← Quay lại trang sách

⚝ II ⚝

Sau lần địch càn, làng Cát nham nhở, tang thương hệt trận bão lửa vừa tràn qua. Những gia đình có người chết nuốt hận vào lòng, lặng lẽ đào huyệt chôn cất kẻ xấu số. Bà con đến thăm viếng, chẳng rõ nên an ủi thế nào, chỉ nhìn nhau, gật đầu thông cảm. Quả bóng làng Cát xì hơi, chùng xuống, nhợt nhão...

Song sự sinh tồn không chỉ thói quen cố hữu, một tất yếu, còn là bản năng, còn là vô thức dần dà kéo làng Cát về với nhịp sống thường nhật. Người ta vẫn phải tồn tại, vẫn phải ăn và vẫn phải duy trì mọi sự... Lại lo toan. Lại chạy chợ. Lại bươn bả ra đồng, xuống biển... Công việc chen lấn, đan cài. Cuộc sống như con tàu lăn trên đường ray, theo đà vẫn cứ trôi...

Hôm nay Tư Nhâm ở chợ về muộn. Chị đẩy cổng bước vào nhà. Từ ngày cho con gái xuống dưới quê sống với bà ngoại, mỗi lần ở chợ hoặc đi đâu đó về, chị cảm thấy trống lạnh, căn nhà như rộng ra, thiếu thiếu cái gì. Hồi đầu mới vắng con, nghĩ rằng chỉ một thân một mình, chị sà vào quán, ăn qua quýt thứ gì đó, nhiều lúc chỉ là tấm bánh, tối về chỉ việc tắm rửa, nghỉ ngơi. Nhưng rồi Tư Nhâm nhận ra sinh hoạt như vậy không ổn. Căn nhà không có hơi lửa chẳng những lạnh lẽo, mà còn như thể là sự tạm bợ, buông trôi. Bởi vậy đến bữa, chỉ cho già lẻ gạo vào nồi, chị vẫn buộc mình phải bận rộn.

Tư Nhâm thu dọn quang gánh gọn vào một góc rồi lẳng lặng xuống nhà ngang. Chị đong gạo ra rá, tìm thêm chút bận bịu bằng cách bới tìm những hạt thóc còn sót lại. Chị nhóm bếp. Và ngồi lặng. Trông chị như một cái bóng. Nhìn ngọn lửa liếm quanh chiếc nồi nhôm bé xíu mới sắm, Tư Nhâm thấy nhớ con quá chừng! Hồi chưa về sống với ngoại, bé Thảo thường hét om sòm và tất tả chạy ra đón mỗi lần chị về. Rồi cúi xuống lục lạo thúng mủng xem hôm nay mẹ mua những gì làm quà. Đã hơn mười tuổi vẫn hí hớn như trẻ nít. Vớ được quả mận, quả ổi là chùi ngay vào áo đưa lên miệng cắn. Vừa ăn vừa nói, vừa phô chuyện. Vắng mẹ mới nửa buổi mà như đã lâu lắm. Lúc chị nấu cơm, Thảo ngồi bên cạnh, phụ giúp nhặt rau, làm cá, hoặc lăng xăng chạy ra, chạy vào. Thảo khoái được mẹ sai vặt. Căn nhà ở cuối bãi, gần như tách biệt với xóm láng và chỉ hai mẹ con mà không thấy cô đơn, vẫn vui, vẫn ấm cúng. Hồi mua mảnh đất này dựng nhà, có người hỏi: thiếu đàn ông, sao không tìm chỗ giữa xóm ở, đỡ trống? Lập tức có người dè bỉu trả lời hộ: bởi thiếu đàn ông nên cần chỗ vắng vẻ để các loại giống đực dễ vo ve. Tư Nhâm không tỏ ra phật lòng, cũng không phản đối. Chị cười đau, nhẫn nhịn, cam chịu.

Dưới con mắt thóc mách soi mói của không ít người rỗi hơi ở làng Cát, chị thuộc hạng đàn bà chẳng ra gì. Không chồng mà chửa cũng thường tình, nhưng cứ nhơn nhơn ưỡn vú, cặp mông mẩy dồ ra nhẩy tành tạch, lúc nào cũng háo, lúc nào cũng như có ý mời chào, quyến rũ đàn ông thì khó chấp nhận. Hồi Tư Nhâm mới ôm con về sinh sống ở làng Cát, dò ra biết đây là kẻ lang chạ, không chồng, mấy bà mấy chị hết sức cảnh giác. Họ nơm nớp lo lắng, và rỉ vào tai nhau rằng căn nhà cuối bãi là cái bẫy, là hiểm họa. Người đàn bà còn trẻ, đẹp, lúc nào cũng phây phây, lại chỉ sống với một đứa trẻ non dại, nơi ngôi nhà vắng đó khác gì miếng mồi thơm. Gái một con nom mòn mắt! Bọn đàn ông thì cha nào không khoái hà hít mùi lạ. Mật ngọt khắc chết ruồi... Mà cái ngữ ấy sao không về quê sinh sống, cớ chi ưỡn ẹo dẫn xác tới làng Cát này chớ? - Nhiều bà lo lắng đặt câu hỏi. Trời ơi, không chồng mà vẫn có con sao dám về quê. Về đó rồi họ hàng người ta không tụt quần ỉa vào mặt. Có là đeo mo. Đàn ông nhà mình thì mình phải giữ thôi. Để bọn ấy chui được vào cái rọ đó, coi như mất. - Có người giải thích.

Nghe những lời như vậy, Tư Nhâm thấy tủi; chị cố co mình lại. Với đàn ông, càng giữ gìn. Ra đường gặp họ, đâu dám ngẩng lên chào to, chỉ nhi nhí cho phải phép rồi cụp mắt lủi thật nhanh. Nhưng sự cố gắng ấy càng như thể là cái cớ để đám đàn ông làng Cát tò mò, muốn khám phá. Đã không ít kẻ khát của lạ vờn ve quanh ngôi nhà, có ý thử cái điều dân làng vẫn xì xèo bàn tán. Xã trưởng Trần Nhũng cũng đã mấy lần ngất nghểu dẫn xác đến. Lão ngồi lì hàng giờ, ánh mắt cắm vào cặp mông rắn tròn như hai quả bóng bơm căng của người đàn bà một con, hỏi đủ chuyện. Và gạ gẫm. Gạ rất sỗ. Gạ bằng quyền uy thế lực của mình và điểm yếu của người đàn bà ngụ cư thân cô thế cô không chốn nương tựa...

