← Quay lại trang sách

Chương 6 Thứ Tư 15 tháng Tư

Tôi nhớ có lần Cambria kể: "Tôi nghe đài nói về một vài nghiên cứu cho thấy ô nhiễm không khí đang có tác động tới kích thước dương vật của thế hệ trẻ. Theo tôi, vấn đề này chẳng những tác động tới các thằng con, mà ngay cả tới cha chúng nữa - những kẻ lúc nào cũng hãnh diện khoe khoang về kích thước cái cu thằng con mình. Tôi còn nhớ khi thằng con tôi sinh ra, lúc họ cho tôi vào thăm nó ỏ phòng trẻ sơ sinh trong bệnh viện, tôi đã thốt lên úi cha cái chim kìa, rồi còn đi khoe với tất cả đồng nghiệp nữa."

Simei nói: "Bọn trẻ lúc mới sinh ra đứa nào chẳng có bộ phận ấy to tướng, thành ra ông bố nào cũng khoe thế cả. Mà có lẽ anh cũng biết trong bệnh viện người ta hay nhầm thẻ sinh lắm, cho nên chắc gì nó đã là con anh (ấy, xin không dám mạo phạm gì tới bà nhà)."

Cambria phản đối: "Thế nhưng thông tin này có liên quan sát sườn tới các ông bố, bởi nó còn cho biết có thể có những ảnh hưởng xấu tới cơ quan sinh dục nam. Nếu ta truyền bá rộng rãi thông tin ô nhiễm môi trường không chỉ ảnh hưởng tới cá voi mà cả chim nữa (mong các ngài thứ lỗi cho cách nói này), thì hẳn ngay lập tức tất cả sẽ trở nên thân thiện với môi trường."

Simei bình phẩm: "Thú vị thật, nhưng ai bảo là chủ tòa soạn của chúng ta, hay những đối tác của ông ta quan tâm tới việc giảm ô nhiễm bầu khí quyển?"

"Nhưng gì thì gì cũng để đánh động, mà lại rất đúng đắn nữa chứ."

"Phải rồi, nhưng chúng ta không phải những kẻ chuyên đi đánh động, gây hoảng hốt. Đó là khủng bố. Anh muốn bàn về vấn đề ống dẫn dầu, dầu hỏa và ngành công nghiệp sắt thép của chúng ta? Đây có phải là tờ báo của đảng Môi trường đâu kia chứ! Độc giả của ta cần được thấy an tâm, chứ không phải bị dọa cho sợ."

Thế nhưng sau vài giây suy ngẫm, Simei nói thêm: "Đương nhiên là trừ phi những gì gây ảnh hưởng tới dương vật lại được sản xuất bởi một hãng dược phẩm nào đó mà vị bảo trợ của chúng ta sẵn sàng đánh động. Nhưng đó là những thứ phải thảo luận từng trường hợp một. Dù thế nào thì nếu các vị có ý tưởng gì thì cứ đưa ra, rồi tôi sẽ quyết định có làm hay không."

Ngày hôm sau Lucidi bước vào văn phòng với một bài báo có thể coi đã hoàn chỉnh. Chuyện là thế này: người quen của hắn nhận được một lá thư từ Dòng Toàn quyền Thánh Giovanni xứ Jerusalem - Hiệp sĩ xứ Malta - Tu sĩ giáo hội đại đồng Sainte-Trinité-de-Villedieu - Trụ sở chính của Vallette-Tu sĩ giáo hội Québec, mời ông ta nhận chức Hiệp sĩ Malta, chỉ với một khoản đóng góp hào phóng cho văn bằng, huy chương, mề đay các loại. Lucidi nảy ra ý định tìm hiểu công việc làm ăn của hội dòng hiệp sĩ này, và khám phá ra rất nhiều điều đặc biệt.

