Chương 9 Thứ Sáu 24 tháng Tư
Tuần đó công việc tiến triển chậm. Có vẻ như chẳng ai có hứng thú làm việc, kể cả Simei. Mặt khác, trong năm thử nghiệm đầu tiên này, tờ Ngày mai chỉ ra mười hai bản Số Không, chứ chưa phải là tờ nhật báo mỗi số một ngày. Tôi đọc bản nháp các bài viết đầu tiên, tìm ra một lối viết thống nhất, cố gắng loại bỏ những cụm từ quá cầu kỳ. Simei ủng hộ việc này: "Các anh chị biết đấy, chúng ta làm báo, chứ có phải viết văn đâu."
Costanza nói xen vào: "À mà mốt dùng điện thoại di động đang ngày càng phổ biến đấy nhé. Hôm qua người ngồi cạnh tôi trên tàu nói điện thoại suốt, kể lể về đủ loại chuyển khoản ngân hàng, thành ra tôi biết tất cả về hắn. Thiên hạ giờ điên thật đấy. Có lẽ cần phải viết một bài về văn minh điện thoại."
Simei đáp: "Cả cái nền công nghiệp điện thoại di động này chẳng tồn tại được bao lâu đâu. Trước hết là nó rất đắt, chỉ có vài người mua nổi. Rồi người ta sẽ khám phá ra rằng chẳng cần phải gọi cho tất cả mọi nơi mọi lúc. Ta sẽ mất đi cái thú trò chuyện riêng với nhau, trò chuyện trực tiếp mặt đối mặt ấy, và cuối tháng lại phải thêm một khoản thanh toán không thể kiểm soát nổi. Thế là cái mốt sẽ biến mất trong vòng một, hai năm là cùng. Cho tới giờ di động chỉ có ích cho mấy ông chồng đi bồ bịch, để có thể giữ quan hệ mà không cần dùng tới điện thoại ở nhà, hay có lẽ là cánh thợ sửa ống nước, để khách hàng có thể liên hệ kể cả khi đang ở ngoài đường. Chỉ thế thôi. Cho nên đối với phần lớn độc giả của chúng ta không có di động, thì bài báo chẳng có ý nghĩa gì, còn những ai có điện thoại cũng chẳng quan tâm, thậm chí còn có vẻ trưởng giả học làm sang."
Tôi nói thêm: "Đâu chỉ có thế. Như Rocketeller hay Agnelli, hay tổng thống Hoa Kỳ chẳng hạn, họ không cần tới di động vì đã có cả đội ngũ thư ký làm việc cho. Vậy nên người ta cũng sẽ sớm nhận ra là chỉ những kẻ bần cùng mới dùng chúng: những kẻ cần phải giữ liên lạc thường xuyên với ngân hàng để chắc chắn rằng mình không vung tay quá trán, hay giữ liên lạc với cấp trên - những người thường xuyên kiểm tra xem nhân viên làm gì. Và thế là điện thoại sẽ trở thành biểu tượng cho sự thất thế trong xã hội, và chẳng ai còn muốn chúng nữa."
Maia nói: "Tôi lại không chắc như thế đâu. Cũng giống như thời trang may sẵn, hay là việc kết hợp áo thun, quần jean và khăn quàng: từ những phụ nữ thuộc giới thượng lưu tới người thuộc tầng lớp lao động đều có thể mặc chúng dễ dàng; chỉ có điều dạng thứ hai không biết kết hợp chúng ra sao, hoặc nghĩ quần jean là phải mới cứng, chứ không phải những chiếc bị xơ đầu gối, và kết hợp chúng với giày cao gót. Thế là có thể nhận thấy ngay đó không phải người thuộc tầng lóp trên, biết được các xu hướng thời trang. Nhưng ai không biết thì cứ vui vẻ mà kết hợp sai trang phục."
"Và nếu như bà ta đọc tờ Ngày mai, thì hóa ra chính ta là người nói cho bà ta biết mình không phải một quý bà. Và rằng chồng bà ta hoặc là một kẻ bần cùng, hoặc là một kẻ đi ngoại tình. Mà biết đâu ông chủ Vimercate lại chẳng đang dòm ngó các công ty điện thoại di động, thế mà ta lại cung cấp cho ông ta một dịch vụ tốt đẹp gớm. Tóm lại là chủ đề hoặc không quan trọng, hoặc quá nóng để có thể xử lý được, nên bỏ đi. Giống như vụ máy tính vậy. Ông chủ cho mỗi người trong đội chúng ta một cái, vì chúng hữu hiệu để viết, hay lưu giữ thông tin, dù tôi thuộc loại người cổ điển, chẳng biết phải dùng nó thế nào. Phần lớn độc giả của chúng ta cũng như tôi thôi, họ chẳng cần nó vì không có thông tin mà lưu trữ. Như thế cuối cùng ta chỉ khiến cho độc giả của mình cảm thấy thấp kém mà thôi."
Gạt chủ đề đồ điện tử sang một bên, chúng tôi bắt đầu đọc lại một bài báo đã được sửa kỹ lưỡng. Braggadocio hỏi: "Cơn giận dữ của Moskva? Lúc nào cũng dùng những mẫu biểu đạt như vậy chẳng sáo quá hay sao? Con giận dữ của tổng thống, con giận dữ của siêu bão, vân vân và vân vân."
Tôi đáp: "Không, chúng ta cung cấp cho độc giả đúng những gì mà họ trông đợi. Họ đã quen với những mẫu biểu đạt được báo chí dùng hằng ngày như thế này rồi. Độc giả chỉ có thể hiểu được điều gì đang diễn ra nếu đọc: chúng ta đang ở trong 'tình huống không có lối thoát', phải 'trèo đèo lội suối', chính phủ buộc phải 'thắt lưng buộc bụng', hay 'tình huống cấp bách', ta đang ở thế 'nước ngập tới cổ', hay 'ở trong tâm bão'. Các chính trị gia không chỉ nói, mà 'yêu cầu và nhấn mạnh'; và cảnh sát thì 'xử lý một cách chuyên nghiệp'..."
Maia ngắt lời: "Có thật chúng ta phải nhắc tới 'xử lý một cách chuyên nghiệp' không? Ai cũng chuyên nghiệp hết. Ông thợ cả xây xong một bức tường mà nó không đổ tức là đã làm việc thật chuyên nghiệp. Nhưng đó phải là điều bình thường chứ? Ta chỉ nên nhắc tới khi một gã thợ tồi xây tường mà tường lại sập. Khi tôi gọi thợ tới sửa đường ống nước bị tắc, sửa xong đương nhiên tôi phải lấy làm hài lòng mà cảm tạ anh ta, nhưng tôi không thể nói là 'anh đã làm việc thật chuyên nghiệp' được. Không ai nghĩ anh ta sẽ xử sự như nhân vật Joe Piper láu cá trong truyện Chú chuột Mickey. Việc nhấn mạnh những trường hợp đầy tính chuyên nghiệp như thể họ đã làm cái gì đặc biệt lắm, khiến ta có cảm giác thông thưòng những người khác chỉ toàn làm vớ làm vẩn."