Sự dị nghị của đám đàn bà và sự cợt nhả của Trần Nhũng cùng đám đàn ông làng Cát, Tư Nhâm chịu được. Chị chịu được vì có chỗ bấu víu, dẫu sự bấu víu ấy chỉ một mình chị hay, song đó là chiếc phao để không chết ngạt trong dư luận, thậm chí lắng nhẹ chút tự mãn. Nhưng những câu hỏi thơ dại của đứa con gái khi đêm đêm mẹ con đã ôm nhau nằm trên giường mới thực sự là những mũi kim đâm vào da thịt.

– Má ơi, thiệt là con có ba hả? Má không được nói dối con nghe.

– Con tin má hay nghe lời nói bậy của mấy đứa nhỏ? Không có ba, sao sinh được ra con?

– Chúng nhiếc con là đồ con hoang. Con hoang tức là không có ba...

Tư Nhâm xiết bé Thảo vào lòng, nước mắt ứa ra. Vừa thương con, vừa nhớ chồng. Đã hơn mười năm qua, không một tin tức của Tư Lăng. Chị thấp thỏm, chơ vơ ngóng đợi như chiếc thuyền con trôi lạc giữa đại dương, chỉ mong thấy bờ. Khi chia tay để theo ô tô ra Quy Nhơn xuống tàu đi tập kết, Tư Lăng ráng nán lại ít phút, vụng về xoa bàn tay thô ráp vào bụng vợ, dặn: “Con trai hay con gái cũng đặt tên là Thảo, nghe em. Thảo là thảo lảo, thảo hiền, là hiếu thảo...”. Tư Nhâm cầm tay chồng cà lên mặt, nén nước mắt vào lòng, “dạ” một tiếng rất mảnh. Đấy là hình ảnh cuối cùng về Tư Lăng lắng lại nơi chị... Đã gần bốn ngàn ngày... Hồi đó, giá anh ở thêm ba hôm nữa, Tư Lăng sẽ được nhìn thấy mặt con. Vậy mà...

– Con có thương má không, Thảo? - Tư Nhâm xoay qua con gái, hỏi nhỏ.

– Con thương má, thương ngoại bằng trời.

– Vậy từ rày đừng vấn má chuyện đó nữa nghe. Ba con là người tốt, thiệt tốt. Con nhớ chưa?

– Sao ba không về với má, với con?

– Ba còn bận việc. Ba phải đi xa... Lớn chút nữa rồi con hiểu.

– Ba già hay trẻ, má? Tư Nhâm bật cười, chị lấy tay lau nước mắt. Mười năm rồi chẳng rõ Tư Lăng có đổi khác, còn ngày ấy, trẻ khỏe, nhanh nhẹn như một con sóc...

– Con giống ba hả má?

– Giống! Soi vào gương con khắc gặp khuôn mặt ba.

– Vậy mà ba cứ đi miết.

– Ngủ đi! Má biểu không được hỏi nhiều mà.

– Con cũng có ba... Con có ba thiệt, má nhỉ.

– Thiệt! - Tư Nhâm vỗ vỗ vào lưng con, và không sao ngủ được nữa. Những lần như vậy, đêm thật dài.

Những ngày đó, khi trăng lên, Trần Nhũng thường mon men tới. Lão gượng gạo rặn cái cười trên đôi môi dày nên trông khuôn mặt bì bì dưới ánh đèn dầu, cứ như mếu. Chẳng là vui, cũng chẳng phải buồn. Cái bụng phưỡn ra tọa trên ghế không làm lão mặc cảm. Lão khoe rằng đã trên sáu mươi nhưng vẫn ăn khỏe, ngủ khỏe. Mụ vợ ba, mắt ti hí, người ngầu ngậu vậy mà cũng xin chào thua, đêm đêm trốn lão, ra phòng ngoài nằm. Lão cười hì hì, hai con mắt híp lại hướng vào cặp đùi Tư Nhâm, ánh nhìn đó như thể mũi dao lách vào cơ thể, phơi trần chị ra. Những lần như vậy, Tư Nhâm sợ hãi, kêu bé Thảo tới và ôm chặt con vào lòng. Bé Thảo là bùa hộ mệnh của chị.

– Đừng ngại! Mụ nhà này không ghen... Đêm đêm không quậy, mụ càng khỏe... Tư đồng ý thì tui kêu người sửa lại ngôi nhà này cho đàng hoàng... Tư cũng khỏi đi chợ... Hai má con tiêu pha đáng là bao, để tui chu cấp... Không cần sống chung với mụ ba nhà này, má con cứ ở đây...

Chị ậm ừ, chẳng ra đồng ý, cũng không hẳn từ chối. Chị tìm cớ hoãn binh. Quyền thế Trần Nhũng vùng này lớn lắm, để mếch lòng lão là gieo tai họa. Bố con lão có từ ai mà không vu vạ, ăn tươi nuốt sống người ta...

Đang xoay xở nghĩ cách ứng đối với Trần Nhũng thì Tư Nhâm gặp Hai Rạng, cũng tại làng Cát này. Cuộc đời sao lắm ngẫu nhiên vậy chớ! Tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa. Tư Nhâm quen thân Hai Rạng từ ngày hai người còn nhỏ xíu. Nhà Tư Nhâm cách nhà Hai Rạng chỉ ba mảnh vườn. Khi Tư Nhâm còn thò lò mũi, Hai Rạng đã biết cắp sách tới trường. Về chiều, mỗi lần Hai Rạng ra bãi đổ dế, Tư Nhâm lẽo đẽo gằn chân chạy theo. Phát hiện ra hang dế mới, Tư Nhâm hí hở gọi: “Anh Hai! Anh Hai!” váng bãi. Rồi chụm đầu hì hụi đổ nước, hí húi đào. Khi dế vọt ra khỏi lỗ, cả hai cùng co cẳng rượt. Vồ không được dế mà vồ vào tay nhau... Hai Rạng chơi dế giỏi nhất vùng. Cuộc chọi nào, dế của Hai Rạng cũng đứng đầu. Những con dế quán quân đó, gã trai thường mang về tặng Tư Nhâm. Cô nuôi nó trong bao diêm, đêm đêm hé mở một lỗ nhỏ để dế ăn sương. Một buổi sáng, mở bao diêm ra thấy con dế cụ cứng đơ, nằm không cựa quậy, Tư Nhâm hốt hoảng bật chạy, đạp qua mấy mảnh vườn, tới đứng ngấp nghé trước cổng nhà Hai Rạng.

– Anh Hai! Anh Hai ơi! - Tay run run cầm bao diêm, Tư Nhâm gọi to và khóc tức tưởi.

Nhà Hai Rạng nuôi nhiều chó. Đánh hơi thấy người lạ là chúng xồ tới, nhe nanh, nhe vuốt gầm gừ dọa. Nên mỗi lần có việc đi qua đó, Tư Nhâm hãi lắm, run rén như kẻ trộm, hoặc ngó trước ngó sau rồi ba chân bốn cẳng chạy thật nhanh. Vậy mà lần này dám đứng ngay trước cổng, réo gọi. Từ trong nhà, Hai Rạng hơ hải chạy ra. Hai Rạng xua đàn chó rồi bước tới. Tư Nhâm chìa bao diêm.

