2. MỘT CUỘC SĂN ĐUỔI TRONG RỪNG SÂU
Theo dọc con sông Côn, ngược về phía Đồng Phó, năm con ngựa mang trên lưng năm chàng kỵ mã phi nước kiệu trong hoàng hôn. Năm người kỵ mã đó chính là nhóm Tây Sơn ngũ hùng. Họ đang đuổi theo đoàn quân do thám Xuyên Sơn của Nguyễn Thân đang đi lùng bắt bà mẹ của vị anh hùng Mai Xuân Thưởng.
Khi biết âm mưu của Nguyễn Thân, các tướng lĩnh trong lực lượng cần vương đã đem cụ bà giấu trong vùng cao nguyên, một nơi bí mật để chúng khỏi tìm bắt, nhưng đoàn do thám Xuyên Sơn này vẫn quyết tâm vào rừng sâu để tìm bắt.
Nguyễn Thân nhắm không thể tiêu diệt nổi lực lượng cần vương ẩn náu trong rừng, nên đã thi hành kế sách của Tào Tháo thời Tam Quốc, bắt mẹ để dụ con ra đầu hàng.
Trong đám năm người của Tây Sơn ngũ hùng ai nấy đều là ngũ dõng, chỉ có Bùi Thế Phương là một văn nhân yếu ốm, nhưng vì tình bạn và ý chí quyết tâm diệt địch nên được bốn người trong nhóm kết nạp để cùng nhau báo quốc.
Và bây giờ Bùi Thế Phương đã trút bỏ bộ quần áo thư sinh phong nhã, để nai nịt võ trang gọn gàng, vượt suốt trèo đèo, lắc lư trên lưng ngựa, cố gắng để theo kịp chúng bạn.
Bốn người kia xem chừng như không có gì mệt mỏi, họ vẫn ra roi cho ngựa chạy đều đều.
Mạnh Hùng giơ roi chỉ về phía trước mặt:
- Chỉ còn độ sáu bảy dặm nữa chúng ta sẽ đến "Cây Dừa" nơi đây là chỗ có nhiều ghềnh thác rất khó đi. Dọc con sông Côn chỉ có nơi này là hiểm trở hơn cả.
Lâm Bình Tường nói:
- Cây dừa là tục danh của làng Vĩnh Thạnh. Nghe nói ở đây đất đai phì nhiêu, dân làng trồng trọt nhiều ruộng rẫy lắm mà!
Bùi Thế Phương nói:
- Nơi đó thổ dân đông đúc, trồng trọt rất nhiều đậu phộng và khoai lang. Do đó dân chúng còn lưu lại câu hát ru em:
"Củ lang Đồng Phó, đậu phộng Hà Nhung,
Chàng bòn thiếp mót để chung một gùi.
Chẳng qua duyên nợ sụt sùi,
Hay vầy ta bỏ cái gùi ta đi...".
Rồi lại có câu hát ru em đáp lời:
"Chim kêu dưới suối Từ Bi,
Nghĩa nhân còn bỏ luận chi cái gùi".
Mạnh Hùng vỗ đùi reo lên:
- Hay quá! Đúng là một văn nhân! Anh ta thuộc rất nhiều cân dân ca ở địa phương này.
Quách Vĩnh Khương nói:
- Căn cứ vào những câu dân ca đó thì thời xưa ở đây cũng có xảy ra nhiều mẩu chuyện tình sử lắm chứ!
Lâm Bình Tường nói:
- Chuyện tình sử thì thời nào chẳng có. Con người từ thời xưa đã sống thì đã biết yêu đương rồi!
Vó ngựa rền trên đường sỏi rào rạc! Mọi người lại thúc ngựa chạy nhanh hơn. Dòng sông Côn uốn khúc giữa ngàn cây cao cả. Càng ngược lên thượng lưu, nước sông càng chảy xiết, bọt sóng trắng phau lôi những thân gỗ mục trôi băng băng về xuôi...
Bờ sông rừng hoang vắng chỉ có con đường nhỏ lách qua những đám cỏ lau mọc cao ngang đầu, những gốc đa già vạn đại, lá reo lạch bạch trong gió chiều như tiếng sóng đại dương.
Lâm Bình Tường bỗng gò ngựa lên tiếng:
- Hình như có chiếc cầu gỗ bắc ngang một khe suối ven sông.
Mạnh Hùng đáp:
- Đúng rồi! Chúng ta sẽ vượt qua chiếc cầu đó trước khi sang sông. Ở rừng, nơi các con suối hẹp thường có cầu gỗ.
Cả bọn người ngựa đã tới gần cầu. Dòng suối nơi đó tuy hẹp nhưng trũng hẳn xuống như lòng vực, nước chảy cuồn cuộn như thác lũ. Chiếc cầu bắc ngang tuy bằng gỗ, nhưng cũng khá kiên cố. Bên trên có lót những tấm ván dài. Cầu rộng chừng ba bộ, hai bên có tay vịn.
Lâm Bình Tường thúc ngựa qua cầu trước tiên. Bùi Thế Phương cũng dong cương tiến tới đằng sau.
Bỗng bên dưới gầm cầu, từ bụi lau sậy rậm rạp bên ven sông, một con thuyền nan lướt ra, rẽ sóng trôi xuôi, trên thuyền chỉ có một người lái đò, mình khoác áo tơi lá phủ kín thân mình, đầu đội chiếc nón rộng vành, nên không thấy rõ diện mạo và y phục bên trong. Người đó tay cầm cây sào giơ cao lên, như vẫy gọi đoàn kỵ mã, và nói giọng lanh lảnh:đ
- Cẩn thận nhé! Hãy xuống ngựa dắt qua cầu! Cầu gẫy bây giờ.
Bùi Thế Phương vừa kịp gò cương thì Lâm Bình Tường vừa đến giữa cầu. Nghe một tiếng quát lớn, tiếp theo có tiếng "Rắc! Rắc!" nổi lên, toàn thể chiếc cầu vặn mình rung chuyển, rồi chiếc cầu sụp xuống gẫy làm đôi.
Trong lúc nguy hiểm, Lâm Bình Tường giật mạnh dây cương, thúc bừa con ngựa nhảy qua. Con ngựa chồm lên, hất tung hai chân trước ngang mặt, băng mình nhảy vọt sang bên kia.
Cả hai khúc cầu đều rơi xuống dòng sông, nhưng may sao, con ngựa của Lâm Bình Tường nhảy thoát giữa những tiếng reo vui mừng còn kềm ngựa ở bên kia cầu.
Mạnh Hùng kinh ngạc, vội xuống ngựa dắt đến chân cầu xem xét bỗng chàng la lên:
- Chân cầu bị chặt đứt chứng tỏ không phải ngẫu nhiên, mà có người ám hại chúng ta đó.
Mọi người trực nhớ tới tiếng quát của người lái đò lúc nãy. Người lái đò với chiếc thuyền con đã mất hút sau những bụi cây um tùm ở một quãng sông uốn khúc.
Quách Vĩnh Khương càu nhàu:
- Nhất định có một kẻ ám hại chúng ta rồi. Nhưng sao người lái đò kia biết trước mà lưu ý chúng ta đề phòng? Người lái đò ấy là ai vậy?
Mạnh Hùng trầm ngâm suy nghĩ. Chàng có cảm giác như đã nghe giọng nói của người đó một lần rồi! Tiếng quát lanh lảnh ấy có một âm hưởng quen thuộc! Chàng nhớ đến Bạch y kỵ nữ.
Chợt có tiếng Vĩnh Khương reo to:
- Kìa! Lại có một chiếc đò nữa trong bụi lau.
Ngay dưới gầm cầu, trong bụi lau ở ven bờ sông vắng, quả nhiên có một chiếc thuyền bỏ không buộc vào một gốc cây, không người lái, nhưng có đủ sào chống và mái chèo. Đó là một con đò dùng để sang ngang của thổ dân trong vùng.
Quách Vĩnh Khương reo mừng nói:
- Chúng ta hãy dắt ngựa xuống bến và nhân tiện sang sông bằng con đò này. Cả người lẫn ngựa lần lượt chuyển sang.
Con đò không lớn lắm, chỉ vừa đủ qua một người một ngựa. Mạnh Hùng đóng vai người chống đò. Lòng sông tuy hẹp, nhưng nước chảy mạnh, nên mỗi chuyến đò sang ngang cũng rất công phu.
Mai Thế Phương sang chuyến đầu tiên, chàng bước lên bờ, tươi cười nói với Lâm Bình Tường:
- Xin có lời mừng cho hiền hữu. Một mình một ngựa bay vọt qua cầu chẳng khác Lưu Bị ngày xưa cùng con Đích Lô vượt qua Bàng Khê.
Lâm Bình Tường nói:
- Dù lúc ấy không bay qua được khúc cầu gẫy thì bất quá tôi cũng chỉ rơi xuống đó tắm mát một trận là cùng.
Bùi Anh Khôi sang chuyền đò cuối cùng. Chàng vừa cặp bến thì Mạnh Hùng đã cẩn thận dìm thuyền xuống nước giữa một khóm lau.