Tôi nói tiếp: "Chính thế. Chính bởi độc giả nghĩ rằng thông thường người ta toàn làm vớ làm vẩn, cho nên cần phải thêm cụm 'rất chuyên nghiệp' vào, chẳng qua chỉ để nói 'mọi thứ đều ổn cả' mà thôi. Cảnh sát tóm được lũ trộm chó ư? Họ đã làm việc rất chuyên nghiệp."
"Cũng giống như nói 'Giáo hoàng Joan XXIII tốt lành', như thế chẳng ám chỉ các giáo hoàng trước đó là xấu hay sao."
"Có khi người ta nghĩ thế thật, nếu không đã chẳng gọi ông ta như thế. Đã có ai xem ảnh Giáo hoàng Pio XII chưa? Trong xê ri phim 007, hẳn ông ta sẽ được giao đóng vai kẻ đứng đầu hội Bóng ma spectre."
"Nhưng chính báo chí đã gọi Giáo hoàng Joan XXIII là 'giáo hoàng tốt lành', rồi người ta bắt chước gọi theo."
"Đúng vậy. Báo chí dạy người ta nghĩ gì," Simei xen vào.
"Nhưng báo chí là người theo xu hướng, hay tạo ra xu hướng?"
"Cả hai, cô Fresia ạ. Người dân ban đầu không biết có những xu hướng nào, nên ta nói ra, và thế là họ nhận thấy hóa ra mình có chúng. Thôi, không triết lý gì thêm nữa, hãy làm việc thật chuyên nghiệp đi. Colonna, xin mời anh."
Tôi liền tiếp tục: "Tốt lắm, tôi xin được liệt kê hết danh sách: được lợi cả đôi đường; hội nghị bàn tròn; xông vào lĩnh vực nào đó; nằm trong tầm ngắm của cơ quan điều tra; thoát khỏi đường hầm; chuyện đã tới hồi kết; không gì lay chuyển được; giữ vững tinh thần cảnh giác cao độ; cỏ dại khó nhổ; gió đã xoay chiều; đi đúng đường lối quần chúng; tụt dốc không phanh; đưa ra lời cảnh cáo mạnh mẽ; để mắt tới thị trường; vân vân và vân vân. A mà nhất là xin lỗi: Nhà thờ Anh chính thức lên tiếng xin lỗi Darwin; Bang Virginia chính thức lên tiếng xin lỗi vì nạn nô lệ; chính phủ Canada chính thức lên tiếng xin lỗi cộng đồng người bản địa Eskimo; công ty điện lực chính thức lên tiếng xin lỗi vì ngắt điện. Ta không được nói Nhà thờ đã xem xét lại chủ kiến của mình về vòng quay của trái đất, mà chỉ được nói rằng giáo hoàng chính thức lên tiếng xin lỗi Galileo."
Maia vỗ tay nói: "Đúng vậy, tôi chưa bao giờ hiểu được cái mốt nói lời chính thức xin lỗi là tín hiệu của sự nhún nhường, hay trơ trẽn nữa: anh làm cái gì đó lẽ ra không được làm, rồi lên tiếng chính thức xin lỗi, thế là phủi tay coi như xong. Nó khiến tôi nhớ tới câu chuyện cười: một tay cao bồi đang phi trên thảo nguyên thì nghe tiếng nói từ trên trời bảo hãy tới Texas, tới Texas rồi tiếng nói đó bảo hãy tới quán rượu đi, và đặt hết tiền vào bàn cò quay Roulette, chọn số năm. Nghe theo tiếng nói, gã cao bồi đặt hết tiền vào số năm, nhưng vòng quay lại ra số mười tám, và giọng nói thì thầm: Tệ quá, xin lỗi nhé, chúng ta thua mất rồi."
Chúng tôi cùng phá lên cười, rồi chuyển sang việc khác. Chúng tôi đọc rồi thảo luận bài báo của Lucidi về các sự kiện diễn ra tại tổng công ty Pio Albergo Trivulzio, việc này cũng mất cả nửa tiếng. Sau đó Simei đột nhiên hào phóng gọi quán bar ở tầng dưới đem cà phê lên cho tất cả. Maia ngồi giữa tôi và Braggadocio, thì thào: "Tôi thì sẽ làm ngược lại. Ý tôi là nếu tờ báo mà nhắm tới độc giả có trình độ hơn một chút, thì tôi hẳn sẽ muốn làm chuyên mục nói ngược lại."
Braggadocio nghi hoặc hỏi: "Nói ngược lại những gì Lucidi viết?"
"Ô không. Anh đang nghĩ gì vậy? Ý tôi là nói những điều trái với công thức rập khuôn máy móc."
"Ta đã nói về điều này cả nửa tiếng trước rồi kia mà."
"Phải, nhưng tôi vẫn tiếp tục nghĩ về nó."
"Chúng tôi thì không." Braggadocio đáp cụt lủn.
Maia không có vẻ phật lòng trước lời phản đối và nhìn như thể chúng tôi là một lũ đãng trí vậy: "Ý tôi là nói ngược lại với những cách nói máy móc như 'tâm bão'. Ví dụ như 'Venezia là Amsterdam phương Nam' chứ không nói 'Amsterdam là Venezia phương Bắc'; hay 'trí tưởng tượng vượt quá thực tế'; hay 'xin phép cho tôi được nói vòng'; 'xin đừng có tự nhiên như ở nhà'; 'khôn chết, dại sống'; 'Paris thì xấu nhưng người Paris thì lịch thiệp'... kiểu như vậy."
"Phải, phải, và cây nấm đã bị cả một gia đình đầu độc. Cô lôi đâu ra những thứ vớ vẩn đầu đuôi lộn ngược như vậy?" Braggadocio hỏi.
"Từ một cuốn sách ra mấy tháng trước. Thôi, tôi xin lỗi, đương nhiên là chúng không phù họp với tờ Ngày mai. Tôi chẳng bao giờ nghĩ ra cái gì phù họp với nó cả. Tốt hơn hết là về nhà."
Một lúc sau Braggadocio thì thào bảo tôi: "Anh đi với tôi nhé. Tôi phải kể với anh một chuyện, không thì đầu tôi nổ tung ra mất."
Nửa tiếng sau đó chúng tôi lại đi về phía quán Moriggi, nhưng dọc đường đi Braggadocio không đề cập gì tới chuyện muốn nói. Thay vào đó, hắn bảo: "Hẳn anh phải nhận ra Maia có vấn đề gì rồi chứ hả. Cô ta bị tự kỷ."
"Tự kỷ? Những người tự kỷ thường khép mình, không trò chuyện với ai chứ. Sao anh lại bảo cô ấy tự kỷ?"
"Tôi đã đọc một thí nghiệm liên quan tới những dấu hiệu ban đầu của chứng tự kỷ. Đại loại thế này, nếu anh, tôi và Pierino - một đứa trẻ tự kỷ - ở trong cùng một phòng. Anh bảo tôi phải giấu một quả bóng nhỏ đâu đó rồi ra khỏi phòng. Tôi thả nó vào một cái bình. Sau đó tôi ra ngoài, còn anh quay lại trong phòng, lôi quả bóng ra khỏi cái bình rồi nhét vào trong ngăn kéo bàn. Rồi sau đó anh hỏi Pierino: khi chú Braggadocio vào phòng, chú ấy sẽ tìm quả bóng ở đâu? Pierino sẽ trả lời: ở trong ngăn kéo ạ. Vậy là sao? Pierino không nghĩ là trong đầu tôi, quả bóng vẫn còn ở trong bình, bởi trong đầu nó quả bóng đã ở ngăn kéo rồi mà. Pierino không biết đặt mình vào vị trí của người khác. Nó nghĩ rằng cái đầu nó đang nghĩ gì thì tất cả mọi người xung quanh cũng nghĩ thế."