"Xin tất cả hãy chú ý lắng nghe. Tôi nắm trong tay một bản báo cáo của cảnh sát - đừng hỏi tôi làm thế nào mà mò ra đuợc nó - về một vài hội dòng giả mạo của Malta. Có tất cả là mười sáu hội: cần phải biết phân biệt chúng với Giáo binh đoàn tối cao của Thánh Giovanni xứ Jerusalem, xứ Rodi và Malta, có trụ sở tại Roma. Tất cả những hội còn lại đều có cái tên na ná như thế, chỉ khác biệt chút ít. Tất cả chúng đều biết lẫn nhau và tách nhập lẫn nhau. Năm 1908, một vài gã người Nga lập nên một hội, lấy trụ sở tại Hoa Kỳ, từ một vài năm nay nằm dưới sự chủ trì của Thái tử Điện hạ Hoàng gia Roberto Paternò Ayerbe Aragona, Công tuớc xứ Perpignano, người đứng đầu Hoàng gia xứ Aragona, người kế vị ngôi vua Aragona và Baleari, Giáo trưởng Hội Thánh Collare di San't Agata xứ Paternò và Vương miện Hoàng gia Baleari. Nhưng một người Đan Mạch đã tách khỏi hội này vào năm 1934, rồi lập nên một hội khác, phong Thái tử Pietro xứ Hy Lạp và Đan Mạch là đại pháp quan. Vào những năm sáu mươi, một kẻ đào ngũ phe Nga, Paul de Cranier de Cassagnac, đã lập một hội tại Pháp và chọn nhà bảo trợ là vị vua Pietro II của lugoslavia trước đây. Năm 1965, vị này cãi vã với Cassagnac và lập nên một hội khác tại New York, mà chính Thái tử Pietro xứ Hy Lạp và Đan Mạch là viện trưởng tối cao. Năm 1966, người có cái tên Robert Bassaraba von Brancovan Khimchiacvili được phong làm đại pháp quan, nhưng sau đó bị đuổi ra khỏi hội, bèn lập Hội Hiệp sĩ đại đồng Malta, mà thái tử Enrico III Costantino di Vigo Lascaris Aleramico Paleologo xứ Monlerrato được tôn làm Người bảo trợ đế quốc và hoàng gia. Vị thái tử này tự xưng là kẻ thừa kế ngôi báu xứ Byzantium, thái tử xứ Tessaglia, và sau đó lập nên một hội khác tại Malta. Tôi còn tìm thấy một hội bảo hộ Byzantium, do thái tử Carol của Romania lập ra, người tách khỏi hội giáo của Cassagnac; một viện tối cao mà Tonna-Barthet là quan khâm sai và thái tử Andrea xứ lugoslavia - vốn trước là giáo trưởng hội giáo do Pietro II lập ra - là viện trưởng tối cao của viện Nga (sau đó trở thành Viện Hoàng gia tối cao xứ Malta và châu Âu). Lại còn có cả một hội lập ra vào những năm bảy mươi bởi nam tước Choibert và Vittorio Busa - chính là người được biết tới với rất nhiều tước danh: Viktor Timur II, tổng giám mục chính thống vùng đô thị xứ Bialystok, Giáo trưởng cộng đồng Do Thái hải ngoại phương Tây và phương Đông, Tổng thống Cộng hòa Danzica và Cộng hòa dân chủ Bielorussia, Đại hãn vùng Tartaria và Mông Cổ. Rồi lại còn có Đại hý viện quốc tế được thành lập năm 1971 bởi Thái tử Điện hạ Hoàng gia Roberto Paternò đã được nhắc tới bên trên, cùng với hầu tước xứ Alaro. Viện này sau đó vào năm 1982 đổi thành Viện Bảo hộ nằm dưới sự quản lý của một Paternò khác: Leopardi Tornassini Paternò xứ Costantinopolis, người đứng đầu vương triều và là người thừa kế Đế chế La Mã phương Đông, kẻ kế vị chính thống được phong thánh của Giáo hội Công giáo chính thống Apostolic theo nghi thức Byzantium, nam tước xứ Monteaperto, bá tước sứ quân của ngôi báu xứ Ba Lan. Năm 1971, tại Malta lại xuất hiện Dòng chiến sĩ Toàn quyền Thánh Giovanni xứ Jerusalem (tôi bắt đầu từ chính hội giáo này), vốn tách khỏi hội giáo của Bassaraba, nằm dưới sự bảo trợ của Alessandro Licastro Grimaldi Lascaris Comneno Ventimiglia, công tuớc xứ La Chastre, thái tử vương quyền và hầu tước vùng Déols. Hiện giờ công tuớc Carlo Stivali xứ Flavigny là người chủ trì của hội. Vị này, khi Licastro chết, đã đi theo Piere Pasleau, người đã thừa hưởng mọi tước vị của Licastro, cộng với tước vị tổng giám mục tối cao Giáo hội Công giáo chính thống Bỉ, giáo trưởng Giáo binh đoàn tối cao dòng Đền Jerusalem và giáo chủ kiêm thầy tế của Hội Tam Điểm toàn năng theo nghi thức phương Đông cổ và nghi thức nguyên thủy Memphis và Misraim hợp nhất. À quên, mốt mới nhất đó là trở thành thành viên của Hội Sion, như một hậu duệ của Chúa Jesus, người kết hôn với Maria Maddalena và trở thành kẻ sáng lập ra triều đại Merovingian."