Lâm Bình Tường dắt ngựa đến cạnh Bùi Thế Phương, nói:
- Cuộc săn đuổi đoàn do thám Xuyên Sơn đã bước vào giai đoạn quyết liệt. Những kẻ chặt cầu mưu hại chúng ta chính là đoàn do thám Xuyên Sơn đó. Chúng lẩn quất đâu đây, và đột kích chúng ta không biết lúc nào trên khắp các nẻo đường rừng núi.
Lâm Bình Tường vừa dứt tiếng thì nghe tiếng gió vù vù bay vèo qua tai. Chàng vội cúi đầu xuống và nhanh như chớp rút kiếm gạt ba mũi tên liên tiếp bắn tới.
Tiếp theo, từ bốn phía lùm cây từng loạt tên vun vút bay tới như mưa rào nhắm vào năm kỵ sĩ.
Lâm Bình Tường hét to:
- Anh em! Dồn ngựa vào giữa, chúng ta đứng xung quanh đỡ tên.
Năm con ngựa bị dồn sát vào một lùm cây rậm để tránh tên. Cả năm người trong bọn Tây Sơn ngũ hùng đều tuốt kiếm cầm tay đứng dựa lưng nhau thủ thế.
Tuy nhiên, vị trí của họ đang đứng rất bất lợi. Dọc theo bờ sông này chỉ lác đác vài bụi rậm, không có cây to, nên bọn họ cả người lẫn ngựa ngẫu nhiên thành một mục tiêu trống trải giữa vùng sông núi hoang vu.
Tuy vậy, bao nhiêu mũi tên vèo vèo bay đến đều bị bốn thanh kiếm báu đánh bạt xuống, rơi lả tả, không thể nào xuyên qua ánh thép ấy.
Bốn chàng thanh niên võ sĩ quắc mắt lên nẩy lửa, vừa đỡ tên cho mình vừa che chở cho bầy ngựa, không một chút sơ hở.
Những mũi tên hung hăng bay đến từng loạt liên tiếp. Tiếng gió rít ghê rợn trong không gian như tiếng lụa xé.
Anh chàng Bùi Thế Phương vốn là một anh chàng thư sinh, chưa từng tiếp nhận cung kiếm, nên sợ hãi nép mình vào trong đám ngựa, tưởng chừng như những mũi tên bịt sắt kia đang cố tình tìm anh ta găm vào thịt.
Chợt có tiếng Lâm Bình Tường thét:
- Anh em lưu ý! Hết loạt tên này có lẽ chúng xuất hiện bao vây. Chúng ta hãy chuẩn bị đánh xáp lá cà.
Mạnh Hùng nói tiếp:
- Tên bắn từ phía bờ sông bên kia nhiều hơn. Có lẽ chúng định truy kích chăng?
Bỗng Lâm Bình Tường hét lên:
- Trong lùm cây kia có bóng người! Các anh cứ thủ thế nơi đây để tôi đi đuổi bắt chúng.
Vừa nói vừa múa tít thanh kiếm, gạt những mũi tên trước mặt, vừa xông lên nhắm những lùm cây rậm cách đó chừng vài chục bước chạy thẳng đến...
Quách Vĩnh Khương vội gọi lớn:
- Anh em! Cẩn thận đấy! Cúi đầu xuống!
Nhưng Lâm Bình Tường vẫn hăm hở tiến lên, lưỡi kiếm vung tròn trước mặt che kín toàn thân như một chiếc mộc.
Hai mũi tên bay đến: "Veo! Veo!".
Lâm Bình Tường vội cúi xuống. Hai mũi tên lướt qua! Đồng thời hai mũi tên nữa lướt qua tiếp theo lao tới từ phía bụi cây trước mặt, nghe rõ cả tiếng giăng cung "tanh tách".
"Soạt".
Một làn kiếm của chàng gạt cả hai mũi tên lao xuống đất. Chàng biết rõ trước mặt chàng cách chừng năm bước hiện có một kẻ thù.
Lâm Bình Tường bèn nhảy tới sát bụi cây trước mặt. Một dây cung bật nghe "tách" một tiếng và một mũi tên lao vù vào ngực chàng. Lâm Bình Tường khẽ nghiêng mình đưa nhẹ tay trái bắt lấy mũi tên rồi giả vờ kêu lên một tiếng "ối" ngã gục xuống nhưng tay phải chàng vẫn nắm chặt chuôi kiếm đợi chờ.
Từ trong khóm cây rậm, một bóng người mặc áo màu chàm, tay cầm mã tấu, nhảy lăn xả đến, phóng mũi dao chém bổ xuống đầu Lâm Bình Tường.
Người ta chỉ nghe một tiếng "choang!" lưỡi mã tấu bắn lên cao, và tên áo chàm lăn đi một vòng. Lâm Bình Tường đã đứng phắt dậy lia nhanh lưỡi kiếm vào cổ đối phương.
Một tiếng hét rùng rợn! Trong bóng tối, lờ mờ, người ta trông thấy rõ ràng một tia máu vọt lên đỏ thắm.
Quang cảnh ấy diễn ra trước mắt mọi người dù trong khoảnh khắc, nhưng thực rõ ràng không thiếu một chi tiết.
Lâm Bình Tường mỉm cười quay lại nói với Bùi Thế Phương:
- Bắt đầu bớt đi một kẻ thù.
Giữa lúc đó, Bùi Thế Phương bỗng rú lên một tiếng, mặt tái nhợt, ôm vai nhăn nhó. Thì ra trong lúc sơ ý, Bùi Thế Phương bị một mũi tên cắm phập vào vai bên phải làm cho chàng không né kịp.
Nhưng đó cũng là mũi tên cuối cùng. Trong không gian tiếng gió rít bỗng im bặt. Một tiếng còi ngân dài vang lên lanh lảnh giữa núi rừng bát ngát báo hiệu địch quân đã rút lui, chỉ để lại một xác chết gần bụi cây rậm còn đẫm máu do Lâm Bình Tường vừa hạ sát.
Mạnh Hùng vội chạy lại, đỡ Bùi Thế Phương dậy, nhưng tai vẫn nghe tiếng động trong không gian, đề phòng những mũi tên bất ngờ có thể bắn đến.
Lâm Bình Tường nhẹ tay rút mũi tên ra. Một dòng máu rỉ theo mũi tên chảy đổ loang trên vai Bùi Thế Phương, nhưng chỉ thoáng mắt, máu đỏ đã trở thành bầm tím lại.
Mạnh Hùng thất kinh la to:
- Nguy rồi! Tên có tẩm thuốc độc!
Vết thương tuy không sâu lắm, có lẽ từ đằng xa bắn tới, chỉ găm sâu độ một lóng tay, nhưng khi vừa rút tên ra, Bùi Thế Phương rùng mình, nhắm nghiền đôi mắt lại, và từ từ thiêm thiếp như ngất lịm đi.
Mạnh Hùng cầm mũi tên xem xét và hỏi:
- Đích thị tên này có tẩm thuốc độc rồi! Anh em mau vực Bùi Thế Phương lên ngựa để chở đi cứu cấp.
Chàng dùng kiếm cắt đứt một mảnh áo cột rít vết thương cho người bạn mà nét mặt đau đớn vô cùng. Chàng lẩm bẩm:
- Buộc tạm cho cầm máu mà thôi! Giữa đường này không có gì để giải độc.
Rồi chàng đưa mắt nhìn quanh, nói tiếp:
- Chúng ta phải đem Bùi hiền đệ đến một trạm nghỉ chân gần nhất để tìm phương cứu chữa. Tôi biết thứ thuốc độc này mạnh lắm. Chậm một tiếng đồng hồ nữa có thể nguy đến tính mạng.
Lâm Bình Tường nói:
- Kẻ thù chúng ta rút lui rồi! Ta nên lên đường cho sớm. Tôi biết tiếng còi vừa rồi là lệnh rút lui của tên thủ lĩnh đoàn do thám Xuyên Sơn đó.
Vừa nói Lâm Bình Tường vừa bước đến bên chỗ Bùi Thế Phương đỡ Bùi Thế Phương nằm ngang trên mình ngựa, để cho Quách Vĩnh Khương dắt đi, còn bốn người khác cùng lên ngựa đi theo sau.
Lâm Bình Tường dong cương đi sát với Mạnh Hùng vừa lúc cả đoàn người ngựa năm con của bọn Tây Sơn ngũ hùng tiến qua xác chết của tên võ sĩ do thám.
Mạnh Hùng thúc ngựa vượt lên trước, và nói:
- Có nên ném xác này xuống sông không?
Anh Khôi chép miệng nói:
- Thôi! Mặc kệ nó! Chúng ta đi nhanh không nên để mất thì giờ. Nếu nó là một tên trong đoàn do thám Xuyên Sơn thì đã có đồng đội nó lo, nghĩa là chúng nó sẽ lột bộ quần áo màu chàm và ném xác xuống sông.