"Nhưng đó có phải là chứng tự kỷ đâu."
"Tôi không biết, có lẽ dạng nhẹ, hoặc giai đoạn đầu, giống như tính dễ tự ái là giai đoạn đầu của chứng hoang tưởng. Nhưng Maia đúng là thế đó, cô ta thiếu khả năng đặt mình vào vị trí người khác, cứ nghĩ tất cả nghĩ cái cô ta nghĩ. Anh không thấy lúc truớc cô ta nói về một việc ta đã bàn cả tiếng đồng hồ trước đó. Cô ta vẫn tiếp tục nghĩ về nó, hoặc đột nhiên nghĩ tới nó, mà không hề nghĩ rằng chúng ta đâu còn nghĩ về nó nữa. Tôi nói cho anh nghe, cô ta điên thật đấy. Thế mà lúc nào cô ta nói gì là anh nhìn cô ta như thể đang nghe lời sấm truyền vậy..."
Tôi thấy hắn toàn nói điều vớ vẩn nên muốn cắt luôn: "Thì những kẻ thốt ra lời sấm truyền đều điên cả mà. Có lẽ cô ta là hậu duệ của nữ tiên tri huyền thoại ở Cumes."
Chúng tôi ở trong quán ăn khi Braggadocio nói vào tâm điểm:
"Tôi có một tin sẽ khiến tờ Ngày mai bán được cả trăm ngàn bản, nếu như nó đã được xuất bản thực sự rồi. Nói thật là tôi muốn vài lời khuyên. Tôi nên bán cái mình có trong tay cho Simei, hay cho một tờ báo nào khác - một tờ báo thực sự ấy? Nó chẳng khác gì quả bom cả, và có liên quan tới Mussolini."
"Tôi thấy chủ đề này chẳng có vẻ gì nóng hổi đáng quan tâm đến thế cả."
"Đáng quan tâm ở chỗ nó chỉ ra kẻ nào đó cho tới giờ đã lừa chúng ta, lừa rất nhiều người, phải nói là lừa tất cả."
"Nghĩa là sao?"
"Chuyện dài lắm, giờ tôi mới chỉ giả định thôi. Không có xe, tôi không thể tới nơi cần tới để phỏng vấn các nhân chứng sống sót được. Tuy nhiên ta có thể bắt đầu bằng những dữ kiện mà ai cũng biết, để cho anh thấy giả thiết của tôi hoàn toàn hợp lý."
Tất cả những gì Braggadoccio nói sau đó chỉ là tóm tắt lại cho tôi những gì mà theo lời hắn là câu chuyện được phần đông chấp nhận, nhưng hắn nghĩ nó quá đơn giản để có thể coi là thật.
Tóm lại là quân Đồng minh đã bẻ gãy Phòng tuyến Gothic - tuyến phòng thủ của Đức tại mặt trận Ý - và hướng về phía Bắc tới Milano. Cuộc chiến coi như đã kết thúc. Ngày 18 tháng Tư năm 1945, Mussolini rời hồ Garda, tới Milano, nơi hắn trú ẩn trong Tổng nha Cảnh sát. Hắn thảo luận thêm một lần nữa với các bộ trưởng của mình về khả năng kháng cự tại pháo đài Valtellina, nhưng cũng đã chuẩn bị cho kết cục rồi. Hai ngày sau đó Mussolini trả lời cuộc phỏng vấn cuối cùng của đời mình, với một trong những kẻ trung thành cuối cùng sót lại - Gaetano Cabella, chủ tờ báo phát xít cuối cùng, tờ Nhân dân Alessandria. Ngày 22, Mussolini có bài phát biểu chính thức cuối cùng với đám sĩ quan thuộc Quân đội Cộng hòa, nói rằng: "Nếu tổ quốc đã mất, thì thiết gì sống nữa."
Những ngày sau đó quân Đồng minh tiến vào Parma, Genova được giải phóng và cuối cùng, vào ngày 25 tháng Tư, công nhân chiếm đóng các nhà máy tại quận Sesto San Giovanni. Chiều hôm đó, Mussolini cùng với người của mình, gồm tướng Graziani, được Hồng y giáo chủ Schuster tiếp kiến tại cung điện của tổng giám mục, nơi hắn gặp đoàn đại biểu thuộc Hội đồng Giải phóng Dân tộc. Hội đồng Giải phóng yêu cầu đầu hàng vô điều kiện, cảnh báo rằng ngay cả quân Đức cũng đang phải đàm phán với họ. Phe phát xít không chấp nhận đầu hàng nhục nhã như thế (những kẻ cuối cùng bao giờ cũng là kẻ tuyệt vọng liều mạng nhất), đòi thời gian để suy nghĩ và rời đi. Người ta còn nói là Sandro Pertini[12] tới họp muộn và gặp Mussolini trên cầu thang, nhưng có lẽ đó chỉ là chuyện phiếm thôi.
Tối hôm đó các thủ lĩnh phe Kháng chiến không thể đợi đối phương nghĩ thêm được nữa, liền phát lệnh tổng tấn công. Đó chính là thời điểm Mussolini chạy về phía Como với sự hộ tống của một nhóm những kẻ trung thành.
Vợ hắn là Rachele và hai con Romano và Anna Maria cũng tới Como, nhưng thật khó hiểu là Mussolini lại từ chối gặp họ.
Braggadocio hỏi: "Tại sao? Vì hắn đang đợi người tình của mình, Claretta Petacci? Nhưng ả còn chưa đến, vậy thì mất gì mà không gặp mặt gia đình mười phút? Anh hãy nhớ điểm này - đó chính là nơi bắt nguồn những nghi ngờ của tôi."
Mussolini coi Como là trụ sở an toàn, bởi hắn cho rằng chỉ có ít du kích quanh vùng này, và hắn có thể ẩn nấp chờ cho tới khi quân Đồng minh kéo đến. Quả thật, vấn đề thực sự của Mussolini là làm sao để không rơi vào tay du kích và có thể đầu hàng quân Đồng minh, những người hẳn sẽ tiến hành xét xử chính thức, rồi muốn ra sao thì ra. Hoặc có lẽ hắn nghĩ từ Como có thể tới pháo đài Valtellina, nơi những kẻ trung thành như Alessandro Pavolini đã cam kết có thể tổ chức phòng ngự vững vàng kể cả với vài ngàn quân.