– Làm sao? - Hai Rạng hỏi.

– Con dế... chết rồi!

Hai Rạng mở bao diêm ra xem.

– Thiếu không khí! Để tìm cho Tư con khác, đá còn hay hơn...

– Nhưng tội nghiệp nó!

– Thương hả? Chúng mình làm đám ma cho nó nghe.

Cạnh gốc cây xoan trong mảnh vườn xế đó, bao diêm như chiếc quan tài tí hon được Hai Rạng và Tư Nhâm đặt xuống một hố nhỏ. Đất và mấy chiếc lá phủ lên.

Chiều ấy, Tư Nhâm xách chiếc xô méo xẹo bằng sắt tây, bước thấp bước cao, lẵng nhẵng theo Hai Rạng ra bờ sông. Con dế đực kiếm được lúc xế chiều, quả như Hai Rạng nói, đá rất diệu nghệ, chẳng dế nào thắng nó. Thằng bạn trạc tuổi Hai Rạng ở xóm trên, ham chọi dế như nghiền thuốc phiện, nì nèo gạ đổi chiếc gụ bằng gỗ ổi, khi chơi, xoay tít mù, Hai Rạng lắc đầu. Hai Rạng kiếm hộp giấy, vốn dùng đựng thuốc tây, trổ mấy cửa nhỏ, bỏ dế vào đó, cầm sang cho Tư Nhâm. Song, dế cũng chỉ ở với cô được năm ngày. Lần này tự tay Tư Nhâm chôn cất. Mộ nó được đặt cạnh mộ con dế cụ lần trước.

– Đừng bắt dế chọi nhau nữa, anh Hai. Tội lắm!

Một lần Tư Nhâm bảo, Hai Rạng nhìn cô, cười rất người lớn:

– Tư đa cảm hệt má anh!

Lớn lên, gặp kì loạn lạc, Hai Rạng và Tư Nhâm phiêu bạt mỗi người mỗi ngả. Cô theo ba lên cứ, và từ đó bặt tin Hai Rạng. Mãi sau này, khi hòa bình lập lại đã vài ba năm, có lần, cô nghe ai đó nói rằng Hai Rạng hiện là sĩ quan trong quân lực cộng hòa. Cái thông tin tơ nhện ấy, thoảng đến vô tình, rồi tắt ngay như lửa nến trước gió, không mảy may ấn tượng. Hình ảnh Hai Rạng nhòa dần theo năm tháng, và khi Tư Nhâm lấy chồng, gần như không còn chỗ trong bộ nhớ của cô... Vậy mà, như thể sự sắp đặt có tính định mệnh của tạo hóa, Tư Nhâm gặp lại Hai Rạng trong trạng huống éo le này...

Từ ngày có tin đồn, ngôi nhà cuối bãi đang được thiếu tá Hai Rạng để mắt tới, đám đàn bà làng Cát nhẹ người, thở hắt ra như trút được vật nặng vẫn canh cánh đeo trên vai... Biết ở đó có mật ngọt nhưng đám đàn ông đâu còn nghĩ chuyện sẽ nếm thử. Muốn sập bẫy cũng không dám. Xã trưởng Trần Nhũng biết là mồi ngon, thèm, vẫn cố nuốt ực nước bọt vào họng, cay đắng nhịn...

Tư Nhâm sống yên hơn, nhưng sao rõ đó là họa, hay phúc!

*

Một mình một bóng, Tư Nhâm ngồi lệch bên bàn, chị uể oải lùa cơm vào miệng và lại nghĩ đến bé Thảo. Chị đâu muốn xa đứa con gái bé bỏng, gắn bó với mình như hình với bóng. Bé Thảo không chỉ là niềm vui, nỗi an ủi, còn là nguồn lực, chỗ tựa để chị bíu vào đặng không bị chìm trong hoàn cảnh chơi vơi này... Để bé Thảo về dưới quê là chị cố tình gạt bỏ mọi che chắn, như con thuyền liều lĩnh chặt đứt dây neo, chới với chống chọi giữa đại dương phúc họa khôn lường... Nhưng ở vào hoàn cảnh chị, chẳng thể khác... Thiếu tá Hai Rạng vẫn kiên nhẫn với tình cảm mà chị rõ là hết sức chân thành. Bằng nhạy cảm của người phụ nữ, Tư Nhâm nhận ra tình yêu nơi anh... Kỷ niệm cũ xưa và hoàn cảnh hiện tại là cái cớ thuận chiều để người đàn ông này có lý nghĩ về một kết cục có hậu... Và nữa, chẳng đã có lúc chị giật mình mặc cảm rằng, nói dối mãi con người với tình cảm chân thành này như thể là có lỗi. Không hẳn trong chị đã không có những khoảng thời gian thoáng chút bối rối, nơm nớp lo lắng về một tai họa mơ hồ nào đó. Và chị sợ... Con người chị vốn yếu đuối... Rồi với những nhận biết về tâm trạng lo sợ ấy nơi mình, chị đã mấy lần đề nghị với Sáu Sinh cho chị được ra cứ. Đó là giải pháp chị nghĩ hữu hiệu nhất. Nhưng mỗi lần chị nằn nèo trình bầy, Sáu Sinh chỉ lần lữa hứa... Thời gian không ủng hộ. Hầu như tối nào Hai Rạng cũng tới... Anh van vỉ, cầu xin... Vụng về nhưng chân chất, cảm động...

Lần gặp Sáu Sinh gần đây, chị đã nói như là khóc:

– Chú ơi, chú không thương con sao? Sáu Sinh thở dài:

– Chú thấu nỗi khó xử của mày... Nhưng... Khó quá ha... Thôi được, cứ cho bé Thảo về dưới quê, rồi chú tính...

– Dạ! - Tư Nhâm như chết đuối vớ được cọc.

– Mày nghĩ mày ở trong tình trạng này, chú không khổ tâm sao, Tư?... Công việc sắp tới rất cần đến cháu...

Chị rõ tâm trạng người Bí thư Tỉnh ủy chớ! Dễ gì có được một cơ sở với vỏ bọc ngon lành như Tư Nhâm ở làng Cát, vùng chiến lược ven biển này... Khó khăn lắm, công phu lắm chú Sáu mới cài được chị về đây. Chị chưa làm được gì cho tổ chức, nhưng như chú Sáu nói, nuôi quân ba năm chỉ cần dùng một lần...

Sáu Sinh đi rồi, Tư Nhâm thừ ra, thương chú, lại thương cho hoàn cảnh éo le của mình... Và trong nỗi bất định ấy, chị luýnh quýnh sắp xếp để con gái về quê sống với mẹ... “Được ra cứ là êm xuôi mọi chuyện” - Chị thở dài và nghĩ.