Lâm Bình Tường nhìn xác chết cho đến khi đoàn người ngựa vùn vụt khuất sau lùm cây, chàng mới cao giọng nói:
- Các anh nói đúng lắm! Chính chúng ta đang bị đoàn do thám Xuyên Sơn của địch theo dõi, không còn hoài nghi gì nữa, vì tên giặc vừa thiệt mạng đúng là tên võ sĩ đã cùng tôi giao đấu tại tửu quán ở gần bến Cây Muồng.
Mạnh Hùng gật đầu nói:
- Hay lắm! Hiền đệ đã lập công đầu trong cuộc săn đuổi này. Nhưng tới đây còn rất nhiều gay go! Chúng ta phải luôn luôn đề phòng để đối phó với âm mưu của chúng.
Lâm Bình Tường nói:
- Tên cầm đầu đoàn do thám Xuyên Sơn không phải tay vừa. Nếu nó đích thực là Lý Lạc Hoa thì võ công cao diệu lắm!
Bỗng Quách Vĩnh Khương cau mày nói:
- Vừa rồi chúng ta giết được một quân thù, nhưng ta lại để cho một người bạn bị thương. Như vậy chưa thể gọi là ta đã thắng thế.
Chàng chợt gò cương kiềm ngựa lại, trong lúc Bùi Thế Phương rùng mình, toàn thân run rẩy, và ôm ngực mửa ra một ngụm máu tươi. Dòng máu từ từ chảy xuống hai bên mép chàng thư sinh từng đám bọt trắng xóa.
Mạnh Hùng kêu lên:
- Chất độc bắt đầu ngấm vào cơ thể! Chúng ta đau xót quá! Anh em hãy phóng ngựa nhanh lên để chúng ta tìm nơi chuyên chữa.
Bùi Anh Khôi hoảng sợ nói:
- Chết rồi! Trong rừng còn có cách gì cứu chữa cho anh Bùi Thế Phương không?
Mạnh Hùng cố giữ giọng bình tĩnh:
- Bây giờ có cứu chữa cũng vô ích! Giữa đường làm gì có thuốc giải độc. Thế nào cũng tìm vào làng của bọn thổ dân mới được. Tôi biết gần đây có một làng nhỏ, trong chuyến đi lần trước tôi đã ghé qua. Ở đó có một người thổ dân chuyên hái lá cây trong rừng. Chắc chắn hắn có thể chữa được vết thương cho Phương hiền đệ.
Mọi người đều yên lặng, không ai nói gì nữa. Tuy nhiên, ai nấy đều xót xa trước bệnh tình của Bùi Thế Phương. Việc lo lắng của họ bây giờ còn có cách là thúc ngựa đi cho nhanh đến ngôi làng người thổ. Họ không còn tiến theo dọc bờ sông mà băng qua ngàn cây hoang vắng.
Mạnh Hùng đi trước dẫn đường, rẽ vào con đường nhỏ, xuyên qua những cánh rừng lượn quanh qua một trái đồi thoai thoải.
Nắng đã tắt hẳn. Buổi chiều trong rừng bỗng trở nên mù mịt, âm u.
Vượt khỏi ngọn đồi thứ hai, Mạnh Hùng chỉ tay về phía trước:
- Đến nơi rồi! Đây là bản thượng du, làng của người Ba-Na, một làng nhỏ nhất và nghèo nhất ở vùng này.
Lờ mờ trước mắt mọi người hiện ra một túp nhà sàn lẫn bên những khóm tre rừng cao vút.
Lâm Bình Tường hỏi:
- Làng thượng du sao? Tại sao chỉ có một túp nhà sàn vậy?
Mạnh Hùng nói:
- Không! Ở đây có tất cả mười tám túp nhà sàn! Riêng nhà này là của người thầy rừng, ở biệt cư, xa những thổ dân cùng một xóm.
Quách Vĩnh Khương nói:
- Vậy chúng ta còn chờ gì mà không xuống ngựa?
Mọi người gò cương, buộc ngựa vào khóm tre bên cạnh nhà, trong lúc đó Mạnh Hùng trèo lên một cầu thang ngắn, đập tay vào phên vách, gọi:
- Có khách xa đến đây!
Cánh cửa phên nâng lên. Một người thổ tay cầm mồi lửa nhựa tràm, bước ra soi vào mặt Mạnh Hùng.
Mạnh Hùng thân mật hỏi:
- Ông thầy quên tôi rồi sao? Tôi là Mạnh Hùng dạo nọ đi buôn ngựa có đi ngang qua đây và đã nghỉ nhờ ở nhà này một đêm.
Ông thầy rừng như nhận ra khách quen, ra hiệu mời mọi người vào, nới thêm ánh lửa cho sáng và lặng lẽ lấy trên trần nhà một chiếc chiếu mới, trải ra căn giữa, mời khách.
Quách Vĩnh Khương đem Bùi Thế Phương đặt nằm trên chiếu. Mạnh Hùng nói với người thầy rừng:
- Ông thầy à! Chúng tôi có một người bạn bị tên có tẩm thuốc độc, nguy cấp lắm, nên đến đây nhờ ông thầy cứu chữa. Chất độc đã ngấm vào cơ thể từ lúc mặt trời chưa lặn.
Ông thầy rừng đưa mắt nhìn quanh một lượt, như khám xét bệnh tình của Bùi Thế Phương, trong lúc đó Bùi Thế Phương vẫn nhắm mắt nằm yên.
Thầy rừng liền quỳ xuống một chân, lấy ngón tay trỏ ấn vào trán Bùi Thế Phương, miệng hỏi bằng tiếng Kinh:
- Trúng tên ở vai à? Có giữ lấy mũi tên không?
Quách Vĩnh Khương vội đáp:
- Có! Mũi tên đây! Kẻ bắn tên này là đội quân do thám Xuyên Sơn của Nguyễn Thân.
Vừa nói, chàng vừa rút mũi tên đưa ra, mũi tên dài và cứng, mà chàng đã cẩn thận bọc vào một mảnh vải, giắt trên thắt lưng.
Người đàn ông thổ cầm lấy mũi tên xem rất kỹ lưỡng, đoạn ngẩng đầu lên nói:
- Thứ tên này bọn Sơn Đông mãi võ ở bên Trung Quốc thường dùng. Còn thứ thuốc độc tẩm ở đầu mũi tên thì chưa biết là loại gì. Nhưng nếu là của người đi rừng chế thì đây là loại vỏ cây "Phà chảy" ngâm lấy nước. Để tôi thử xem.
Người thầy rừng vùng đứng lên, bước đến một góc nhà thò vào một chiếc gùi lấy ra nhiều thứ vỏ cây, lá cây và rễ cây.
Đoạn, ông ta giã một mớ lá, đắp vào vai Bùi Thế Phương, rồi đoạn ngâm một mớ rễ cây vào nước, đưa cho Quách Vĩnh Khương đổ vào miệng Bùi Thế Phương uống.
Mọi người im lặng, hồi hộp đợi chờ...
Một lúc sau, bỗng thấy ngực Bùi Thế Phương phồng lên, chàng thở ra một tiếng "phào" và đôi mi hơi rung động.
Cả bọn mừng rỡ, ngồi xung quanh Bùi Thế Phương theo dõi từng biến chuyển trên nét mặt nạn nhân.
Tự nhiên, mọi người bỗng thấy kính mến và cảm phục người thầy rừng của làng Ba-Na.
Đến lúc này Bùi Anh Khôi mới để ý nhận xét người thầy rừng này có cử chỉ của một lang y chân chính và tận tâm. Tuy đó cũng chỉ là một người đàn ông trạc bốn mươi, y phục màu chàm như tất cả các thổ dân khác ở miền sơn cước, nhưng với nét mặt hiền từ, nhân hậu, vẻ người trầm mặc, ít nói, cử chỉ khoan thai điềm đạm, dáng điệu ân cần, chu đáo khiến cả bọn Tây Sơn ngũ hùng có cảm tình mật thiết, nhất là khi thấy Bùi Thế Phương chỉ nhờ một chén thuốc mà đã sắp tỉnh dậy được.
Tuy nhiên, mọi việc chỉ diễn biến đến đó thôi. Bùi Thế Phương hết mê man, nhưng vẫn nằm im, sắc diện vẫn như trước, chưa thay đổi.
Bọn Tây Sơn ngũ hùng vẫn tin tưởng đợi chờ, theo dõi từng cử chỉ của ông thầy rừng khi khám xét bệnh nhân. Dáng điệu thân mật và bình tĩnh của người thầy thuốc khiến mọi người vững tâm chờ đợi. Bỗng người thầy thuốc thở dài, than:
- Nguy lắm! Đến bây giờ mà thuốc vẫn chưa công hiệu thì thực lạ lùng. Mọi khi chất độc ngấm vào cơ thể, chỉ cần một nắm lá kia đắp vào chỗ bị thương tức thì bệnh nhân thấy nhẹ người lập tức. Ngay cả các loài rắn độc cắn cũng có thể trừ được, thế mà tại sao hôm nay thuốc không công hiệu. Có lẽ thuốc độc này chế ở một chất khác không phải rễ cây rừng.