Simei ngừng ghi chép, phấn khởi nói: "Chỉ riêng mấy cái tên thôi đã đủ làm tin rồi. Thử nghĩ mà xem, Paul de Granier de Cassagnac, Licastro (đúng thế không nhỉ?) Grimaldi Lascaris Comneno Ventimiglia, Carlo Stivala xứ Plavigny..."

Lucidi hoan hỉ nhắc: "Robert Bassaraba von Brancovan Khimchiacvili."

Tôi nói thêm: "Tôi tin rằng nhiều độc giả của chúng ta cũng liên tục nhận được lời đề nghị tương tự như thế này, nên ta sẽ giúp họ tránh được những kẻ cơ hội."

Simei lưỡng lự một lát rồi nói cần cân nhắc thêm. Ngày hôm sau hẳn hắn đã tìm hiểu, bởi sau đó Simei nói với chúng tôi rằng ông chủ của chúng tôi mang tước hiệu Hiệp Sĩ chỉ huy của dòng Santa Maria xứ Bethlehem. "Hóa ra ngay cả dòng Santa Maria xứ Bethlehem cũng là một hội giả. Hội chính thống phải là dòng Thánh Santa Maria xứ Jerusalem, tức là Dòng huynh đệ Nhà Tơ-tông Thánh Maria tại Jerusalem. Điều này được ghi nhận trong Niên giám của giáo hoàng. Đương nhiên là với bao việc lộn xộn xảy ra tại Tòa thánh Vatican thì bây giờ tôi cũng chẳng tin vào cuốn sổ đó nữa. Nhưng có điều chắc chắn, ấy là tước Hiệp sĩ chỉ huy dòng Santa Maria xứ Bethlehem cũng chỉ quan trọng như tước thị trưởng một thành phố tưởng tượng bất kỳ nào thôi. Các ngài lại muốn cho đăng một bài báo khiến độc giả hồ nghi, thậm chí là giễu cợt tước hiệu của ông chủ tòa soạn của chúng ta hay sao? Thôi thì của ai người nấy hưởng. Tôi rất tiếc, Lucidi, nhưng chúng ta đành phải loại bài báo hay ho của anh ra."

Như thường lệ, Cambria hỏi một câu rất ngu ngốc: "Theo anh, chúng ta phải kiểm tra từng bài báo định đăng xem chủ tòa soạn có thích không hay sao?"

Simei trả lời: "Đương nhiên là thế rồi. Ông ta là cổ đông chính mà."

Tới lúc này, Maia lấy can đảm nói về một hướng điều tra mới. Chuyện là thế này: tại vùng Porta Ticinese, trong một khu vực đang ngày càng thu hút nhiều khách du lịch, có một quán pizza tên là Paglia & Fieno. Maia sống ở phía bên kia kênh, nên từ nhiều năm nay phải thường xuyên đi ngang qua đó. Nhìn qua cửa kính có thể thấy bên trong phải chứa được ít nhất một trăm người, thế mà từ nhiều năm nay cả nhà hàng rộng thênh thang này thường xuyên vắng tanh, ngoại trừ vài khách du lịch ngồi uống cà phê phía ngoài. Mà có phải là chốn bỏ hoang đâu. Một lần Maia tò mò vào trong. Ngoài cô ra, chỉ có một gia đình ít người ngồi cách đó khoảng hai mươi bàn. Maia gọi món mì ống đặc biệt của quán, một phần tư chai rượu vang và một cái bánh táo: tất cả đều ngon tuyệt, giá lại phải chăng, phục vụ bàn rất lịch sự. Bình thường ra, nếu ai đó quản lý một nhà hàng rộng như vậy, với nhân sự, đầu bếp cao cấp thế, mà lại chẳng có ai lui tới suốt nhiều năm, thì hẳn phải đóng cửa hay bán nó đi từ lâu rồi. Thế nhưng quán Paglia & Pieno vẫn tồn tại, mở tất cả các ngày trong tuần suốt mười năm nay, cả thảy ba nghìn sáu trăm năm mươi ngày tất cả.

Costanza nhận xét: "Hẳn có chuyện gì mờ ám đây."

Maia đáp: "Chẳng có gì khó hình dung cả. Lời giải thích rất đơn giản: hoặc nó được thần thánh nào đó phù trợ, hoặc nằm dưới sự bảo hộ của Mafia hay Camorra. Nó được mua bằng tiền bẩn, và giờ đã trở thành khoản đầu tư chính thống tồn tại sờ sờ giữa ban ngày. Các ngài hẳn sẽ nói khoản đầu tư dựng lên nhà hàng đã có rồi, giờ có thể cho đóng cửa, còn để nó tồn tại mà ngốn tiền làm gì. Ấy thế mà nó vẫn hoạt động. Sao lại thế?" vẫn là gã Cambria hỏi dốt: "Sao lại thế?"