Thế nhưng hắn lại rời Como, khiến tôi phải gánh cục nợ là phải chạy loanh quanh chỗ này chỗ nọ lần theo dấu vết của hắn và đội tùy tùng xấu số, mà vẫn không lần ra được điều gì rõ ràng. Nhưng xét mục đích điều tra của tôi thì có lẽ việc biết được chính xác họ đã đi đâu về đâu cũng không quan trọng. Có thể nói họ hướng về Menaggio, có lẽ để thử vượt biên sang Thụy Sĩ, sau đó cả nhóm tới Cardano. Tại đó Claretta Petacci tới nhập nhóm, rồi có vẻ như một đội hộ tống Đức nhận được lệnh của Hitler đi đón bạn của hắn về Đức (có lẽ một phi cơ đã đợi Mussolini tại Chiavenna để chở hắn về Bavaria). Ai đó đoán chắc không thể an toàn tới được Chiavenna, nên cả nhóm quay trở lại Menaggio, tới đêm thì Pavolini đến. Hắn được trông đợi sẽ đem lực lượng quân đội tới hỗ trợ, song lại chỉ mang tới có bảy, tám người thuộc Đội vệ binh Quốc gia Cộng hòa. Vị quốc trưởng thấy mình bị dồn vào thế cùng rồi, thay vì kháng cự tại Valtellini, lựa chọn duy nhất còn lại là cùng toàn bộ các thủ lĩnh trong đảng Phát xít và gia đình họ hợp nhất với một đội quân Đức đang tìm cách vượt qua dãy núi Alpes. Vậy là ta có hai mươi tám xe tải chở lính, với súng máy trang bị cho mỗi xe, đội quân Ý bao gồm một xe bọc thép và khoảng hơn chục xe dân sự. Nhưng tại Musso, ngay trước Dongo, đoàn quân chạm trán với phân đội Puecher của lữ đoàn Garibaldi 52. Chỉ có vài người thôi, chỉ huy là Pedro - tên hiệu của Pier Luigi Bellini delle Stelle, và chính ủy là Urbano Lazzaro, còn gọi là Bill. Pedro là một người bốc đồng. Ông ta bắt đầu bốc phét, khiến quân Đức tưởng quanh quả núi có rất nhiều toán du kích đang ẩn náu, dọa sẽ dùng pháo cối nã vào cả đoàn - thực tế thì quân Đức mới nắm trong tay pháo cối. Pedro nhận thấy dù chỉ huy Đức vẫn có ý định chống cự, lính của hắn đã hoảng lắm rồi, tất cả bọn chúng chỉ muốn thoát thân về nhà thôi, thế là Pedro lại càng lên giọng hùng hổ. Tóm lại là sau khi nắn gân, rồi dàn xếp này nọ (tôi sẽ không kể lại cho anh đỡ mệt), Pedro đã thuyết phục được quân Đức không chỉ đầu hàng, mà còn bỏ lại quân Ý mà chúng mang kéo theo ở phía sau. Chỉ như thế quân Đức mới đuợc đi tiếp tới Dongo, ở đó chúng sẽ buộc phải bị khám xét tổng thể. Kết cục là quân Đức đã phản lại ngay đồng minh của mình, nhưng ai chẳng muốn được giữ mạng."
Pedro đã yêu cầu toàn bộ người Ý phải được giao cho toán quân của ông ta, không chỉ bởi Pedro chắc chắn rằng đó là những thủ lĩnh phát xít, mà còn bởi có tin đồn chính Mussolini cũng nằm trong số đó. Pedro còn chưa rõ trắng đen thế nào, ông ta tiến lại thương thảo với người cầm đầu ngồi trong chiếc xe bọc thép. Đó là Prancesco Barracu, phó Tổng thư ký (của Cộng hòa Xã hội Ý giờ đã sụp đổ), vốn là một cựu binh từng bị thương ở Ethiopia và thường hay khoe khoang về huân chương chiến công của mình, lại biết gây ấn tượng tốt với Pedro. Barracu nói muốn tới Trieste, tham gia giải cứu thành phố này khỏi quân Nam Tư xâm lăng. Pedro lịch sự nói đó quả là ý tưởng điên rồ, rằng hắn sẽ chẳng thể nào tới được Trieste đâu, và nếu có tới được đó thì hắn sẽ thấy một mình phải chống lại đội quân hùng mạnh của Tito. Thế là Barracu yêu cầu được quay đầu trở lại để nhập vào đoàn của Graziani (Chúa mới biết được ở chốn nào). Cuối cùng thì Pedro (sau khi đã kiểm tra kỹ lưỡng xe bọc thép mà không thấy Mussolini) đã chấp thuận cho chúng quay đầu, bởi ông ta không muốn xung đột nổ ra, có thể sẽ kéo quân Đức quay trở lại. Nhưng ông ta cũng ra lệnh cho người của mình theo dõi sát sao xem chiếc xe bọc thép đó có quay đầu ngược trở lại thực sự hay không, chỉ cần nó tiến lên hai mét thôi là sẵn sàng cho nổ súng. Rồi thế nào? Không rõ là chiếc xe bọc thép đã tiến lên và nổ súng trước, hay nó chỉ đang quay đầu và quân du kích căng thẳng quá mà nổ súng, ai biết được mọi chuyện lúc đó thực sự diễn ra thế nào. Nhưng rốt cuộc xảy ra cuộc đọ súng, hai phát xít chết, hai du kích bị thương. Toàn bộ người ngồi trong xe bọc thép lẫn trong những chiếc xe phía sau đều bị bắt. Trong số họ có cả Pavolini, kẻ cố tìm cách thoát thân bằng cách nhảy xuống hồ, nhưng bị tóm lại và nhập cùng những người khác, ướt như chuột lột.
Vào lúc đó Pedro nhận được tin của Bill từ Dongo. Trong lúc họ đang lùng sục các xe tải của đội quân Đức, Bill được một du kích tên là Giuseppe Negri tới thông báo "Bắt được cá lớn". Theo anh ta, tên lính có vẻ ngoài kỳ lạ với mũ bảo hiểm, kính chống nắng và áo khoác cổ cao lên tới tận cằm kia chẳng ai khác chính là Mussolini. Bill tới kiểm tra, tên lính giả bộ phớt lờ, nhưng cuối cùng cũng bị lộ mặt: đó quả thật là quốc trưởng. Bill choáng váng, cố gắng tìm câu gì đó phù hợp với thời điểm lịch sử này rồi nói: "Nhân danh nhân dân Ý, tôi bắt ông." Rồi Bill giải Mussolini tới tòa thị chính.
Trong lúc đó tại Musso, một trong những chiếc xe của đoàn Ý chở hai phụ nữ, hai trẻ em và một người đàn ông tự xưng là lãnh sự Tây Ban Nha đang có cuộc gặp quan trọng tại Thụy Sĩ với một đặc vụ Anh không được nêu tên. Nhưng giấy tờ của hắn có vẻ là giả, nên bị bắt, dù to mồm chống đối.