Bầu không khí trở nên nặng nề, đè nên lồng ngực của mọi người. Không ai biết làm gì hơn, chỉ ngồi im nhìn người chủ nhà, trong lúc đó người thầy thuốc chủ nhà nét mặt vẫn đăm chiêu, cúi mặt sát vào Bùi Thế Phương, rồi bỗng la lên:
- Đúng rồi! Đây là chất độc của Long diên hương trộn với cây "Xà ngải" một thứ chất độc nguy hiểm nhất của nọc rắn.
Trán người thầy thuốc lấm tấm mồ hôi, anh ta than:
- Biết làm thế nào? Trong tất cả các thứ thuốc tôi hái ở vùng này không có thứ nào chữa được chất độc ấy cả.
Bùi Anh Khôi trố mắt hỏi:
- Vậy ông thầy biết ở đâu có thứ thuốc chữa được chất độc ấy chăng?
Người thầy rừng chậm rãi nói:
- Thuốc thì có, nhưng loại đó ở cách đây rất xa. Đi lấy được đem về thì trễ mất. Bây giờ trời đã tối rồi! Nếu đợi quá nửa đêm bệnh nhân chết mất.
- Ông thầy cứ cho biết thuốc gì, ở đâu? Bọn chúng tôi dù khó khăn, khổ sở vẫn tìm được.
Người thầy thuốc thất vọng, lắc đầu:
- Vô ích! Không thể nào lấy đem về đây kịp! Đó là một loại cỏ mọc ở chân núi Hòn Yên vùng An Tượng...
Mạnh Hùng đang lắng nghe bỗng giật mình hỏi lại:
- Vùng An Tượng à?
- Phải! Đúng là vùng An Tượng! Chỗ đó là một hốc núi hiểm trở ăn thông với vùng Quang Hiển do một con đường xuyên sơn ở chân Hòn Yên. Nơi đó chỉ có thổ dân Ba-Rai thường lui tới. Còn dân Ba-Na chúng tôi ít khi ra vào con đường đó.
Bốn chàng tuổi trẻ nhìn nhau. Họ cùng chợt nhớ tới người thiếu áo trắng. Người thiếu nữ ấy đối với Mạnh Hùng rất quen thuộc, và cũng không lạ gì đối với các anh em trong Tây Sơn ngũ hùng.
Nhưng làm sao tìm gặp được cô gái áo trắng đó?
Mạnh Hùng buột miệng nhắc lại:
- Thứ cỏ đó chỉ mọc ở vùng An Tượng nơi chân Hòn Yên! Quê hương của Bạch y kỵ nữ.
Mạnh Hùng vừa dứt tiếng bỗng có tiếng đập cửa dồn dập. Mọi người đều sửng sốt. Người chủ nhà chưa kịp đứng lên thì đã thấy cánh cửa bị đẩy sang một bên, và trước ánh lửa bập bùng sáng, xuất hiện một bóng người mình khoác chiếc áo tơi lá, đầu đội chiếc nón rộng vành, từng bước đi nghe rột rạc.
Bốn chàng trẻ tuổi cùng kinh ngạc nói:
- A! Người lái đò ban chiều!
Người lái đò từ từ đưa tay cởi bỏ chiếc tơi lá và chiếc nón lá rộng vành, để lộ một thân hình nhỏ nhắn, uyển chuyển trong bộ y phục màu trắng, có thêu kim tuyến, cổ áo và đôi cổ tay nổi bật lên những vòng bạc lóng lánh.
Đó là y phục của các thiếu nữ miền sơn cước mà cũng là y phục đặc biệt của cô gái miền An Tượng kỳ bí.
Trước cặp mắt kinh ngạc của mọi người trong căn nhà sàn hẻo lánh, Bạch y kỵ nữ xuất hiện đúng lúc mọi người đang khao khát mong chờ, làm cho nàng tăng thêm vẻ tôn quý.
Nàng tiến lên một bước, đứng ngay giữa nhà, cúi đầu chào mọi người, và hỏi bằng một giọng rất tự nhiên:
- Thưa quý vị! Trong nhà này hình như có một người bị trúng tên độc?
Quách Vĩnh Khương nghiêm nghị hỏi:
- Nhưng cô nương từ đâu tới? Và tại sao biết việc này?
Không đợi thiếu nữ trả lời, Mạnh Hùng reo lên:
- A! Kính chào Bạch y kỵ nữ!
Điều lạ lùng nhất là người thầy thuốc vừa trông thấy thiếu nữ đã reo to:
- A! Kính chào ân sư.
Mọi người nghe chủ nhà xưng hô như vậy ai nấy đều kinh ngạc. Trong lúc đó người chủ nhà quay sang giới thiệu với bọn Tây Sơn ngũ hùng:
- Cô nương này chính là thầy dạy tôi về môn kiếm thuật. Trước đây trong một lần tôi đi vào rừng hái thuốc gặp hổ dữ, không chống lại được, may gặp được cô nương đây cứu thoát và truyền cho tôi môn kiếm thuật đặc truyền. Do đó, ngày hôm nay tôi vẫn mang ơn, và tuy cô nương còn nhỏ tuổi, tôi vẫn kính trọng là một ân sư. Hôm nay vị ân sư của tôi đã đến đây thì mọi việc đều tốt đẹp cả.
Một tia sáng vui mừng trộn vào bầu không khí lạnh lẽo của núi rừng gây một niềm ấm áp.
Người chủ nhà bỗng đứng lên, chắp tay trước mặt thiếu nữ cung kính nói:
- Đệ tử không đủ tài để giải chất độc trong người nạn nhân, xin ân sư chỉ dạy.
Bạch y thiếu nữ hỏi:
- Nạn nhân ngộ độc gì vậy?
Người chủ nhà thưa:
- Đây là chất nọc rắn "Long diên hương" trộn với cây "Xà ngải".
Thiếu nữ áo trắng cau mày:
- Ồ bọn này còn liên hệ với thầy trò tên cụt tay Xả Thẩu ở Buồng Tằm. Chỉ có bọn này mới dùng chất "Long diên hương".
Người chủ nhà nói:
- Thưa ân sư, loại chất này chỉ có cỏ "hoàn sinh" ở chân Hòn Yên mới chữa được. Chẳng biết ân sư có mang theo không?
Bạch y kỵ nữ gật đầu:
- Loại thuốc đó bá phụ tôi đã chế thành viên mang theo mình phòng lúc cần giải độc.
Vừa nói nàng vừa lấy ra một viên thuốc trong chiếc túi vải, và bảo người chủ nhà:
- Na-Thòn! Ngươi lấy viên thuốc này hòa vào chén nước đổ vào miệng nạn nhân.
Người chủ nhà đúng tên là Na-Thòn cầm viên thuốc hớn hở nói với mọi người:
- Chỉ lát nữa thôi, nạn nhân sẽ nhờ viên thuốc này khỏi bệnh ngay. Ân sư tôi đã đến đây thì không còn việc gì lo nữa. Thuốc này có thể trị được mọi chất độc, trong tất cả mọi trường hợp trúng tên thuốc độc, ăn phải vị độc, bị rắn độc cắn...
Vừa nói Na-Thòn vừa lấy bát múc nước, hòa viên thuốc và đổ vào miệng Bùi Thế Phương uống. Đồng thời lại xức một ít thuốc vào vết thương trên vai.
Tất cả mọi người đều im lặng đợi chờ với vẻ tin tưởng tràn đầy.
Quả nhiên, chỉ một lúc sau, người ta thấy Bùi Thế Phương thở phì phào, hơi thở dần dần đều đặn và nước da trở lại màu sắc như cũ. Tiếp đó, đôi môi mấp máy, đôi mắt từ từ mở ra nhìn mọi người. Chàng muốn chống tay ngồi dậy, nhưng Quách Vĩnh Khương đã đỡ chàng, nói:
- Bùi Thế Phương ơi! Đã tỉnh hẳn chưa? Trong người còn mệt không?
Bạch y kỵ nữ vẫn đứng trước mặt mọi người, xen vào nói:
- Chất độc đã tan rồi. Người nhiễm độc chỉ còn hơi choáng váng mà thôi, không đau đớn gì nữa. Chốc lát sức khỏe trở lại bình thường ngay.
Bùi Thế Phương như đã nhớ lại mọi việc nhưng chàng không hiểu tại sao chàng lại đến đây, nằm nơi túp nhà sàn này, và có người thiếu nữ xinh đẹp đứng trước mặt.
Chàng đưa mắt nhìn số anh em trong Tây Sơn ngũ hùng, như hỏi ý kiến.
Mạnh Hùng nắm tay Bùi Thế Phương nói:
- Hiền đệ vừa thoát chết đó! Hiền đệ trúng tên độc đã ngất đi may nhờ có chủ nhân nhà này tận tâm săn sóc, và nhất là nhờ cô nương đây chữa trị, dùng thần dược giải cứu cho hiền đệ đó.