Câu trả lời cho thấy cô nàng Maia cũng có bộ óc thông minh: "Hằng ngày nó phục vụ việc rửa số tiền bẩn đến liên tục. Chỉ cần có vài khách hàng mỗi tối thôi, nhưng đến cuối ngày anh đánh số hóa đơn như thể có cả trăm khách hàng vậy. Một khi đã kê khai số lượng tiền thu vào rồi, anh có thể gửi chúng tới nhà băng. Có khi để không gây chú ý tới số tiền mặt, bởi chẳng có ai trả bằng thẻ tín dụng cả, anh liền mở tài khoản tại vài chục ngân hàng. Với số tiền thu vào đã kê khai và do đó đã hợp thức hóa này rồi, anh trả tất cả những khoản thuế cần đóng, sau khi đã hào phóng trừ đi chi phí hoạt động này nọ (không khó để làm chứng từ thanh toán giả). Ai cũng biết rằng để rửa tiền có khi phải mất tới cả năm mươi phần trăm ấy chứ. Với cách này, anh sẽ mất ít hơn rất nhiều."

Palatino hỏi: "Làm sao để chứng minh được tất cả điều này?"

"Đơn giản thôi. Chỉ cần hai thanh tra thuế tới đó ăn tối, đóng giả một cặp vừa mới cưới chẳng hạn. Vừa ăn vừa nhìn xung quanh, họ chỉ thấy ngoài họ ra có mỗi vài khách lẻ nữa thôi. Hôm sau thanh tra thuế tới kiểm tra, thấy rằng hôm truớc nhà hàng kê cả trăm hóa đơn tất cả. Để xem họ trả lời thế nào."

Tôi nhận xét: "Cũng chẳng đơn giản đến thế đâu. Hai thanh tra thuế tới đó lúc tám giờ tối chẳng hạn. Cho dù có ăn bao nhiêu thì sau chín giờ cũng phải đi, nếu không sẽ gây nghi ngờ. Ai chứng minh đuợc là từ lúc đó tới nửa đêm không còn khách hàng nào nữa? Cho nên cần phải cho ít nhất là ba hay bốn cặp tới để có thể bao trọn cả buổi tối. Sáng hôm sau thanh tra tới thì sao? Mà họ vốn chăm chăm tìm ra ai không viết hóa đơn, chứ làm gì được với kẻ kê khai khống? Quán có thể nói là máy bị hỏng hóc gì đó, nên cứ in liên tiếp. Thế thì anh biết làm gì? Đi kiểm tra lần nữa? Chúng đâu có ngu, chúng đã nhận diện thanh tra thuế rồi, cho nên nếu có quay lại thì tối hôm đó chúng sẽ không đánh hóa đơn giả nữa. Nên hoặc là phải thanh tra liên tục, cử một nửa lực lượng thanh tra đi ăn pizza hằng tối thì may ra một năm sau sẽ khiến quán phải đóng cửa. Nhưng có lẽ chính những thanh tra sẽ ngán mà bỏ trước, bởi họ còn có khối việc khác phải làm."

Maia bực bội đáp: "Cái đó là việc của họ. Họ sẽ tìm ra cách nào đó hay ho để giải quyết. Ta chỉ chỉ ra vấn đề thôi."

Simei nhã nhặn nói: "Maia thân mến ơi, tôi sẽ cho cô biết điều gì sẽ xảy ra nếu như ta cho đăng bài phóng sự này. Trước hết ta khiến cảnh sát quay lưng lại với mình bởi đã chỉ trích họ không nhận biết được vụ lừa đảo. Đó là những kẻ biết cách trả thù, nếu không trực tiếp lên ta thì cũng là chủ tòa soạn. Mặt khác, như chính cô nói, ta lại chống lại thần thánh, hay Mafia, hay Camorra, hay một nhóm tội phạm nào khác. Thế cô nghĩ chúng để ta yên à? Thành ra đang yên đang lành ta lại ngồi ngoan ngoãn cho chúng mang bom tới tòa soạn sao? Cho nên cô biết tôi nói gì không? Độc giả của chúng ta sẽ hứng thú với ý tưởng được ăn ngon giá rẻ tại một địa điểm xứng với tiểu thuyết trinh thám mà đổ xô tới nhà hàng đó. Thành ra việc tốt đẹp duy nhất mà ta làm là khiến nó càng giàu thêm. Thế nên xin hãy quên chuyện này đi. Đừng bận tâm làm chi, cứ quay lại làm mục tử vi là được rồi."