Pedro và quân của mình đang làm nên lịch sử, nhưng ban đầu dường như chính họ cũng không nhận ra điều ấy. Mối bận tâm duy nhất của họ lúc bấy giờ là giữ vững an ninh trật tự, tránh manh động giết người, đảm bảo rằng các tù nhân không bị chạm tới dù một sợi tóc và được giao lại cho chính phủ mới của Ý ngay khi nó được lập nên. Chiều 27 tháng Tư, Pedro gọi được điện báo tin về vụ bắt giữ tới Milano, và thế là Hội đồng Giải phóng Dân tộc nhập cuộc. Hội đồng này vừa nhận đuợc điện tín từ phía quân Đồng minh yêu cầu giao nộp quốc trưởng và toàn bộ thành viên chính phủ Cộng hòa Xã hội Ý, theo như điều khoản đình chiến ký năm 1943 giữa Badoglio và Eisenhower ("Benito Mussolini và các đồng minh phát xít chủ chốt của ông ta... những người đang, hoặc sẽ ở trong lãnh thổ thuộc quyền kiểm soát của Bộ tư lệnh quân sự đồng minh, hay của Chính phủ Ý, sẽ ngay lập tức bị bắt giữ và giao cho quân đội Liên Hiệp Quốc.") Người ta nói rằng một phi cơ đã sẵn sàng hạ cánh xuống sân bay Bresso để đón quốc trưởng. Hội đồng Giải phóng Dân tộc đinh ninh rằng nếu vào tay quân Đồng minh thì Mussolini sẽ thoát chết, có lẽ sẽ bị giam tại pháo đài nào đó trong vài năm, rồi lại thoát ra thôi. Luigi Longo (là đại diện của phe cộng sản trong hội đồng đó) yêu cầu Mussolini phải bị xử ngay lập tức một cách chóng vánh nhất, không cần phải đưa ra xét xử hay được nói lời cuối làm cái gì. Phần lớn thành viên trong hội đồng cũng thấy rằng đất nước này cần có ngay một biểu tượng, một biểu tượng cụ thể cho thấy hai mươi năm phát xít đã thực sự chấm dứt: xác chết của quốc trưởng. Người ta lo sợ không chỉ việc quân Đồng minh có được Mussolini, mà rằng nếu số phận của Mussolini không rõ ràng, hình ảnh của hắn sẽ mãi lưu lại, một ám ảnh không hình hài, giống như huyền thoại về Federico Barbarossa ẩn trong hang nhưng sẵn sàng thổi cảm hứng cho bất kỳ ý nghĩ muốn quay trở lại quá khứ nào.
"Và anh sẽ thấy ngay là những người ở Milano đó có lý hay không... Không phải ai cũng cùng chung quan điểm ấy: trong số các thành viên của Hội đồng Giải phóng, tướng Cadorna là người muốn chiều theo yêu cầu của quân Đồng minh, nhưng ông ta chỉ thuộc số ít thôi. Hội đồng quyết định cử một đội tới Como để xử tử Mussolini. Theo như những gì người ta vẫn nghe kể lại thì đội tuần tra do đại tá Valerio - một cộng sản bảo thủ, và ủy viên chính trị Aldo Lampredi dẫn đầu.
Tôi sẽ không khiến anh phải mệt tai với vô số các giả thiết khác nhau. Ví như kẻ được giao nhiệm vụ này không phải Valerio, mà là ai đó khác quan trọng hơn ông ta rất nhiều. Thậm chí người ta còn đồn thổi kẻ thực hiện vụ hành quyết thực sự là người con của Matteotti[13], hay người bóp cò súng là du kích Lampredi - người thực sự đứng sau vụ xử này. Vân vân và vân vân. Nhưng ta hãy chấp nhận cái được tiết lộ vào năm 1947, rằng Valerio là tên hiệu được Walter Audisio dùng trong cuộc chiến, người sau này trở thành anh hùng cộng sản trong Quốc hội. Với tôi thì có phải là Valerio hay ai khác cũng không ảnh hưởng nhiều lắm tới sự kiện chính, nên ta cứ dùng cái tên Valerio này đi. Valerio cùng một nhóm người của mình tiến đến Dongo. Trong lúc ấy, Pedro không hay biết gì về việc Valerio sắp tới, liền quyết định đem quốc trưởng đi giấu vì sợ các nhóm phát xít còn nằm vùng có thể tìm cách giải thoát hắn ta. Để chỗ ẩn giấu tù nhân không bị lộ, ông ta quyết định bí mật chuyển tù nhân tới phòng giam của cảnh sát tài chính tại Germasino, nhưng cũng lường trước là tin này sẽ lan truyền trong nội bộ. Dự định của ông ta là đợi tới đêm để chuyển quốc trưởng tới một địa điểm khác phía Como, một nơi chỉ rất ít người biết tới."
Tại Germasino, Pedro có có hội trao đổi vài lời với tù nhân, Mussolini xin Pedro hãy gửi lời chào tới người phụ nữ ở trong xe cùng lãnh sự Tây Ban Nha, rồi sau khi lưỡng lự một lúc, đã thú nhận rằng người phụ nữ đó chẳng phải ai khác chính là người tình của mình - Claretta Petacci. Pedro liền tới gặp Petacci, người ban đầu giả bộ mình là ai đó khác, sau đó buông xuôi kể lể về cuộc đời bên cạnh quốc trưởng của mình và xin nhận được ơn phước cuối cùng là được gặp lại tình nhân. Pedro bối rối và động lòng trước câu chuyện này nên đã tham khảo ý kiến người của mình và cuối cùng đồng ý. Thế là Petacci tham gia vào cuộc di chuyển ban đêm cùng Mussolini tới địa điểm thứ hai, nhưng đoàn không bao giờ tới được đó, bởi có tin là các nhóm đồng minh đã tới Como và đang dọn ổ phát xít chống đối cuối cùng, cho nên cả đoàn gồm hai chiếc xe lại đi về phía Bắc. Xe tới Azzano thì dừng lại, sau một đoạn đi bộ ngắn, đoàn tới được gia đình tin cẩn De Maria nơi Mussolini và Petacci được ở trong một phòng nhỏ với giường đôi.
Pedro không biết đó là lần cuối ông ta nhìn thấy Mussolini. Pedro trở về Dongo. Một xe tải ập tới quảng trường, chở đầy lính mặc quân phục mới cứng chứ không bạc phếch và rách nát như quân du kích của Pedro. Toán lính mới tới dàn hàng trước tòa thị chính. Chỉ huy của họ tự giới thiệu mình là đại tá Valerio, sĩ quan được phái tới với đầy đủ mọi quyền hành được giao từ tổng chỉ huy của Quân đoàn Giải phóng tình nguyện. Ông ta đưa ra các giấy tờ không thể bàn cãi và nói mình được cử tới để xử tử tất cả các tù nhân. Pedro cố gắng tranh luận, yêu cầu các tù nhân được chuyển tới ai đó có thể tiến hành xét xử đúng nghi thức. Nhưng Valerio sử dụng quân hàm của mình gây áp lực, đòi danh sách tất cả những người bị bắt giữ và đánh một dấu mực đen bên cạnh từng cái tên. Pedro thấy cả Claretta Petacci cũng bị đánh dấu, liền phản ứng lại, nói cô ta chỉ là tình nhân của tên quân phiệt, nhưng Valerio trả lời đó là lệnh ông ta nhận được từ trụ sở chỉ huy tại Milano.
"Anh để ý điểm này nhé, nó được nhớ lại rõ ràng như thế theo như lời kể của Pedro, trong khi trong các phiên bản thuật lại của Valerio, Claretta Petacci cứ bám chặt lấy Mussolini, kể cả khi Valerio đã quát tránh ra mà cô ta cứ nhất quyết không rời nên mới bị bắn do nhầm lẫn hay nôn nóng quá. Vấn đề là cô ta trước đó đã bị kết án rồi kia. Nhưng điều này cũng không phải là trọng tâm. Điểm quan trọng ấy là Valerio kể rất nhiều phiên bản khác nhau và ta hoàn toàn không thể tin hắn được."