Tư Nhâm lùa nốt bát cơm rồi đứng lên thu dọn. Chị rõ tối nay Hai Rạng lại tới. Chị luống cuống không thật rõ mình mong chờ hay lo sợ. Nhưng điều này thì chị biết, từ ngày Hai Rạng xuất hiện, cuộc sống của chị hình như có xáo trộn. Chí ít con người này đã đánh thức, làm sống dậy trong chị cả một quãng tuổi thơ ngộ nghĩnh và vô tư, chân trần lăng tăng trên cát, hơ hải trước gió, trước nắng... Dòng sông, khu vườn, và cả đàn chó vẫn xồ ra nhe răng trêu Tư Nhâm, tất cả ngỡ đã quên, bỗng chốc hiển hiện thành kỷ niệm...

Nghe tiếng động cơ xe máy dừng trước cổng, Tư Nhâm khẽ thở dài.

– Tư ở nhà không? - Giọng người đàn ông xởi lởi cất lên. Chị vuốt nhẹ mái tóc, bước ra:

– Chào thiếu tá! - Chị nói, cũng nhận ra giọng mình không thật. Nó lạc lạc thế nào...

Hai Rạng dựng chiếc Hon đa sát hiên nhà, bước vào:

– Thiếu tá! - Anh cười, nụ cười rất tươi và thỏa mãn. - Tôi nói nhiều lần mà em đâu có nghe. Gọi bằng thiếu tá xa lạ và kỳ quá... Sáng nay tôi cũng qua mà em đi vắng.

– Thiếu tá cũng có nhiều thời gian vậy sao?... Tôi đi viếng mấy người chết do lính của thiếu tá bắn đó...

– Chiến tranh mà, khó tránh... Nào có ai muốn vậy... Nhưng... Tôi cũng buồn lắm. Bản tính tôi, chắc em rõ. Hai đứa đâu mới quen nhau... Chúng mình đã có một thời tuổi thơ... Ta nói chuyện khác nghe Tư.

« Sửa lần cuối: 31 Tháng Bảy, 2009, 10:27:04 PM gửi bởi LuuHuongSoai »       Logged

Hiên ngang trước cửu trùng

Lạnh lùng nhìn trần thế

LuuHuongSoai

Cựu chiến binh

*

Bài viết: 1111

Re: Sóng chìm- Đình Kính

« Trả lời #11 vào lúc: 31 Tháng Bảy, 2009, 10:00:35 PM »

Tư Nhâm im lặng. Chị ngồi xuống phía bên kia bàn, trước mặt Hai Rạng, lúng túng rót nước.

– Em còn nhớ thời lẽo đẽo chạy theo bọn con trai ra bãi bắt dế nữa không?... Vậy mà đã bao nhiêu là thời gian rồi. Đời người thiệt ngắn... Không có loạn li, không có chiến tranh khiến mỗi đứa một nơi, cảnh ngộ chúng mình chắc đã khác... Những năm kế đấy tôi vẫn có ý tìm em suốt đó chớ.

Tư Nhâm cố nén hơi đang dồn lên lồng ngực để khỏi bật ra:

– Đã mấy chục năm... thiếu tá nhắc lại chi...

– Người ta có số cả, là tôi nghĩ thế. Thời trước ông già có ý cho tôi học trường “Bách nghệ”, ai dè lại vô lính, rồi đi học trường võ bị, loay hoay thế nào lại về đây và gặp em... Định mệnh cả, đúng không? Đời tôi vẫn còn may mắn.

– Thiếu tá cứ giễu hoài... Loại đàn bà không chồng mà có con đáng giá gì!

– Tuổi trẻ ai chẳng có lúc bồng bột, vấp váp. Đàn bà như em, được mấy người... Tôi ái mộ là ái mộ thiệt lòng, muốn được cùng em làm lại cuộc đời, phải đâu hạng lừa lọc, chơi bời... Chẳng rõ sao khi gặp em, tôi lại muốn có một gia đình...

– Thiếu tá đừng nói vậy... Phụ nữ đã mất danh tiết...

– Trước đây em đâu là người mặc cảm cố chấp hoài vậy, Tư? Chuyện đã qua thì cho qua luôn. Chỉ cần tôi hiểu em, tôi thông cảm, thương em là đủ... Mà bé Thảo cũng phải có người đàn ông để nó kêu bằng ba chớ.

Tư Nhâm khẽ rùng mình. Rất nhanh, có cái gì đó như thể là nỗi lo sợ vô cớ ập tới, len vào, tỏa ra... Hình ảnh Tư Lăng với bàn tay vụng về xoa xoa lên bụng vợ hôm anh đi tập kết cách đây hơn chục năm như một cuộn băng được tua lại. “Con trai hay con gái cũng đặt tên là Thảo nghe, em”... Tư Nhâm thoáng bối rối. “Bé Thảo có ba chớ. Ba bé Thảo là người đàn ông tốt” - Chị tự nói với mình để trấn an...

– Sao em làm thinh vậy... Tôi nói không đúng sao? Tôi yêu quý bé Thảo và muốn làm ba nó, vậy mà em luôn ruồng rẫy, xua đuổi tôi. Tại sao vậy, Tư? Tôi đã làm gì để em coi thường? Có phải lỗi của tôi

là quá si mê em? Nếu vậy xin em nói một câu, chỉ cần em nói rằng tôi là kẻ xấu xa, không xứng với em, tôi sẽ đi ngay...

“Trời ơi!” - Tư Nhâm khẽ lắc đầu một cách vô thức. Nhưng giọng chị lại khác, tỉnh queo:

– Thiếu tá nặng lời rồi... ở vùng này, ở thị trấn này nhiều cô gái trẻ đẹp muốn được thành hôn với thiếu tá mà... Tôi là gái lỡ lầm... Thiếu tá đừng theo đuổi nữa...

– Không theo đuổi nữa? Tại sao? Tại sao chớ? Hay tôi không phải là một thằng đàn ông?... - Hai Rạng nhìn Tư Nhâm, ánh mắt vừa như cầu xin, lại có cái gì bực bõ. - Em nói đúng, ở cái thị trấn này, ở cái làng Cát này, chỉ cần tôi nhẹ búng tay, nhiều cô gái sẽ chạy theo. Tôi có thế. Tôi có quyền. Nhưng tôi không thể... Quên em ư? Phải, giá như tôi may mắn có cái khả năng ấy... Trời hành mà... Tôi có lỗi gì chớ?... Em mặc cảm về mình, vậy em nghĩ tôi cao giá lắm sao? Tôi cũng là thằng đàn ông đã từng có một đời vợ... Một mụ đàn bà lăng loàn, đỏng đảnh... Bởi đã từng sống với người đàn bà như thế nên tôi mới thực sự rõ giá trị em có...