Người chủ nhà Na-Thòn nghe nói cúi đầu đáp:
- Việc giải cứu nạn nhân chính là tài năng của ân sư tôi, còn tôi chẳng có công lao gì trong việc này cả.
Mạnh Hùng nói:
- Cô nương đây chính là Bạch y kỵ nữ, người con gái đã sát cánh với chúng ta trong việc giao đấu vừa rồi trong quán rượu, chắc hiền đệ còn nhớ chứ?
Bùi Thế Phương gật đầu, chắp tay cảm ơn người con gái áo trắng.
Bạch y kỵ nữ vội nghiêng mình đáp lễ, đôi mắt sáng quắc ngước lên nhìn mọi người, nhưng đôi má nàng hơi ửng đỏ.
Chưa ai kịp nói thêm điều gì thì xa xa có tiếng động vang lại hòa cùng tiếng lá rừng xào xạc trong đêm.
Thiếu nữ áo trắng vừa lắng tai nghe, bỗng nàng rút thanh kiếm đang giắt sau lưng, mắt sáng lên, nói với mọi người:
- Có nhiều tiếng vó ngựa tiến lại gần đây. Đoàn quân do thám Xuyên Sơn đã theo dấu vết của ta kéo đến!
Tức thì bốn thanh kiếm của Tây Sơn ngũ hùng cùng rút ra một loạt. Người chủ nhà người thổ cũng lẳng lặng bước đến bên vách nứa rút ra một thanh mã tấu cầm tay, đến trước mặt người thiếu nữ áo trắng nói:
- Đệ tử đợi lệnh! Xin ân sư truyền dạy.
Thiếu nữ nói:
- Hãy cùng với Tây Sơn ngũ hùng chiến đấu với bọn do thám Xuyên Sơn.
Nàng ra đến cầu thang, bỗng quay đầu lại:
- Giặc đông lắm! Có cả kỵ binh! Ồ! Chúng từ đâu tới mà đông đảo như vậy, lại có lẫn cả thổ dân!
Mọi người đều đổ ra ngoài cửa.
Từ phía xa xa, sau một đồi núi hiện ra ánh đuốc chập chờn, đoàn người cầm khí giới, cỡi ngựa đi trước, theo sau là đám đông người đi bộ, thoáng nhìn ai cũng đoán ra đó là những người thổ dân, trên tay đều cầm dao, cầm gậy.
Người cầm đầu đoàn quân là một chàng trai mặc áo xanh, quần lụa bạch, tay cầm gươm trường, đương đưa tay trỏ về túp nhà sàn của người hái thuốc ở làng Ba-Na.
Bùi Anh Khôi cau mày:
- Đích là đoàn quân do thám Xuyên Sơn với tên thủ lĩnh Lý Lạc Hoa rồi! Nhưng tại sao lại có những người thượng du theo sau. Dân làng này theo giặc à?
Na-Thòn nói:
- Đúng như vậy! Làng này phần nhiều là những kẻ vong bản từ mọi miền đến cư ngụ, trong đó có người Kinh bị triều đình kết tội nên bỏ trốn lên đây để tránh hình phạt. Chính vì thế mà tôi không muốn ở gần chúng, nên sống biệt lập chỗ này.
Quách Vĩnh Khương nói với Bùi Anh Khôi:
- Đại huynh là tay xạ thủ, cũng nên gửi trả lại vài mũi tên đã nhận của chúng lúc ban chiều! Và phát đầu tiên nên nhắm đúng tên thủ lĩnh của chúng!
Bùi Anh Khôi là một người có biệt tài về cung nỏ, nên lúc nào sau lưng chàng cũng mang theo một cánh cung và một giỏ tên có bịt đồng.
Anh Khôi hạ cung xuống nhưng không dùng tên của mình mà lấy mũi tên có tẩm thuốc độc, do Na-Thòn giắt trên tấm vách khi xem xét vết thương của Bùi Thế Phương. Chàng lắp vào cung nhắm tên thủ lĩnh Lý Lạc Hoa đi đầu bắn tới.
Dây cung bật nghe "tách" mũi tên lao vào đêm tối. Và liền đó chàng trai áo xanh đi đầu bỗng hét lên một tiếng giơ hai tay lên trời, ngã nhào xuống đất.
Mũi tên cắm đúng vào vai hắn, cũng như lúc chiều, mũi tên ấy đã cắm đúng vào vai của Bùi Thế Phương vậy.
Nhưng đoàn người cỡi ngựa bỗng dạt về một bên, một kỵ sĩ khác từ dưới vọt lên phía trước, hoa lưỡi kiếm dài lấp lánh, ra hiệu cho mọi người tiến theo. Người kỵ sĩ đó mặc áo xanh, quần lụa bạch, và lạ lùng thay đến giờ này người kỵ sĩ đó mới hiện ra đúng là tên thủ lĩnh của đoàn quân do thám.
Bọn Bùi Anh Khôi và Quách Vĩnh Khương còn đang ngơ ngác thì dưới cầu thang đã có tiếng người thiếu nữ áo trắng vọng lên:
- Thôi! Lầm rồi! Tên thủ lĩnh do thám đã cho một tên thuộc hạ mặc quần áo giống như hắn để phòng khi những lúc bất trắc. Tiếc quá! Phát tên thần diệu đó đã bắn sai đích!
Anh Khôi bực tức, rút thêm một mũi tên khác, giương cung lên, nhắm vào tên áo xanh thứ hai.
Nhưng mũi tên chưa bật ra khỏi dây chàng đã hạ cung xuống, vì phía đoàn người cỡi ngựa bỗng rẽ ngang, và cả người, cả ngựa tên áo xanh vụt biến mất sau những khóm cây. Trong lúc đó, tiếng nói của thiếu nữ áo trắng lại vang lên:
- Chúng bao vây ngôi nhà này! Xin quý vị hãy rời khỏi nơi đây và lên ngựa nghênh chiến! Đề phòng chúng dùng lửa đốt túp nhà sàn này.
Không hiểu giọng nói trong trẻo của cô gái áo trắng này có sức lôi cuốn như thế nào mà tất cả đều tuân theo.
Mạnh Hùng nhảy xuống chân cầu thang đã thấy thiếu nữ gọn gàng uy nghi trên lưng con bạch tuyết, con ngựa trắng như tuyết mà Mạnh Hùng đã từ biên giới đem về những ngày trước đây.
Thấy Quách Vĩnh Khương dắt Bùi Thế Phương đến cầu thang, Na-Thòn tiến lại nói:
- Ở đây còn năm con ngựa, mà quý vị có thêm tôi nữa là sáu người. Vậy tôi xin để bệnh nhân ngồi chung một ngựa, để các vị rảnh tay chiến đấu.
Quách Vĩnh Khương cảm động nhìn Na-Thòn lúc đó vẫn bình tĩnh, vành môi hơi mím lại, nhưng toàn thân có một dáng điệu gan dạ và cương nghị lạ thường.
Nhìn thẳng vào đôi mắt trung hậu của Na-Thòn, Quách Vĩnh Khương nói:
- Ông thầy nhất định theo chúng tôi chống lại quân giặc à? Ông thầy không sợ chúng báo thù?
Na-Thòn nói:
- Chúng báo thù sao được! Tôi là đệ tử Vũ Yến Linh, cô gái áo trắng đó! Ân sư tôi bảo tôi gia nhập vào lực lượng của quý vị để chiến đấu mà. Từ nay tôi là người của quý vị mãi mãi.
Với cử chỉ rất nhanh nhẹn, Na-Thòn đỡ Bùi Thế Phương xuống thang để ngồi lên lưng ngựa, rồi chàng ngồi phía sau để bảo vệ.
Tuy nhiên, Na-Thòn tức khắc lại nhảy xuống, trèo lên cầu thang chạy vào nhà, lấy chiếc gùi có đựng vỏ cây mang vào lưng rồi châm một mồi lửa vào mái lá:
- Cho ngôi nhà này trở thành ngọn đuốc để soi rõ mặt kẻ thù.
Lửa bốc cháy bừng bừng sáng cả một bầu trời đêm.
Có tiếng Mạnh Hùng hét:
- Hãy lên ngựa mau! Giặc đến nơi rồi!
Cả năm người cùng nhảy lên yên một lúc.
Cô gái áo trắng mà Na-Thòn gọi tên Vũ Yến Linh cùng Mạnh Hùng cưỡi ngựa đi đầu. Na-Thòn chở Bùi Thế Phương đi giữa. Anh Khôi, Vĩnh Khương, Bình Tường đi tập hậu.
Tất cả theo con đường bọc quanh đồi núi tiến lên.
Giữa lúc ngôi nhà sàn của Na-Thòn bốc sáng thì xung quanh đoàn quân do thám Xuyên Sơn cũng đang bao vây, và tiếng reo hò nổi lên dữ tợn.
Bỗng có tiếng trong đám quân giặc hét to:
- Hỏng rồi! Chúng đã thoát ra ngoài mục tiêu bao vây rồi!
Tức thì đoàn kỵ mã của địch đổi hướng.