Theo sau đó là hàng loạt các sự kiện rối rắm: được thông báo có một kẻ tự xưng là lãnh sự Tây Ban Nha, Valerio tới gặp, nói tiếng Tây Ban Nha, kẻ này không biết đáp trả, cho thấy hắn chẳng phải là người Tây Ban Nha. Valerio tát mạnh hắn, cho rằng hắn là Vittorio Mussolini nên đã ra lệnh cho Bill dẫn kẻ này ra hồ rồi bắn bỏ. Trên đường tới hồ, ai đó đã nhận diện đó là Marcello Petacci, anh trai của Claretta, Bill liền đem hắn quay lại. Nhưng cũng chẳng khác gì. Trong khi Marcello huyên thuyên về những gì đã phục vụ cho tổ quốc, về những vũ khí bí mật mà hắn đã tìm thấy và giấu không cho Hitler biết, Valerio ghi thêm tên hắn trong danh sách những kẻ bị kết án tử hình.
Ngay sau đó Valerio cùng quân của mình tới nhà gia đình De Maria, lôi Mussolini và Petacci lên xe, chở tới một con đường hẹp tại quận Giulino, tỉnh Mezzegra, rồi cho họ xuống khỏi xe. Có vẻ như ban đầu Mussolini đã tưởng Valerio tới giải cứu mình, nhưng chỉ khi đó hắn mới nhận ra điều gì đang chờ đợi. Valerio đẩy hắn đứng dựa vào hàng rào, rồi đọc án tử hình, sau đó cố gắng (theo như ông ta kể lại thế) tách Claretta ra khỏi Mussolini, nhưng ả tuyệt vọng bám chặt lấy tình nhân. Valerio bắn, nhưng súng bị tắc nên bảo Lampredi đưa một khẩu khác và bắn năm viên lên người kẻ bị kết án. Sau đó Valerio nói lại rằng Petacci đột ngột lao vào vòng ngắm nên bị bắn nhầm mà chết. Đó là ngày 28 tháng Tư.
"Nhưng tất cả những điều chúng ta biết này đều do Valerio kể lại. Theo ông ta, trước cái chết, Mussolini thảm thương chẳng khác nào giẻ rách. Nhưng những lời đồn thổi thì ngược lại, Mussolini đã mở tung áo khoác ra mà hét 'Cứ nhằm thẳng vào tim đi!' Sự thực thì chẳng ai biết điều gì đã xảy ra ở con đường đó, ngoại trừ những nguôi thi hành án xử vốn được đảng Cộng sản điều khiển."
Valerio quay trở lại Dongo và tổ chức xử bắn tất cả lãnh tụ phát xít còn lại. Barracu yêu cầu không bắn vào lưng nhưng bị đẩy lại cùng cả nhóm. Valerio cũng đẩy Marcello Petacci vào cùng nhóm, nhưng những kẻ bị xử tử khác phản đối, nói rằng Petacci là kẻ phản bội, rằng ai biết được hắn đã gây ra chuyện gì khác. Cuối cùng người ta quyết định xử bắn hắn riêng. Sau khi những người khác đã bị bắn, Petacci vùng thoát và chạy về phía hồ, ở đó hắn bị tóm lại, nhưng rồi lại thoát ra được, hắn tuyệt vọng nhảy xuống hồ bơi và bị nã cả loạt súng máy và súng trường. Sau đó Pedro, người đã không muốn cho quân của mình tham gia vụ hành quyết, đã cho lôi cái xác đó lên và chất lên cùng chiếc xe tải mà Valerio cho chở cả đống xác khác. Chiếc xe này sau đó đi qua Giulio để lấy thêm xác của quốc trưởng và Claretta, rồi tiến về Milano, nơi vào ngày 29 tháng Tư, toàn bộ xác chết được ném xuống quảng trường Loreto, chính tại nơi xác của quân du kích đã bị ném xuống gần một năm trước đây - quân đội phát xít lúc đó đã để xác của họ phơi ngoài nắng cả ngày, ngăn không cho gia đình thân nhân tới nhặt những phần còn lại của xác người thân.
Tới đây, Braggadocio nắm lấy cánh tay tôi, chặt tới nỗi tôi phải đẩy hắn ra: "Ô xin anh thứ lỗi, nhưng tôi đang sắp nói tới trọng tâm vấn đề đây. Anh chú ý nghe nhé. Lần cuối cùng người ta thấy Mussolini ở chốn công cộng với những người biết hắn là vào buổi chiều tại tòa tổng giám mục ở Milano. Từ đó trở đi hắn luôn đi cùng những phụ tá thân cận nhất. Còn từ khi được người Đức tháp tùng, rồi bị quân du kích bắn - tất cả bọn họ đều chưa từng tiếp xúc trực tiếp với Mussolini bao giờ, chỉ thấy hắn trên tranh ảnh hay qua các bộ phim tuyên truyền về hắn thôi. Và trong mấy bức ảnh từ hai năm trở lại hắn gầy gò và kiệt sức khiến người ta phải xì xào trông chẳng còn là Mussolini nữa. Tôi đã nói với anh về cuộc phỏng vấn cuối cùng của Mussolini do Cabella thực hiện vào ngày 22 tháng Tư, trong đó Mussolini kiểm tra và ký vào giây thứ 22, anh còn nhớ chứ? Ờ, sau đó Cabella đã ghi chép trong hồi ký: 'Tôi nhận thấy ngay là Mussolini rất khỏe khoắn, khác với những gì người ta đồn đại. Ông khỏe mạnh hơn rất nhiều so với lần cuối cùng tôi gặp. Đó là vào tháng Mười hai năm 1944, nhân dịp Mussolini tới phát biểu tại Lirico. So với những lần trước đây ông tiếp tôi - vào tháng Hai, tháng Ba và tháng Tám năm 1944 - chưa có lần nào trông ông lại mạnh khỏe như thế này cả. Màu da ông rám nắng khỏe mạnh, đôi mắt linh hoạt, ông di chuyển rất nhanh. Thậm chí ông còn hơi lên cân nữa, hay ít nhất thì ông cũng không còn cái vẻ gầy gò khiến tôi rất lấy làm ấn tượng khi gặp ông vào tháng Hai năm trước đó, cái vẻ gầy gò khiến khuôn mặt ông hốc hác, gần như là tàn tạ."
"Cứ cho là Cabella đang tuyên truyền vì muốn tung ra hình ảnh một vị quốc trưởng đầy phong độ đi. Nhưng gặp gỡ đầu tiên của mình với quốc trưởng, sau vụ bắt giữ: 'Ông ta ngồi phía bên phải cửa, gần chiếc bàn lớn. Nếu không biết đó là Mussolini, có lẽ tôi đã không nhận ra ông ta. Ông ta già trông tả tơi và sợ hãi. Mắt ông ta cứ trợn trừng, hầu như không thể nhìn tập trung vào một điểm nào được. Đầu ông ta hết quay sang bên này lại quay sang bên kia một cách giật cục kỳ quặc, mắt đảo xung quanh sợ hãi...' Thôi được, hắn vừa bị bắt cho nên sợ là phải rồi, nhưng chưa đến một tuần trôi qua kể từ buổi phỏng vấn với Cabella, và chỉ vài tiếng trước đó thôi hắn còn tin mình thoát qua được biên giới. Theo anh thì người ta có thể gầy đi như thế trong vòng bảy ngày không? Cho nên người nói chuyện với Cabella và người nói chuyện với Pedro không phải là một. Anh nhớ cho là ngay cả Valerio cũng không biết Mussolini một cách trực tiếp. Valerio đã xử tử một hình tượng, một huyền thoại, một kẻ đã thu hoạch vụ mùa và tuyên bố đẩy nước Ý vào cuộc chiến..."