Tư Nhâm nói như kẻ vô hồn:

– Nói chi những điều ấy, thiếu tá...

– Khi người đàn bà đó vơ mọi thứ trong nhà, bỏ đi theo trai, mà theo ai, theo thằng đại úy bạn thân của mình mới đau chớ, tôi đã thù ghét đàn bà... Tôi túc trực ý thức coi thường, khinh bỉ... Để đỡ đau lòng, tôi xin chuyển đến vùng cát ven biển này... Ai dè tôi gặp lại em. Em đã đánh thức những gì nhân hậu trong tôi... Em là cứu cánh của tôi, Tư ạ... Em rõ em có ý nghĩa thế nào đối với cuộc đời tôi không? Vậy mà tôi đưa quà nhờ em có dịp biếu ngoại bé Thảo, em trả lại. Tặng em vật kỷ niệm, em từ chối... Tôi muốn được em cho về dưới quê chào ngoại bé Thảo, em không nghe... Tôi biết làm gì để em vui đây, Tư?

– Thiếu tá thỉnh thoảng ghé lại thăm, với gái này đã là hân hạnh...

Tư Nhâm buông một câu sáo mòn vô hồn, trơn tuột, cũng không thật rõ mình nói gì. Chị giống cái máy lắp sẵn chương trình, ấn nút liền buột ra những lời vô cảm.

Mỗi lần Hai Rạng tới rồi nuối tiếc, khó hiểu và thất vọng ra về, Tư Nhâm giống cái bóng ngồi lặng trên ghế, mệt mỏi như một diễn viên không chuyên vào vai thiếu thuần thục, buộc phải lên sàn diễn. Nhiệm vụ của chị là đọc những lời thoại khô cứng, áp đặt, không phù hợp trong một kịch bản tồi. Đã từ lâu chị không được sống đúng như bản tính mình nữa. Chị là diễn viên, cuộc đời là sân khấu. Chị phải tuân thủ, phải ý thức vai trò đó. Có những lúc chị hoang mang không phân định được một cách rành mạch những cuộc đối thoại của chị với Hai Rạng là thật hay giả. Đó là đời hay vai diễn. Điều nghiệt ngã là giữa đời thường và sự nhập vai cứ đan cài trộn lẫn, khó phân biệt rạch ròi để rồi buộc người ta đáng ra có thể sống thật hơn, đơn giản hơn, cởi mở hơn lại phải giữ miếng, lừa nhau. Hoàn cảnh đã tạo nên những nhầm lẫn thật trớ trêu...

Những đêm vắng con, khi Hai Rạng đã ra về, trằn trọc một mình trên giường, Tư Nhâm không sao ngủ được. Chị nghĩ mông lung đủ điều. Và cuối cùng, bao giờ cũng vậy, dù đã cố kìm chế bằng vai trò thực tại mình đang cõng trên vai, người đàn bà trong chị với bản năng giới tính mạnh mẽ bị kìm nén lại có cơ bị đánh thức. Vẫn có một tiềm ẩn nào đó, giống như mạch nước ngầm âm ỉ bấy nay cứ xuyên qua cơ thể, đòi hỏi, thúc ép, khiến chị choáng váng, máu dồn lên mặt, nhức buốt... Chị vật vã, giải tỏa bằng những kỷ niệm chắp nối rời rạc. Nhưng hình bóng Tư Lăng cường tráng liều lĩnh chỉ kịp giật tuột chiếc quần, mạnh mẽ đổ vào chị đam mê cuồng dại trong những đêm hai người gặp nhau vội vã sau lần anh đi đâu đó về cách đây đã lâu lắm, mờ nhạt, không lấp kín những khát thèm bản năng rát bỏng. Tư Nhâm chống chếnh, bải hoải, thân xác cứng đờ, lại nhão ra. Chị liền liều lĩnh tưởng tượng tới những điều cụ thể, gần gũi hơn đâu đó, nhưng sự nghĩ ấy, hệ quả của một ước thèm, cũng xa vời, mông lung không làm mờ tan những đòi hỏi rắc rối chập chờn, nhưng có thật... Chị ương ngạnh chống chọi, cố xua đi những ảo giác, gắng quay về với hoàn cảnh thực, trong vai trò chênh vênh của mình, nhưng bản năng tiềm ẩn sức mạnh khó lường lại có bóng tối và nỗi cô đơn làm đồng minh nên ít khi chị thành công. Chị vẫn bị hành hạ... Những lúc chới với mệt mỏi trong cuộc giằng co bất lực đó chị vùng dậy, một mình đi lang thang hành xác ngoài bãi, tự phơi thân dưới ánh trăng, hoặc lột bỏ quần áo, ngâm mình xuống nước nhờ sóng vuốt ve, mà nghĩ về những điều không có thật để hôm sau lại nhập vai trong thói quen đã thành ý thức...

*

Dân trong vùng gọi Lân Cồ bằng cái tên nôm na: chợ Cá. Gọi vậy có lý bởi mấy thứ người làng Cát kiếm được từ biển, hết thảy đều mang lên chốn này bán. Muốn sắm bộ quần áo, cái giường, cái rổ, cái rá, thếp giấy... phải lên đó. Chỗ mua bán thì gọi là chợ. Cũng có người kêu Lân Cồ là thị trấn. Nhưng trong bản đồ hành chính, Lân Cồ được định danh bằng cái tên chẳng ra ta cũng không phải tây tầu: Thị tứ. Lân Cồ không rộng, nhưng nằm kề quốc lộ, tiện giao thông, lại khít bên làng Cát, một làng biển có nghề đánh bắt hải sản lâu đời nên người tứ xứ khôn ngoan kéo về đây sinh cơ lập nghiệp. Họ thu gom tôm cá chất lên xe chở đi và tha lôi đủ thứ đồ nhựa, đồ ni lông và vô số mặt hàng làm từ bên Mỹ, Thái Lan, Phi Luật Tân... về. Từ ngày có tiểu đoàn Rồng Biển, tiểu đoàn lính chính quy của thiếu tá Hai Rạng đóng quân, Lân Cồ càng sầm uất. Nhiều quán giải khát, quán bar, phòng nhảy mọc lên. Gái tứ chiếng đánh hơi được có chỗ kiếm ăn cũng hấp hởi đua nhau lượn đến. Lính có nhu cầu gì, những người chuyên kinh doanh thính nhạy đáp ứng liền. Có cầu khắc có cung. Tối đến Lân Cồ náo nhiệt. Âm thanh từ những chiếc loa thùng mới tậu được vặn hết cỡ tràn ra đường. Đèn xanh đèn đỏ nhập nhòa. Các quán nhậu gần như mở thông đêm. Khách vẫn là lính Rồng Biển, bảo an, dân vệ...