Trước mặt Mạnh Hùng và thiếu nữ áo trắng hiện ra một đoàn kỵ mã áo đen, mã tấu vung ngược lên, mặt mày dữ tợn như một hung thần, ác quỷ.
Mạnh Hùng quát lên một tiếng căm giận, trong lúc thiếu nữ áo trắng vẫn cười khanh khách, tiếng cười vui vẻ và ngạo mạn vô cùng, ở trước mặt họ, xuyên qua ánh lửa rõ ràng là đám võ sĩ hỗn hợp trong đoàn quân do thám Xuyên Sơn.
Chúng chặn trước mặt Mạnh Hùng và Bạch y kỵ nữ.
Chưa hết, giữa lúc đó từ bên tả, từ bên hữu, từ phía sau, ngay trong các lùm cây rộng gần đó đều có bóng người xuất hiện, mã tấu cầm tay, dao dài sáng quắc, và đủ các loại vũ khí của dân làng.
Tức thì Mạnh Hùng rút lên lưỡi kiếm của chàng lao về phía trước, chém vào cổ ngựa của tên thủ lĩnh đoàn do thám. Nhưng có ba bốn thanh mã tấu vung lên, đỡ lấy thanh kiếm của chàng, đồng thời tên thủ lĩnh gò cương quay ngang mình ngựa, và trong nháy mắt, hắn đã tiến đến giáp đầu ngựa của Mạnh Hùng.
Con ngựa của Mạnh Hùng chồm lên, tránh thoát làn gươm ác liệt, và phát ra hai tiếng "Choang! Choang!" lưỡi kiếm của Mạnh Hùng đánh bật luôn hai mã tấu cùng một lúc.
Thế rồi, những con ngựa cùng quấn tròn lấy nhau, những lưỡi thép chạm nhau sang sảng, những tiếng quát tháo, reo hò hỗn loạn.
Cuộc giao chiến bắt đầu giữa một bọn sáu người với cả đoàn Xuyên Sơn do thám hợp nhau có lẽ hơn mấy chục người.
Anh Khôi, Bình Tường, Vĩnh Khương đã đánh bật được những địch thủ gần nhất, nhưng phần nhiều là những tên đánh bộ.
Lúc này mọi người mới thấy Na-Thòn là một tay kiếm lợi hại. Một lưỡi dao mã tấu của Na-Thòn chém bên tả, phạt bên hữu, đánh trước đỡ sau, vừa che chở cho Bùi Thế Phương vừa giao tranh với địch.
Bùi Thế Phương nằm ôm cổ ngựa, núp dưới làn kiếm quan của Na-Thòn, chàng cảm thấy như có một bức tường kiên cố che chở vậy.
Giữa trận giao tranh bỗng vang lên một tiếng ngựa hí kinh hồn. Tiếng ngựa hí làm kinh động tất cả, làm cho những con ngựa khác sợ hãi, nhảy chồm lên. Đó là tiếng hí của con Bạch tuyết đang xông ra trận.
Con chiến mã này đã từng quen với những tiếng gươm dao xô xát. Giờ đây như đang ngửi mùi máu lửa, làm cho nó hăng lên, bờm dựng ngược, đuôi quất vun vút, và lao vào giữa rừng gươm.
Phải trông thấy thiếu nữ áo trắng đang xáp trận trên lưng con chiến mã oai phong kia, mới biết rằng người Bạch y kỵ nữ đó ngoài tài múa kiếm tuyệt luân, còn có tài xông pha trong đám loạn quân, giữa chiến trường đầy gươm giáo.
Trong trận xáp chiến với đội quân do thám Xuyên Sơn, hợp lực cùng đám thổ dân bị mua chuộc, một cuộc chiến tuy chưa mở rộng đến độ thiên binh vạn mã, nhưng cũng có đủ cả kỵ binh và bộ binh người thiếu nữ bạch y kia thực có dịp thi thố hết kiếm thuật và cái bản lĩnh phi thường của một tay kiếm khách giang hồ đã từng được rèn luyện trong truyền thống của môn phái võ công.
Nàng lượn thanh kiếm đến đâu, mã tấu và dao gậy đều bị gạt bắn ra đến đó. Con Bạch tuyết tung hoành, xung đột như một con chiến mã đã điêu luyện ngoài chiến trường. Có lúc nó chồm lên ngoạm vào cổ ngựa đối phương, có lúc nó hất tung đôi cẳng sau, đá những tên địch đánh lén.
Lúc đầu, tên thủ lĩnh đoàn quân do thám so kiếm với Mạnh Hùng, nhưng hai lưỡi thép mới chạm nhau vài hiệp thì Bạch y kỵ nữ đã lướt tới như một làn gió, tung kiếm đánh tách rời hai đối thủ sang hai bên, và nghiễm nhiên nàng thay Mạnh Hùng, chính thức giao đấu với tên thủ lĩnh của đoàn quân do thám.
Tên thủ lĩnh đoàn quân do thám trông thấy thiếu nữ kêu lên:
- A! Giỏi thật! Vũ Yến Linh! Ta với nàng có thù oán gì mà nàng theo đuổi ta mãi vậy, hay là đã phải lòng tên viên tướng trẻ Mạnh Hùng.
Cô gái áo trắng được gọi tên là Vũ Yến Linh, hét to:
- Lý Lạc Hoa, tên phản bội sư môn. Ta vâng lệnh bá phụ của ta theo bắt ngươi đem về trị tội.
- Đúng! Ta là Lý Lạc Hoa với nàng là người cùng một sư môn. Ta thừa nhận sự thật như thế. Còn việc phản bội sư môn có gì chứng minh?
Vũ Yến Linh cười nhạt:
- Bá phụ ta truyền võ công và kiếm thuật cho ngươi không phải để làm tay sai cho bọn bán nước.
Lý Lạc Hoa cười ngạo nghễ:
- Có phải vì vậy mà nàng hủy bỏ sự thân mật giữa nàng với ta chăng? Ta thiết tưởng nàng nên dấn thân vào con đường sự nghiệp của ta hiện thời, để cùng nhau vui hưởng giàu sang...
Vũ Yến Linh không còn chịu nổi giọng nói của Lý Lạc Hoa. Nàng hét lên một tiếng, vung kiếm khởi ngay thế công đánh tới tấp, đánh dồn dập, đánh như một người say sưa, mê sảng, hào hứng, kích thích đến cực độ.
Lý Lạc Hoa biết đường kiếm gia truyền của môn phái nàng không phải dễ gì cự lại, nhất là trong lúc nàng đang tức giận. Chàng vừa đánh vừa lùi, và thận trọng đỡ từng mũi kiếm kỳ diệu ấy, chàng không còn cách nào phản công được nữa.
Trong lúc đó, Mạnh Hùng tưởng chừng như cô gái áo trắng kia sẽ chém đầu tên Lý Lạc Hoa tức khắc dưới làn kiếm uy dũng của nàng, nhưng ác hiểm thay, khi Lý Lạc Hoa lùi dần đến bên một bụi rậm thì bỗng hắn hô to:
- Hãy xạ tiễn mau!
Một loạt mưa tên rào rào từ trong bụi rậm lao thẳng đến người con gái áo trắng đó.
Tức thì, con Bạch tuyết phóng mình nhảy chồm lên, thiếu nữ áo trắng từ trên mình ngựa lăn xuống hai vòng. Nhưng nàng đứng dậy ngay, và lưỡi kiếm nàng bay lượn vèo vèo che chở cho cả người và ngựa.
Mạnh Hùng hét lớn:
- Quân bắn lén! Giết hết!
Và có tiếng Bình Tường nói to:
- Chúng nó núp trong bụi rậm này! Anh em ơi! Hãy trả lại chúng bằng cung tên.
Ánh lửa của ngôi nhà cháy soi rõ bóng của Bùi Anh Khôi và Bình Tường ngồi sừng sững trên mình ngựa cầm ngang thanh kiếm như một viên tướng trận cách chỗ người kỵ nữ áo trắng chừng mười bước.
Trước mặt hai người này khí thế của địch giảm dần, không còn bị vây hãm như lúc đầu vì đã ba lần bọn võ sĩ do thám khởi thế tấn cong đều bị hai lưỡi kiếm kỳ ảo này đẩy lùi.
Riêng phía Quách Vĩnh Khương thì chàng đã dùng sức mạnh đuổi đánh đoàn bộ binh và các thổ dân chạy tán loạn.
Bây giờ Bùi Anh Khôi rảnh tay, chàng tra kiếm vào vỏ, lấy cánh cung trên lưng xuống, lắp tên và bắn liền năm phát vào phía bụi rậm trước mặt.
Nơi đó là chỗ ẩn núp của đội cung nỏ đối phương để bắn nén Bạch y kỵ nữ.
Bùi Anh Khôi bắn nhanh lạ lùng. Chỉ một mình chàng với một chiếc cung mà tưởng chừng như có tới năm sáu tay nỏ cùng hợp lực vậy.