"Anh đang nói với tôi là có hai Mussolini?"
"Tiếp tục nhé. Tin tức về việc xác của những kẻ bị xử tử đã tới Milano lan truyền khắp thành phố. Quảng trường Loreto bị đám đông những kẻ vừa hân hoan vừa giận dữ vây kín. Họ giẫm đạp, chửi rủa và nhổ nước bọt lên những cái xác khiến chúng biến dạng. Một phụ nữ bắn năm phát đạn vào xác của Mussolini, để trả thù cho năm đứa con của bà đã hy sinh trong cuộc chiến. Một người khác tè lên xác của Claretta Petacci. Cuối cùng ai đó đã can thiệp, cho treo những cái xác ấy lên gióng ngang của màn che trước trạm bom xăng để tránh bị biến dạng hoàn toàn. Đây là một vài tấm hình chụp lại thời điểm đó - tôi đã cắt chúng từ báo chí thời ấy. Đây là quảng trường Loreto, xác của Mussolini và Claretta vào ngày hôm sau khi một đội du kích lôi chúng xuống, chở vào trong hầm xác ở quảng trường Gorini. Anh hãy nhìn kỹ những bức hình này xem. Đó là những cái xác đã biến dạng, truớc hết là bởi các phát đạn, sau là bởi trận giẫm đạp man rợ. Mà anh đã bao giờ nhìn mặt ai chụp ngược, mắt ở chỗ mồm, mồm ở chỗ mắt chưa? Khuôn mặt trở nên không thể nhận dạng được."
"Vậy là kẻ nằm trên quảng trường Loreto, kẻ bị tay Valerio giết, không phải là Mussolini? Nhưng còn Petacci thì sao, khi tới gặp Mussolini, cô ta phải nhận ra chứ..."
"Chúng ta sẽ quay lại nói về Petacci sau. Để tôi nêu lên giả thiết của mình đã. Một độc tài hẳn phải có kẻ đóng thế, ai mà biết được hắn đã dùng kẻ đóng thế thay mình bao nhiêu lần để tránh bị tấn công trong những cuộc diễu hành chính thức, khi người ta chỉ nhìn thấy hắn từ xa, nhô lên khỏi xe. Giờ hãy tưởng tượng rằng để vị quốc trưởng có thể thoát chạy không phiền hà gì, từ lúc rời khỏi Como, Mussolini đã không còn là Mussolini nữa, mà là kẻ đóng thế."
"Thế Mussolini ở đâu?"
"Cứ bình tĩnh, tôi sẽ nói về hắn sau. Kẻ đóng thế đã sống ung dung nhàn hạ suốt nhiều năm, được trả lương hậu hĩnh, được ăn ngon mặc đẹp, chỉ để đóng thế trong vài dịp thôi. Bấy giờ hắn tin mình chẳng khác gì Mussolini, và bị thuyết phục đóng thế thêm một lần nữa - bởi người ta khiến hắn tin rằng ngay cả trong trường hợp có bị giữ lại trước khi vượt qua được biên giới đi chăng nữa, cũng chẳng ai dám làm hại tới quốc trưởng cả. Hắn chỉ phải làm công việc của mình một cách đúng mực, cho tới khi quân Đồng minh tới. Khi đó hắn có thể tiết lộ danh tính thực sự của mình mà không ai có thể buộc tội gì hắn được, cùng lắm là bị giam trong trại tập trung vài tháng là xong. Tất cả đổi lại một ổ trứng vàng trong ngân hàng Thụy Sĩ."
"Nhưng những sĩ quan cấp cao phát xít đi cùng hắn tới tận cuối cùng thì sao?"
"Họ chấp nhận nhập vai để quốc trưởng của mình trốn thoát, và nếu hắn ta tới được bên quân Đồng minh thì sẽ tìm cách cứu họ. Hoặc có thể những kẻ cuồng tín nhất vẫn còn nghĩ tới nổi dậy vào phút cuối, và họ cần có hình ảnh đáng tin cậy để xốc dậy những kẻ ủng hộ tuyệt vọng liều mạng cuối cùng cho trận chiến. Hoặc là ngay từ đầu Mussolini đã luôn di chuyển trong một chiếc xe với hai hay ba kẻ thân cận nhất, và tất cả những sĩ quan khác chỉ nhìn hắn từ đằng xa khi hắn đeo kính râm. Tôi không rõ, nhưng dù thế nào thì cũng chẳng có gì khác. Sự thật là giả thiết có kẻ đóng thế là giả thiết duy nhất giải thích tại sao Mussolini lại tránh không gặp gia đình mình tại Como. Bí mật về việc đóng thế phải được giữ kín càng ít người biết càng tốt."
"Petacci thì sao?"
"Là phần thảm hại nhất của câu chuyện: cô ta nghĩ sẽ tới để đoàn tụ với vị quốc trưởng của mình, vị quốc trưởng thực sự kia, nhưng ai đó đã ngay lập tức cho cô ta biết phải giả bộ như kẻ đóng thế thực sự là Mussolini để khiến cho câu chuyện càng đáng tin hơn. Cô ta phải đóng vai của mình cho tới khi qua được biên giới, rồi được tự do."
"Nhưng tất cả hình ảnh cuối cùng đều cho rằng cô ta ôm lấy Mussolini muốn chết cùng?"
"Đó chỉ là những gì đại tá Valerio kể cho ta nghe thôi. Ta có thể giả thiết rằng khi thấy mình bị đẩy vào bờ tường, kẻ đóng thế kia sợ phát khóc mà hét lên mình không phải là Mussolini. Valerio hẳn nghĩ: thật là hèn, sẵn sàng làm đủ mọi trò hòng thoát thân! Nên bắn luôn. Petacci chẳng bận tâm tới việc chứng nhận rằng đó không phải là người tình của mình, có khi còn ôm hắn để vở diễn đáng tin hơn. Cô ta không nghĩ Valerio lại bắn cả mình. Ai biết được trong đầu cô ta nghĩ gì, phụ nữ vốn bản tính dễ bị kích động. Có lẽ cô ta mất trí, và Valerio không còn cách nào khác ngoài việc bịt miệng cô ta lại bằng một loạt đạn. Còn có một giả thiết khác cần cân nhắc: Valerio lúc đó đã nhận ra vụ đóng thế rồi, nhưng ông ta được cử đi để giết Mussolini. Phải, chính ông ta, người duy nhất được chọn trong số toàn bộ người Ý. Ông ta có sẵn sàng từ bỏ vinh quang đang đợi mình không? Thế cho nên ông ta buộc phải theo cuộc chơi. Nếu kẻ đóng thế trông giống Mussolini khi còn sống, thì lúc chết sẽ lại càng giống hơn. Ai sẽ dám phủ nhận điều này? Ủy ban Giải phóng cần một cái xác, và họ sẽ có nó. Nếu một ngày nào đó Mussolini thật xuất hiện, người ta vẫn có thể cho rằng hắn mới là kẻ đóng thế."