Hai Rạng về tới đồn, trời đã khá khuya. Anh vừa dựng xe bên phòng thì gã hạ sĩ công vụ chạy tới:

– Thưa, có đại úy Ba Hoàng vẫn chờ thiếu tá tại phòng khách...

Hai Rạng không đáp, anh lẳng lặng đẩy cửa bước vào. Ba Hoàng vội đứng lên:

– Thưa thiếu tá...

– Có việc gì gấp vậy? Khuya rồi... Ngồi đi!

Hai Rạng vào phòng trong, thay bộ Pi-za-ma, bước ra.

– Làng Cát lâu nay không an toàn, nếu xuống đó, thiếu tá cần cẩn thận, và nên đi bằng ôtô.

– Đó là chuyện riêng của tôi. - Hai Rạng ngồi xuống ghế, đối diện

với Ba Hoàng, giọng không mấy vui. - Đại úy gặp tôi chắc không phải vì việc đó!

– Dạ đúng, thưa thiếu tá... Mụ Tư Đởn...

– Sao?

– Mụ ấy chết rồi...

– Chết rồi?... Tắc trách, hết sức tắc trách! Tôi đã nói hoài mà mấy ai nghe. Họ là dân đen, họ không phải đối tượng... Mục đích đâu phải mấy người đàn bà đó mà là những kẻ cầm đầu, những kẻ nguy hiểm...

– Thưa thiếu tá, loại người như Tư Đởn cũng hết sức nguy hiểm, phải dằn mặt. Đành rằng tụi lính của tôi có quá tay, nhưng...

– Quá tay! Tính mạng một con người mà dửng dưng vậy sao? Đại úy đã nghe câu này chưa, tạo ra lửa, lửa sẽ liếm mặt... Vụ bắt bớ, tàn sát ở làng Cát vừa qua chắc cũng vì quá tay? Đại úy đã nghe dân làng Cát đang réo Quốc gia là bất nhẫn chớ? Muốn thắng trong cuộc chiến này phải được lòng người.

– Dân làng Cát vốn có thâm thù với Quốc gia...

– Bởi sao? Bắn giết vô cớ. Bởi coi mạng người quá nhẹ. Đại úy chớ cài thù riêng vào sứ mệnh Quốc gia nghe. Đôi bên càng đua nhau giết hại càng thêm oán thù.

– Với loại cứng đầu phải có biện pháp rắn... Thưa, tôi định sáng mai đưa xác mụ Tư Đởn về làng Cát, nhân đó răn đe... Muốn trình thiếu tá.

– Răn đe? Đó đã phải biện pháp hay?

– Tôi là người làng Cát, nên tôi rõ người làng Cát. Càng nhu nhược, dân ở đó càng lấn tới, và nhờn.

– Không đơn giản như đại úy nghĩ đâu. Triết lý phương Đông là lấy nhu chế cương...

– Nếu thiếu tá cho phép... Biện pháp nào phục vụ lý tưởng Quốc gia hữu hiệu đều cần thực thi.

– Câu đó trong kinh thánh là: để đạt được mục đích, biện pháp nào cũng tốt!

Ba Hoàng đi rồi, Hai Rạng ngả người ngồi lặng trên ghế. Thằng cha cà trớn, dựa thế là người của đại tá Hưng nên hay làm càn - Hai Rạng bực bõ nghĩ. Hai Rạng vốn không ưa những biện pháp bạo lực một cách thái quá mang tính vô chính phủ, hằn học, trả thù cá nhân. Mục đích của Hai Rạng rất rõ ràng, bổn phận là phụng sự lý tưởng tự do của Quốc gia và sự phồn thịnh của dân tộc trong ý thức văn hóa và nhân văn. Với Cộng sản phải kiên quyết tiễu trừ, vì đó không chỉ là mầm họa trước mắt mà còn là mầm họa lâu dài nhằm bảo vệ sự tồn tại chính đáng của chính thể cộng hòa theo đường lối tự do trong một lãnh thổ độc lập, nhưng như vậy không có nghĩa phách lối, dọa nạt và có những hành vi vô luân với dân thường. Dân bao giờ cũng là gốc của mọi sự. Vừa phải cải hóa họ vừa phải biết dựa vào họ. Không ý thức được điều đó khó bề giành thắng lợi trong cuộc chiến dai dẳng giằng co này. Đã nhiều lần Hai Rạng trình bày quan điểm của mình trước thượng cấp và đồng nghiệp. Nhiều người ủng hộ, nhưng không ít kẻ dè bỉu cho rằng Hai Rạng nhu nhược, thiếu tư chất mạnh mẽ quân nhân và sự quyết đoán cần thiết nhiều lúc buộc phải nhẫn tâm của một sĩ quan quân lực cộng hòa. Tuy vậy cấp trên và cả các chiến hữu đồng liêu, đồng niên không ai không thừa nhận Hai Rạng là một sĩ quan có học, hăng hái và mẫn cán. Ngay Ba Hoàng, phó của Hai Rạng không mấy ưa cách xử sự nhiều khi thiếu kiên quyết, nửa vời của viên thiếu tá, nhưng trong thâm tâm kẻ vô chữ này vẫn có chỗ giành để quy phục, nể trọng. Không hẳn vì Hai Rạng là cấp trên trực tiếp của y, mà bằng những nhận biết bản năng vô thức, Ba Hoàng rõ rằng Hai Rạng là người hết lòng vì lý tưởng Quốc gia. Con người này am tường nhiều điều và biết áp dụng những kiến thức đó trong điều hành, trong chỉ huy. Và nữa, Ba Hoàng quá rành rằng Hai Rạng là người đàng hoàng, dửng dưng với những nhu cầu vật chất. Không cầu cạnh, không ham hố quyền chức, cũng không trai gái, cờ bạc, rượu chè như phần đông các sĩ quan khác. Thời Hai Rạng mới được điều về đây, viên đại úy hết sức ngạc nhiên khi thấy những lúc rảnh rỗi, Hai Rạng tự giam mình trong phòng và chỉ làm một việc là chúi mũi vào sách vở. Hai Rạng nghiền sách như người khác nghiện ma túy, nghiện gái...

