ta phát điên lên vì tình. Nhưng rồi có lẽ sau này cô ta nhận ra tôi ngu ngốc hơn mức có thể chịu đựng được, và thế là mọi chuyện chấm hết.

Maia cười ("Thật là một lời tỏ tình hay ho: anh có ngu ngốc em vẫn yêu anh!"), rồi kể với tôi rằng cho dù trẻ tuổi hơn, và chưa bao giờ nghĩ rằng mình ngu, cô cũng chỉ có toàn những mối tình bất hạnh, có lẽ bởi cô không chịu nổi sự ngu ngốc của kẻ khác, hay có lẽ bởi cô thấy tất cả những người bằng vai phải lứa với mình đều thiếu chín chắn. "Cứ như thể em thì chín chắn lắm ấy. Cho nên anh thấy đấy, em đã gần ba mươi rồi mà vẫn còn độc thân. Chúng ta chẳng bao giờ hài lòng với cái mình có, phải không."

Ba mươi? Vào thời của Balzac, phụ nữ ba mươi tuổi đã già và nhăn nheo cả rồi. Maia trông như mới chỉ hai mươi, ngoại trừ vài nếp nhăn mờ mờ quanh mắt, như thể cô đã khóc rất nhiều, hoặc nhạy cảm với ánh sáng nên hay nheo mắt khi ra nắng.

"Chẳng có gì thú vị hơn cuộc gặp gỡ vui vẻ giữa hai kẻ thất bại."

"Ngốc thế," cô khẽ nói, rồi xin lỗi vì đã hơi quá trơn.

Tôi đáp: "Không, phải cảm ơn em mới đúng. Không ai bảo anh ngốc một cách đáng yêu như thế."

Tôi đã đi quá đà rồi. May cô đã nhanh chóng thay đổi chủ đề.

"Họ muốn bắt chước trang trí theo kiểu quán Harry's Bar nổi tiếng, nhưng lại không biết sắp xếp họp lý các loại rượu mạnh. Anh cũng thấy đấy, giữa mấy chai whisky có một chai gin Gordon, trong khi Sapphire và Tanqueray lại nằm ở phía khác."

"Đâu kia?" tôi hỏi, mắt nhìn ra phía trước, chỉ thấy mấy chiếc bàn thôi.

"Không, ở trên quầy bar ấy chứ."

Tôi quay lưng lại. Phải, cô có lý. Nhưng làm sao cô lại nghĩ tôi có thể thấy cái cô trông thấy được kia chứ. Đó là một dấu hiệu cho điều mà sau này tôi nhận ra được, cũng một phần là nhờ gã Braggadocio đáng ghét đó. Vào thời điểm ấy tôi chẳng để ý, chỉ nhân cơ hội mà gọi thanh toán. Tôi nói với cô vài câu an ủi nữa, rồi đưa cô về tới cổng tòa nhà, từ đó có thể nhìn thoáng thấy một góc sân bên trong và một cửa hiệu làm đệm. Có vẻ như vẫn còn có người theo nghề làm đệm, cho dù các quảng cáo trên truyền hình chỉ nói tới đệm công nghiệp. Cô mỉm cười cảm ơn tôi, và đưa tay ra bắt. Bàn tay cô ấm áp đầy ân tình.

Tôi trở về nhà, đi dọc theo các con kênh của một Milano hiền hòa hơn rất nhiều cái thành phố Milano của Braggadocio. Tôi phải tìm hiểu kỹ hơn về cái thành phố đầy những điều bất ngờ này mới được.