Quang cảnh ấy thật kỳ lạ! Chỉ trao đổi một lúc, những xạ thủ trong bụi cây không còn bắn ra nữa. Thế rồi, từng bóng người chồm lên, định trốn thoát, nhưng vừa ló mặt ra đã ngã xuống lập tức.
Bạch y kỵ nữ khoái chí, la lên:
- Hay lắm! Thật là thần tiễn.
Mạnh Hùng lúc này cũng đã rảnh rang gò ngựa đứng ngắm bóng dáng ủy mị và kiêu hùng của Vũ Yến Linh.
Bỗng nghe có tiếng nàng gọi lớn:
- Anh em lên ngựa mau! Chúng tập kích vòng vây lần thứ hai.
Rồi nhẹ như một cánh bướm, kỵ nữ Bạch y nhún mình nhảy phóc lên lưng con Bạch tuyết, và giữa lúc đó địch quân cũng đã tập họp lại một vòng vây đông nghẹt.
Lần này chúng không phân tán lực lượng mà đánh giáp lá cà toàn đội. Không thấy bóng dáng tên thủ lĩnh áo xanh đâu nữa mà chỉ nghe tiếng còi vang lên trong bóng tối, ra hiệu cho binh sĩ.
Mạnh Hùng, Anh Khôi, Bình Tường và thiếu nữ áo trắng lui về gần chỗ đứng của Quách Vĩnh Khương, cho ngựa giáp đuôi nhau, để dựa lưng nhau chiến đấu.
Trong lúc này không thấy Na-Thòn và Bùi Thế Phương đâu cả. Trong trận giao tranh ào ạt vừa rồi không ai để ý đến hai người này.
Vòng vây lần lần thắt chặt lại, Lâm Bình Tường hét lên:
- Hãy đánh rộng ra bốn mặt, dồn chúng về một phía.
Năm con ngựa cùng một lúc xông lên, năm ánh kiếm lập lòe sáng chói, những chiếc mã tấu rời khỏi tay địch lăn xuống đất.
Nhưng địch quân càng ngày càng đông thêm, chúng lăn xả vào từng lớp, từng lớp như một đàn hổ đói. Ngã tên này tên khác xông lên thay thế. Chúng đánh rất hăng và có quy củ. Theo đúng hiệu lệnh của tên Lý Lạc Hoa.
Trong bóng tối, người ta nghe tên này hét ra những khẩu hiệu giọng lai Trung Quốc.
Mạnh Hùng nói:
- Hừ! Đây chính là một người Việt lai Trung Hoa.
Bạch y kỵ nữ nói:
- Đúng rồi! Tuy nó là người Việt, nhưng ông bà nó là người Minh Hương.
Lâm Bình Tường nói:
- Tên này tuy là một võ sĩ, nhưng cũng thạo về binh thư trận chiến. Chúng ta phải triệt hạ những tên kỵ mã, vì những tên này là những đứa chỉ huy.
Năm con ngựa đánh phá vòng vây xông ra, bám sát vào đoàn kỵ sĩ của quân do thám. Họ vừa đánh vừa hét:
- Giết! Giết hết!
Những tiếng rú rùng rợn vang lên. Từng tia máu bắn phụt vào quần áo mọi người.
Lâm Bình Tường uy mãnh dùng ngựa xông vào công phá mãnh liệt, vó ngựa chàng đi đến đâu địch quân chết rạp đến đó, nên không ai dám ngăn cản.
Tuy nhiên, Lâm Bình Tường bị mắc vào kế "Xa luân chiến" của địch. Lý Lạc Hoa đã dùng chiến thuật biến hóa của trận đồ.
Đột nhiên, chúng tan rã ở chỗ này rồi lại kết hợp ngay lại ở chỗ khác. Và bỗng dưng chúng mọc lên khắp bốn phía mỗi lúc một đông hơn.
Do đó, Lâm Bình Tường tiến sâu về phía trước, nên đã lọt vào vòng vây. Chàng phát giác được trận đồ của chúng, vội vã đánh lộn trở lại tìm đồng bọn, nhưng một vòng vây khác lại khép kín quanh chàng.
Bạch y kỵ nữ cùng với Mạnh Hùng, Quách Vĩnh Khương, Bùi Anh Khôi vẫn chiến đấu bên nhau, nên không bị sa vào kế địch.
Quách Vĩnh Khương gọi lớn:
- Bình Tường ở đâu? Hãy lui về đây đừng đánh xa quá!
Nhưng không thấy Bình Tường trả lời. Tiếng gọi của Quách Vĩnh Khương chìm trong tiếng reo hò của quân giặc...
Giữa lúc đó bỗng có một tiếng ốc vọng đến... Tiếp theo là những ánh đuốc từ ngọn đồi bên kia chiếu sáng...
Hàng mấy trăm kỵ quân dồn dập từ xa kéo đến, vây bọc khu chiến trường...
Quách Vĩnh Khương múa tít thanh kiếm báu, chém ngã liên tiếp bốn tên giặc, và nghiến răng nói:
- Quân giặc từ đâu lại kéo đến nữa! Nguy to rồi! Kìa, bốn phía đều có ánh lửa.
Bùi Anh Khôi nói:
- Lạ thật! Chúng nó lấy quân ở đâu mà nhiều dữ vậy! Chẳng lẽ dân chúng ở trong vùng này theo giặc hết sao?
Bạch y kỵ nữ vẫn bình tĩnh, vừa múa gươm vừa nói:
- Có lẽ không phải quân của Lý Lạc Hoa.
Bỗng Mạnh Hùng dõi mắt về phía xa xa rồi nói giọng reo vui:
- Anh em ơi! Tiếng ốc thúc quân rõ ràng là của nghĩa quân ở trại Hầm Hô rồi! Chúng ta có viện binh.
Bạch y kỵ nữ gật đầu:
- Đúng vậy! Đây là đoàn quân của chủ tướng Châu Thiên ở Hầm Hô.
Trong ánh đuốc sáng rực, người ta nhận thấy rõ ràng vòng vây của đoàn quân do thám Xuyên Sơn dãn ra, và trốn chạy như một đàn chim tan tác trước cơn gió lốc.
Và từ phía đồi trước mặt bỗng dưng lấp lánh hàng trăm lưỡi dao mã tấu, mở một đường rộng, phá vòng vây từ ngoài vào.
Uy dũng như một toán thiên binh từ trên trời sa xuống, một đoàn kỵ binh đồng phục màu chàm, khăn la quần xéo, ào ạt múa đao giục ngựa xông tới. Người đi đầu chính là Châu Thiên, chủ tướng trại quân Hầm Hô.
Cây thương của Châu Thiên cầm trong tay luôn luôn đảo lộn. Mũi thương múa tới đâu giặc tản ra tới đó. Toán kỵ binh Hầm Hô tiến sát theo chân chủ tướng, lăn xả vào hàng ngũ đối phương, gặp người chém người, gặp ngựa chém ngựa, nhanh như gió cuốn, mạnh như thác đổ, dữ dội như dầu sôi, lửa cháy.
Nhờ cuộc giải vây bất ngờ này, đoàn quân Xuyên Sơn của địch từ thế chiến công đến thế thủ đều tìm cách rút chạy.
Toán đội quân Hầm Hô tràn đến, có lẽ còn đông gấp năm lần đoàn quân do thám Xuyên Sơn. Từ bốn mặt kéo vào, vó ngựa rầm rập, vây kín địch quân.
Bạch y kỵ nữ hét lên:
- Chớ để giặc trốn thoát! Mau đuổi theo chặn nó lại.
Nàng giật mạnh dây cương, con Bạch tuyết chồm lên phi như gió. Bình Tường, Vĩnh Khương, Anh Khôi cùng nhau quất ngựa đuổi theo.
Nơi một góc rừng, ánh đuốc rực sáng, mọi người nhận rõ tên thủ lĩnh Lý Lạc Hoa đang giao đấu với hơn hai mươi tên thuộc hạ của trại Hầm Hô... Mạnh Hùng không đuổi theo thiếu nữ áo trắng, mà đợi Châu Thiên đến nơi đón tiếp và hỏi:
- Chủ tướng trại Hầm Hô vì sao hay tin đến đây giải thoát cho chúng tôi?
Châu Thiên cầm ngang cây giáo dài, nét mặt vui mừng:
- Mạnh Hùng tướng quân! Được gặp tướng quân đây là hạnh ngộ. Câu chuyện còn dài, hãy lo dẹp hết bọn giặc này rồi sẽ đàm luận sau.
Xung quanh Mạnh Hùng và Châu Thiên cuộc hỗn chiến vẫn còn đang diễn ra! Tuy nhiên, với lực lượng đông đảo, dĩ nhiên quân đội Hầm Hô đang áp đảo đoàn quân do thám Xuyên Sơn của giặc Lý Lạc Hoa một cách nặng nề.
Nhiều xác giặc nằm ngổn ngang dưới đất. Nhưng phần nhiều là xác của những tên thổ dân ở địa phương, còn những tên nòng cốt trong đoàn quân do thám Xuyên Sơn thì lần lượt rút lui hết.