... Hai Rạng đổ người ra ghế, với tay lấy cuốn Bàn về chủ nghĩa duy vật vẫn để cạnh bàn. Viên thiếu tá có thói quen đọc một cái gì đó trước khi đi ngủ. Nhưng khác với mọi bận, tối nay những con chữ chỉ lướt qua một cách vô hồn, vô nghĩa. Mắt dán vào trang giấy nhưng đầu óc Hai Rạng lại mông lung nghĩ đến chuyện khác. Hình ảnh Tư Nhâm, rồi hình ảnh người đàn bà đã công khai đoạn tuyệt với Hai Rạng thậm chí ngang nhiên đi theo viên đại úy dù to con chập chờn chắp nối hiện lên, lướt qua... Cuộc đời cứ như trò bỡn cợt tinh quái của thượng đế, ngỡ rối rắm ngẫu nhiên, nhưng xét kỹ thì không phải thế, mọi sự ở đời có lẽ đã được sắp đặt sẵn trong một trình tự định mệnh bởi bàn tay nhào nặn vô hình có quyền năng tối thượng nào đó. Tình cờ gặp lại Tư Nhâm tại làng Cát, viên sĩ quan cho rằng đó cũng là sự sắp xếp thú vị có chủ ý của số phận. Và Hai Rạng tin vào kết quả của sự sắp xếp đó. Con người Tư Nhâm, bằng những gì Hai Rạng cảm nhận hình như đã tạo nên một trường lực làm xáo trộn, làm thay đổi cuộc đời vốn đơn điệu có cái gì đó, nói như bạn bè vẫn giễu, nhàn nhạt và bất cần nơi anh. Hai Rạng cũng ngạc nhiên nhận ra sự khác lạ trong mình. Chưa bao giờ anh có tình cảm mãnh liệt, say mê, đắm đuối dằn vặt đến khổ sở như thế. Ngay cả lần yêu đầu tiên, tình cảm ấy hình như cũng chỉ là một tia chớp tựa sự ngẫu hứng nhất thời, một bản năng đã trở thành thói quen vốn hình thành ở con người trong quá trình tiến hóa. Nhưng tình yêu đối với Tư Nhâm khác hẳn. Nó vừa là nhu cầu tự thân, vừa là định mệnh. Nó đan xen giữa những kỷ niệm, những tình cảm đã có đến lúc trỗi dậy và những tình cảm mới hình thành do va đập và trải nghiệm. Nó hòa trộn giữa sự khát thèm bản năng giống đực trước con cái có nhiều khả năng gợi mở nhu cầu đực cái cộng ý thức người lượm lặt qua sách vở. Tình yêu của Hai Rạng vừa ẩn chứa nét lãng mạn vừa mang sắc thái đời thường. Đau khổ và hy vọng. Thấp thỏm và lo lắng. Tư Nhâm càng có ý ngại ngần mặc cảm, Hai Rạng càng cuống quýt, mê cuồng... Tình yêu là gì, Hai Rạng không thể lý giải. Trước khi gặp lại Tư Nhâm anh chưa bắt gặp tình cảm như vậy. Thời Thiện Trang bỏ Hai Rạng theo người đàn ông khác, nói rằng không đau, không đúng, nhưng chỉ thời gian rất ngắn anh đã nguôi ngoai, lấy lại được thăng bằng. Sự không chung tình của người vợ khiến Hai Rạng trở nên lạnh lùng dửng dưng, chán ghét đàn bà trong ý thức tự trọng chứ không hành hạ anh về mặt tinh thần cũng như thể xác. Thậm chí có lúc anh quên rằng mình đã từng có một đời vợ. Tình cảm dửng dưng ấy phải chăng bởi giữa anh và Thiện Trang có quá nhiều sự khác biệt trong lối sống hay vì tình yêu đến chóng vánh nên ra đi cũng vội vàng? Những năm đó, lúc còn đồn trú tại thành phố biển Nha Trang, Hai Rạng là một sĩ quan trẻ, hào hoa. Anh có khuôn mặt đượm buồn hao hao khuôn mặt các thi nhân thời trung cổ và ánh nhìn ngơ ngác ngây thơ. Nhưng nét ngu ngơ ấy lại gây được sự chú ý của phái đẹp. Các cuộc vui ở câu lạc bộ quân nhân, nhiều cô, nhiều bà muốn được anh mời nhảy. Hai Rạng có bước đi đẹp, cái hất mặt điệu đà gây ấn tượng, phong thái lịch lãm. Những lúc vắng anh trên sàn, người ta cảm giác như hôm đó thiếu thiếu cái gì...

Anh và Thiện Trang gặp nhau trong một lần anh mời cô nhảy. Đúng hơn là cô gợi ý để buộc anh phải mời cô. Hai người làm quen rất nhanh. Hết điệu tăng gô anh đưa Thiện Trang lại bàn và gọi cho cô sôđa, còn mình uống một ly nhỏ rượu nhẹ. Thời gian uống hết ly nước và những câu chuyện chắp nối đủ tin cậy để Thiện Trang nhờ Hai Rạng đưa mình về. Họ đi dọc bãi biển. Bàn chân lún trên cát. Đêm về nước đứng, sóng lười nhác mài lên bãi, âm thanh nhè nhẹ tựa hơi thở mệt nhọc, cảm giác đại dương đang liu thiu ngủ. Thiện Trang thú nhận rằng cô để ý đến anh đã lâu. Hai Rạng cười, cho rằng người đẹp giễu mình.

– Yêu nhiều rồi mà không hiểu tâm lý phụ nữ.

– Yêu ư? Đời lính tội nghiệp mà.

– Xạo... Người như anh các quý mợ ở phòng trà lại buông tha?

– Nghĩa là sao?

– Anh chưa đến với đàn bà thiệt?

Hai Rạng không hiểu. Anh dừng lại, nhìn ra biển. Ngoài xa, thuyền câu mực đỏ đèn như sao sa.

– Trả lời đi chớ!

– Trả lời?... Tôi là kẻ vô duyên...

Câu chuyện nhấm nhẳng không đâu vào đâu đại loại như vậy đưa họ đi hết bãi biển. Đến mút con đường, Thiện Trang chủ động vòng trở lại. Hai Rạng ngoan ngoãn bước theo.

– Nhà Thiện Trang ở đâu?

– Anh vội?... Em muốn đi suốt đêm nay... Biển đẹp quá... Anh không thấy vậy sao?