"Thế Mussolini thật đâu?"
"Đây là phần của câu chuyện mà tôi cần làm sáng tỏ. Tôi cần phải tìm ra làm sao hắn trốn thoát được, và ai đã giúp hắn. Nói một cách chung chung thì mọi việc là thế này. Phe Đồng minh không muốn Mussolini bị quân du kích tóm được, bởi hắn có trong tay nhiều bí mật có thể khiến họ phải xấu mặt, ví như các thư từ trao đổi với Churchill hay gì đó khác ai mà biết được. Đó đã là lý do đủ thuyết phục rồi. Nhưng trên hết là việc giải phóng Milano đánh dấu mốc bắt đầu Chiến tranh Lạnh. Không chỉ có người Nga đang tiến vào Berlin sau khi đã chinh phục một nửa châu Âu, mà phần lớn du kích Ý lại thuộc phe cộng sản. Họ được trang bị vũ khí đầy đủ, và do đó khác gì trục thứ năm, sẵn sàng giao nước Ý cho quân Nga. Cho nên quân Đồng minh, hay ít nhất là Hoa Kỳ, phải chuẩn bị cho khả năng xảy ra kháng chiến chống lại cuộc cách mạng thân Nga. Để làm được điều này, họ phải tận dụng cả những tàn dư của chế độ phát xít. Mà chẳng phải chính họ đã cứu các nhà khoa học phát xít, như Von Braun, chở họ sang Hoa Kỳ chuẩn bị cho công cuộc chinh phục vũ trụ đó sao? Các nhân viên tình báo Hoa Kỳ không bận tâm tới mấy chuyện nhỏ lẻ. Một khi đã trở thành kẻ thù vô hại, Mussolini hoàn toàn có thể trở thành một người bạn có ích. Do đó cần phải lén mang hắn ra khỏi nước Ý, rồi giữ hắn trong trạng thái 'ngủ đông' một thời gian."
"Bằng cách nào?"
"Ôi giời ơi, còn ai vào đây nữa? Ai có thể can thiệp để ngăn mọi việc khỏi đi quá xa? Chính là vị tổng giám mục tại Milano, người nhận được mọi sự chỉ đạo từ Tòa thánh Vatican. Ai là người đã cứu một đống các đảng viên đảng Quốc xã và Phát xít thoát chạy sang Argentina? Chính là Tòa thánh Vatican. Giờ anh hãy tưởng tượng thế này: khi ra khỏi cung điện tổng giám mục, họ cho kẻ đóng thế lên xe của Mussolini, trong khi Mussolini thật thì lên một chiếc xe khác ít gây chú ý hơn, và thẳng tiến tới Lâu đài Sforzesco."
"Tại sao lại là lâu đài này?"
"Bởi từ tòa tổng giám mục tới lâu đài, nếu xe chạy đường cắt ngang nhà thờ lớn, qua quảng trường Cordusio, rồi rẽ vào đường Dante, thì chỉ mất có năm phút thôi. Dễ hơn rất nhiều là chạy thẳng ra Como, đúng không? Lâu đài thì cho tới giờ vẫn còn rất nhiều lối đi dưới lòng đất. Một vài đường ai cũng biết, được dùng để làm đường rác thải hoặc đại loại thế. Những đường khác tồn tại phục vụ chiến tranh, và trở thành hầm trú ẩn phòng không. Có rất nhiều tư liệu cho thấy trải qua bao thế kỷ vẫn tồn tại nhiều lối đi chẳng khác gì những đường hầm thực thụ, từ lâu đài dẫn tới nhiều điểm trong thành phố. Một trong những đường hầm mà người ta nói còn tồn tại, cho dù không thể tìm được lối vào sau hàng loạt vụ sập đổ, có thể dẫn từ lâu đài tới Tu viện Thánh Maria delle Grazie. Mussolini được giấu tại đó vài ngày, trong khi tất cả tỏa ra tìm theo dấu hắn ở phía Bắc, và rồi xác kẻ đóng thế hắn bị vứt xuống quảng trường Loreto. Ngay khi mọi việc ở Milano lắng xuống, một chiếc xe mang biển Thành quốc Vatican được cử tới đón hắn vào ban đêm. Đường sá thời ấy đi lại khó khăn thật đấy, nhung cứ từ từ di chuyển, từ nhà thờ này sang nhà thờ khác, từ tu viện này sang tu viện khác, cuối cùng cũng tới được Roma. Mussolini biến mất phía sau các bức tường của Tòa thánh Vatican. Tôi xin để anh chọn màn cuối: hoặc là hắn vẫn còn đó, có lẽ là đóng giả một đức ông hom hem lụ khụ, hoặc được cấp hộ chiếu Vatican, đeo râu, đóng giả một thầy tu mũ trùm đầu ốm yếu, cáu gắt bước lên tàu sang Argentina. Và nằm đợi ở đó"
"Đợi gì mới được kia chứ?"
"Cái đó tôi sẽ nói với anh sau này. Giờ thì các giả thiết của tôi mới dừng ở đây thôi."
"Nhưng để có thể phát triển được, giả thiết cần phải có bằng chứng cụ thể."
"Tôi sẽ có chúng trong vài ngày tới, sau khi đã tham khảo xong các tài liệu văn thư lưu trữ và báo chí xuất bản vào khoảng thời gian đó. Ngày mai là 25 tháng Tư, một ngày định mệnh. Tôi sẽ tới gặp một người biết được rất nhiều thứ diễn ra vào những ngày đó. Tôi sẽ chứng minh được rằng cái xác nằm trên quảng trường Loreto kia không phải là của Mussolini."
"Chẳng phải anh được giao viết về các nhà thổ một thời đó sao?"
"Nhà thổ là những thứ tôi còn lưu trong đầu đây này, chỉ cần một tiếng tối Chủ nhật là viết xong. Thôi, cảm ơn anh đã lắng nghe nhé. Tôi cần phải nói ra với ai đó thì mới giải tỏa được."
Hắn lại để tôi thanh toán một lần nữa, nhưng lần này thì hắn cũng xứng đáng được bao. Lúc đi ra, hắn nhìn quanh, lại còn áp sát vào tường lắng nghe, như thể sợ bị ai đó bám theo.
Chú Thích
[12] Chính trị gia, nhà báo và du kích người Ý đã bền bỉ đấu tranh chống phát xít, từng bị cầm tù nhiều lần dưới thời Mussolini. Tháng Tư năm 1945, ông đã tổ chức khởi nghĩa tại Milano, sau đó bỏ phiếu ủng hộ phán quyết tử hình Mussolini và đồng bọn. Sau này ông trở thành Tổng thống thứ 7 của Cộng hòa Ý.
[13] Thư ký đảng Xã hội Thống nhất Ý (một nhánh tách ra từ đảng Xã hội Ý), người bị ám sát theo lệnh của Mussolini vì ông đã tố cáo các vụ gian lận bầu cử và tham nhũng trong chính phủ của Mussolini.