Từng hồi còi hiệu lanh lảnh vang lên!
Mạnh Hùng biết đó là tiếng còi hiệu triệt thoái của đội quân Xuyên Sơn, nên nói với Châu Thiên:
- Xin tướng quân ra lệnh chặn hết đường rút lui của chúng, không để một tên giặc nào trốn thoát. Nhất là những tên kỵ binh và những tên áo đen!
Châu Thiên vội đưa giáo dài lên trời vẫy một cái.
Một hồi tù và lại âm u vang lên trong rừng.
Nghĩa quân Hầm Hô đồng loạt tỏa ra bốn phía rừng. Chỉ trong nháy mắt, chiến trường không còn một bóng người, chỉ còn lại những xác chết nằm gục trên mặt đất.
Mạnh Hùng và Châu Thiên cho ngựa đi song song kề nhau giữa bốn con ngựa khác từ xa phóng tới. Đó là Bạch y kỵ nữ, Lâm Bình Tường, Quách Vĩnh Khương và Bùi Anh Khôi.
Bạch y kỵ nữ lên tiếng:
- Tên thủ lĩnh đoàn do thám Xuyên Sơn lại thoát khỏi tay chúng ta rồi.
Lâm Bình Tường nói:
- Lạ thật! Lần nào ta cũng đuổi theo gần kịp nó thì nó lại biến đâu mất.
Bùi Anh Khôi nói:
- Phải công nhận tên thủ lĩnh đó quả có tài ẩn hiện khôn lường, xứng đáng là tên cầm đầu của đội quân do thám Xuyên Sơn.
Lâm Bình Tường bực tức nói:
- Tài ẩn hiện của hắn chỉ là học theo lối gian manh, lén lút có gì đâu mà khen ngợi.
Mọi người đều cười ồ lên. Mạnh Hùng chỉ Châu Thiên giới thiệu:
- Đây là Châu Thiên tướng quân, chủ trại nghĩa quân Hầm Hô. Tướng quân vừa đem đội kỵ binh đến giải vây cho chúng ta, và hiện nay đội kỵ binh đó đang truy kích trên đường rút lui của địch.
Châu Thiên cùng mọi người thi lễ.
Quách Vĩnh Khương đưa mắt nhìn qua một loạt, nói với giọng lo lắng:
- Trong trận này chúng ta để mất ông thầy rừng và bệnh nhân Bùi Thế Phương. Không biết hai người có lạc về đâu. Có thể gặp tai nạn gì không?
Mọi người đồng thanh nói:
- Chúng ta phải truy tìm cho được. Không nên bê trễ.
Bạch y kỵ nữ nói:
- Na-Thòn là một tên Thượng lai Kinh sống đã lâu trong vùng đất này, võ công và kiếm pháp rất đáng tin cậy. Lúc nãy hắn chỉ dùng một cây mã tấu mà bảo vệ người bệnh và chém giết địch quân một cách oai hùng. Tuy hắn mất tích, nhưng không đáng lo lắm đâu.
Mạnh Hùng nói:
- Tên thủ lĩnh đoàn quân do thám Xuyên Sơn có nhiều mưu mô không lường được! Ta chớ nên chủ quan khinh địch.
Giữa lúc đó, những tiếng reo hò của nghĩa quân trại Hầm Hô đã xa dần và xen vào đó những tiếng hú ngân dài truyền đi từ ngọn đồi này sang ngọn đồi khác.
Châu Thiên lắng tai nghe, rồi nói với mọi người:
- Giặc đã chạy xa rồi! Tiếng hú đó là báo hiệu tập hợp để kiểm điểm binh mã. Để tôi ra lệnh cho đội kỵ binh đi tìm người mất tích.
Dứt lời, Châu Thiên lấy ra một chiếc tù và đeo bên sườn, thổi lên một hồi dài, âm hưởng nghe rộn rã, trầm hùng.
Từ bốn phía những bó đuốc giơ cao, lượn vòng như rắn, đoạn từ từ nhập vào một hàng ngay ngắn, đoàn kỵ mã nghiêm chỉnh đến trước mặt Châu Thiên.
Cách chừng vài mươi bước, bốn tên kỵ mã có thắt lưng đỏ từ hậu quân tách ra, vượt lên trước, phi ngựa đều đều một lượt đến cạnh chủ tướng và lần lượt xuống ngựa, chờ lệnh.
Châu Thiên nói:
- Hãy báo lại tình hình vừa qua.
Tức thì, một trong những viên đội trưởng cất giọng lảnh lót:
- Chúng tôi đã đuổi giặc để truy kích, nhưng giặc đã chạy trốn xa rồi!
Châu Thiên vẫn ngồi trên ngựa, chống mũi giáo dài xuống đất, quay lại nói với Tây Sơn ngũ hùng:
- Chúng tôi là nghĩa quân của hai trại Hầm Hô và Buồng Tằm đang thao luyện binh mã theo lệnh của chủ tướng Mai Xuân Thưởng bỗng có tin báo là ở bản Thượng này bị giặc mua chuộc, và có nhiều tên Thượng đã làm thuộc hạ cho đoàn do thám Xuyên Sơn của giặc. Vì vậy tôi đem hai trăm kỵ binh đến đây để chiêu vụ để ổn định tình hình. Tình cờ lại gặp lúc chúng đang giao tranh với quý vị. Hiện quân tôi có bắt sống được hai tên giặc trong nhóm thuộc hạ của tên chỉ huy. Còn những tên bị giết đều là bọn người Thượng ở địa phương này. Số người Thượng bị giết chưa rõ bao nhiêu, nhưng ước tính còn hơn mười đứa.
Mọi người dong ngựa đi sát bên nhau, theo những bó đuốc soi đường. Họ tìm trong tất cả các khóm cây, các bụi rậm; rẽ lau, vạch cỏ, lục lạo. Vào những đám gai gốc hoang vu nhất của khu rừng. Mạnh Hùng lo lắng, nói với Lâm Bình Tường:
- Không khéo xảy ra tai nạn ấy! Đang cùng nhau giao chiến với địch quân, bỗng nhiên mất tích thì một là chết, hai là bị địch bắt chứ còn gì nữa.
Mọi người đi vòng trở lại ngôi nhà của Na-Thòn. Ngôi nhà sàn lúc này chỉ còn là một đống tro tàn, ngun ngút khói. Khóm tre bên nhà bị cháy lá, trơ trọi những thân cây khẳng khiu, đen xạm.
Bạch y kỵ nữ thúc ngựa lên trước, đi quanh một vòng ngôi nhà cháy, đến bên khóm tre, nàng bỗng xuống ngựa, cúi nhặt một vật gì dưới đất, giơ cao lên ánh đuốc thì đó là chiếc gùi đựng rễ cây và lá cây vung vãi tung tóe trên nền cỏ.
Thiếu nữ dùng đuốc soi trên mặt đất thấy nơi đó có nhiều lùm cỏ cao bị rạp xuống, nhàu nát, chứng tỏ có nhiều vết chân giẫm xéo lên. Lại có những lùm cây bị phát ngang, hình như nơi này đã có những lưỡi dao bén lia thấp là là trên mặt đất.
Quan sát kỹ hơn thì thấy trên đám cỏ dẫm nát đó có từng vệt máu tươi đã đọng lại theo dấu từng bước chân, thiếu nữ đi vòng về phía sau túp nhà cháy, những vệt máu lại còn hiện rõ hơn.
Thiếu nữ áo trắng quay lại nói với mọi người:
- Cái gùi đựng thuốc rơi ở đây chứng tỏ quân giặc đã bao vây Na-Thòn ở đây. Cỏ bị dẫm nát chứng tỏ cuộc giao tranh ở đây rất mãnh liệt, vì Na-Thòn là một tay võ công, kiếm thuật siêu đẳng tất nhiên không chịu nhường tay địch thủ.
Lại còn những khóm cỏ bị phát đứt là là kia, chứng tỏ quân giặc đã dùng mã tấu chém chân ngựa của Na-Thòn. Đây là những đường dao hung hăng của giặc, nhưng chắc là ngựa của Na-Thòn không hề gì, chỉ có những khóm cỏ vô tội bị cụt đầu.
Mạnh Hùng xen vào:
- Như vậy những vết máu có thể là của ai?
Thiếu nữ quả quyết:
- Máu giặc! Nếu Na-Thòn và Bùi Thế Phương bị lưu huyết tất họ phải ngã gục tại nơi đây rồi! Trận này giặc bị quân tiếp viện của ta bao vây, chúng chưa đủ thì giờ thoát thân, có đâu thu dọn xác người, xác ngựa.
Mọi người nhìn Bạch y kỵ nữ khâm phục tài nhận xét của nàng.
Tuy nhiên Mạnh Hùng lại thắc mắc:
- Nhưng nếu Na-Thòn và Bùi Thế Phương không thiệt mạng thì sau trận chiến tất nhiên phải tìm đường trở về với đồng đội. Na-Thòn là người làng ở đây, đường sá rất thông thạo