... Sau ngày cưới, hình như hai người vẫn chưa hiểu hết về nhau. Đêm tân hôn Hai Rạng lóng ngóng hệt một gã trai mới lớn. Khi nhìn thấy cơ thể lăn lẳn của Thiện Trang không một mảnh vải trên người trắng hồng, thành thạo và chủ động phơi dưới ánh đèn ngủ, anh ngợp, thở gấp, run lên luống cuống. Máu dồn lên đầu, anh hấp hả quờ quạng, rồi líu ríu trườn lên. “Không phải vậy! Không phải vậy!” - Thiện Trang sợ hãi la to. Nhưng cô đã không cứu vãn được tình thế. Sự phấn khích thái quá trong nỗi ham muốn ít chuẩn bị của người đàn ông nơi Hai Rạng khiến khúc dạo đầu thất bại. Hai Rạng đã ném đá vào chỗ không người. Thiện Trang nhanh chóng hiểu điều gì xảy ra. Cô thất vọng vùng dậy, khoác vội chiếc áo liền váy mỏng tang, và mặc cho Hai Rạng lỉu xỉu ngơ ngác, cô chán chường rời giường ngủ và bực bõ đổ xuống chiếc xa lông. “Đụt!” - Từ cổ họng Thiện Trang vô thức buột ra một tiếng. “Anh xin lỗi. Anh sẽ...” - Hai Rạng buồn bã nói, tỏ ra là người biết lỗi và gượng gạo mon men lại gần vợ. Thiện Trang khẽ thở dài, không để ý đến sự vò đầu bứt tai hối lỗi của anh, cô với cốc nước trắng rồi lẳng lặng bước ra hành lang, nhìn xuống biển... Nhưng những hôm sau tình thế khác hẳn. Thiện Trang đã khôn ngoan và kinh nghiệm biến Hai Rạng thành con gấu dũng mạnh sung sức. Anh lấy lại được phong độ một con đực khỏe mạnh, đam mê. Song mọi nỗ lực cũng chỉ đáp ứng được phần nhỏ sự ham muốn có cái gì đó thái quá ở người vợ trẻ. Hai Rạng hết sức ngạc nhiên về sự đòi hỏi của Thiện Trang. Trời phú cho người phụ nữ này năng lực ít thấy. Nhu cầu của cô gần như vô tận. Cô không chấp nhận có khoảng trống nghỉ ngơi. Đêm nào Thiện Trang cũng vần vò và hành hạ Hai Rạng bã bời. Anh đã gắng, nhưng mọi sự cố sức chỉ là muối bỏ bể. Sáng ra anh tã tượi liêu xiêu ra khỏi nhà, đó là khoảng thời gian Thiện Trang thư giãn nghỉ ngơi hồi lại sức để đêm đến chủ động thả phanh làm con cái hung dữ...

Cuộc sống gia đình dịu ngọt, hạnh phúc. Tối tối hai người đưa nhau đến quán trà, đến câu lạc bộ. Thời đó Nha Trang vẫn yên ả. Tin tức về những cuộc đụng độ đâu đó với Việt Cộng vọng tới không làm thành phố mất đi những cuộc vui. Bãi tắm vẫn đông khách. Quán bar tấp nập người vào ra. Câu lạc bộ quân nhân ít khi vắng mặt các sĩ quan. Và đường phố vẫn vờn ve, dìu dặt gái điếm... Hai Rạng vốn ít có nhu cầu, anh bằng lòng với cuộc sống dung dị của mình. Thiện Trang lại khác, hình như vẫn có cái gì đó chưa thỏa mãn. Cô mua sắm ngày mỗi nhiều. Vài ba hôm lại tậu một bộ quần áo, loại xịn, đắt tiền. Giầy, dép không còn chỗ cất... Và thích xuất hiện ở các vũ trường. Hầu như đêm nào cũng bắt Hai Rạng đưa tới. Giờ nghỉ giữa hai cuộc nhảy cô không uống sôđa nữa. Cô khoái rượu mạnh. Hai Rạng có những dấu hiệu mệt mỏi. Anh đề nghị mỗi tuần chỉ đến vũ trường hai lần. Anh muốn có thời gian đọc sách. “Em đành đi một mình vậy.” Mọi chuyện nảy sinh từ đó. Gã đại úy dù đầu tiên chỉ xuất hiện trong câu chuyện kể của Thiện Trang.

– Lão ấy mời em nhảy, rồi mời đi dạo bãi biển... - ở vũ trường về Thiện Trang tụt váy áo ra sàn, hăm hở khoe - Trông bộ ga lăng lắm.

– Em đang nói tới ai? Bạn mới phải không? Và hôm sau:

– Hắn nói rằng hắn biết anh!

– Ai?

– Cha đại úy dù. Hình như hai người cùng học ở trường võ bị... Lão mới chuyển qua Nha Trang, làm công tác tham mưu ở quân đoàn Hai...

– Vậy à? - Hai Rạng đặt cuốn sách xuống xa lông - Em biết anh ta học khóa mấy không?

– Lão có cái tên rất điệu đà, Nguyễn Long Trần Hùng.

– à, thằng Hùng cồ. Cao to và tán gái rất mả...

– Coi bộ cũng dễ thương...

Những hôm kế đó mãi gần sáng Thiện Trang mới mò về. Khác với mọi lần, cô không hành Hai Rạng nữa, thậm chí khi anh có ý hỏi chuyện, cô mệt mỏi ngáp:

– Ngủ nhé... Em mệt lắm.

Thiện Trang thiếp đi rất nhanh. Sau đó là chuỗi ngày Hai Rạng chong đèn chờ vợ nhưng Thiện Trang không về. Cô có nhu cầu đi cách đêm...

Chừng tháng sau, buổi chiều, khi Hai Rạng vừa ở nhiệm sở về đã thấy Thiện Trang ngồi ở phòng khách có ý chờ. Cạnh cô là mấy chiếc va ly khá to. Hai Rạng ngạc nhiên:

– Em định...?

Thiện Trang không mảy may bối rối, cô chỉ chiếc ghế:

– Anh ngồi... Em muốn nói chuyện với anh... Em không thích biến mình thành kẻ dối trá. Anh không đáng phải chịu như vậy. Em sẽ đi khỏi đây...

– Thằng Hùng phải không?

– Chẳng ai có lỗi trong chuyện này. ừ, cứ cho rằng em là kẻ phiêu lưu... Nhưng cuộc đời ngắn lắm... Em thừa nhận mình ích kỷ. Em chỉ sống cho bản thân, chỉ nhằm thỏa mãn mình... Em không rõ rằng đó đã phải tình yêu chưa, nhưng thấy hợp, thấy không thể thiếu con người đó. Em cần người đàn ông ấy... Anh thứ lỗi nhé.

Giọng Thiện Trang ráo hoảnh. Sau này khi đã an bài, Hai Rạng có thù hận nhưng cũng thầm cám ơn sự sòng phẳng trung thực ở người phụ nữ đa tình này.

Hai Rạng trốn khỏi Nha Trang vì nhiều lẽ. Anh muốn ẩn mình. Anh muốn quên quãng thời gian ngắn ngủi có nghĩa và vô nghĩa vừa qua. Hai Rạng cần tập trung tâm lực vào công việc phụng sự lý tưởng Quốc gia... Ai dè... Nếu mỗi cuộc đời đều đã được định sẵn thì rõ ràng việc gặp lại Tư Nhâm ở làng Cát là nằm trong sự sắp đặt ấy. Nó làm đảo lộn tình cảm và cuộc sống của Hai Rạng thì đó là lẽ hiển nhiên... Hai Rạng tin như thế.