← Quay lại trang sách

⚝ III ⚝

Khu rừng có cái tên là lạ, rừng ẩn. Có người kể, xưa kia đây là chốn cư ngụ ẩn nấp của nhiều loài thú dữ, chúng thường về làng quậy phá, gây lắm hiểm họa. Thậm chí đã có kẻ mất mạng. Lại có người nói khu rừng là nơi ẩn náu của bọn đạo tặc, thảo khấu, bọn tội phạm chống đối triều đình. Ban ngày chúng ẩn trong những hốc cây hẻm núi, đêm về túa ra đường cái cướp bóc. Dân trong thị tứ Lân Cồ thì giải thích, hồi đánh Chiêm Thành, Lê Thánh Tông đã bí mật lấy khu rừng nay làm điểm giấu quân, ẩn tướng nên mới có tên rừng ẩn. ở làng Cát vẫn lưu truyền câu chuyện rằng, thủa xửa xưa khi làng Cát và Lân Cồ chưa mang tên, còn hoang sơ, chỉ là đám bùn lầy lội, có đôi vợ chồng trẻ nọ từ đâu xa lắm kéo tới lập nghiệp. Năm tháng qua đi và họ sinh hạ được hai cậu con trai rất khôi ngô tuấn tú. Chồng làm nghề

chài lưới, ngày ngày ra biển kiếm tôm bắt cá. Vợ khai khẩn đất hoang, trồng cây gieo lúa và chăm nom con cái... Nhưng cuộc sống hạnh phúc ấy không kéo dài được lâu, một ngày nọ nhà Vua đã lần ra manh mối hai người và phái lính tới bắt để dẫn giải về kinh. Người vợ chính là công chúa, con gái út đức kim Hoàng thượng, còn chàng trai là gã đánh cá chiều chiều vẫn thả trôi thuyền dọc sông, và ngồi trên mũi thổi sáo.

Tiếng sáo của chàng như có ma lực khiến mây ngừng trôi, chim ngừng bay, và cây cỏ râm ran hòa theo. Mỗi lần tiếng sáo réo rắt cất lên đất trời một vùng xao động... Chiều về, công chúa đứng trên lầu thổn thức, chờ đợi lắng nghe tiếng sáo. âm thanh dìu dặt lúc bổng khi trầm phát ra từ đoạn sáo trúc lan tỏa khiến con gái út đức Vua xao xuyến. Công chúa cảm tiếng sáo, rồi đem lòng yêu chàng ngư dân. Thỉnh thoảng nàng vẫn lẻn ra sông, cùng lên thuyền, theo chàng đi dọc bờ cho tới tận lúc trăng mọc. Hay tin, nhà Vua nổi cơn thịnh nộ, ngài Ngự lệnh đuổi chàng trai biệt xứ, không được đánh bắt cá trên dòng sông này nữa... Chiếu chỉ chưa kịp thực thi thì đêm hôm ấy, công chúa ôm khăn gói cùng người tình trốn khỏi kinh thành. Họ đã đến vùng cát ven biển này... Khi triều đình hay tin, sai quân lính tới, gia đình chàng ngư phủ bèn dắt díu nhau chạy lên rừng. Họ ẩn ở đó. Mấy lần quan quân truy bức, nhưng mỗi lần như vậy, thú dữ nơi đây lại làm rào chắn che cho vợ chồng con cái gia đình nhà nọ... Từ đấy họ yên ổn ẩn trốn. Chẳng rõ câu chuyện có liên quan gì đến cái tên của khu rừng?

Rừng ẩn chếch về phía tây và cách Lân Cồ chừng ba bốn cây số. Đêm đêm đứng trong rừng vẫn có thể nhìn thấy quầng ánh sáng mỏng mảnh nơi thị tứ hắt lên. Từ đây qua sông Thạch Bàn đi tắt về làng Cát không quá một canh giờ. Xưa kia đàn ông vùng này vẫn dắt dao sau lưng lom khom lần lên kiếm củi, hái thuốc. Họ quan niệm rằng rừng ẩn là chốn linh thiêng, là nơi huyền bí, ai có tâm có phúc đều được thần linh nơi đấy che chở, phù hộ... Đường lên núi gập ghềnh, khó đi, nếu không thành tâm sẽ khó lần ra lối về, dễ làm mồi cho thú dữ...

Biết rừng ẩn là căn cứ du kích Việt Cộng, mấy lần binh lính Quốc gia được lệnh càn lên, nhưng rừng ẩn mịt mờ, đường đi lối lại ngoắt ngoéo dễ vào khó ra, u u minh minh thiên la địa võng, Việt Cộng lại ẩn hiện khôn lường, bởi vậy kéo quân đi rồi lại tơi tả chán nản kéo quân về. Đánh vào rừng ẩn khác nào đấm vào bị bông.

Mấy ngày qua rừng ẩn ẩm ướt trĩu nặng. Mây sà thấp vờn trên ngọn cây. Rồi mưa. Nước trên đồi cao đổ về không ngớt. Những con suối mùa khô co lại, dịp này phình nở, chảy ầm ầm...

Trong hang đá lưng chừng núi, chiều nay có cuộc họp của cán bộ làng Cát. Sau ngày Tám Phụng làm phản và sau trận càn gần đây, hết thảy cán bộ chủ chốt và du kích của làng đều lánh lên cứ. Ai cũng ý thức rằng đây là biện pháp tình thế, biện pháp tạm thời. Phương châm là phải bám dân, bám địa bàn... Hơn chục con người ngồi quanh chiếc bàn ghép bằng nứa. ánh sáng từ cửa hang hắt vào mờ mờ... Bí thư chi bộ Ba Tánh nhìn khắp lượt mọi người:

– Ta bắt đầu nghe. Tôi triển khai nhanh để các bộ phận còn vào việc. Tình hình thế nào các anh biết cả rồi. Âm mưu của địch là tìm cách triệt phá cho bằng hết đảng viên, cán bộ, du kích và cơ sở ở làng Cát. Sự phản bội của Tám Phụng đã gây ra không ít tổn thất. Các anh Nguyễn Đình Thanh, Lương Thúc, Đinh Hiệt, Đào Khắc Độ, Nguyễn Bách, Hoàng Mai... người thì bị giết, người bị bắt...

– Tôi đề nghị tìm cách thịt Tám Phụng! - Xã đội trưởng Mười Bàng chợt nói to. Anh nhấp nhổm trên ghế như người ngồi đúng tổ kiến lửa.

– Chuyện đó rồi tính! - Ba Tánh nói - Nhưng cảnh cáo Tám Phụng không dễ nghe. Từ ngày chiêu hồi Tám Phụng ru rú trong đồn của Ba Hoàng suốt...

– Không diệt Tám Phụng thì diệt Trần Nhũng...

– Anh Mười để tôi nói hết đã... - Ba Tánh ngắt lời xã đội trưởng. Tuy bằng tuổi lại ở cương vị bí thư nhưng lúc nào Ba Tánh cũng tôn trọng Mười Bàng. Anh rõ Mười Bàng nóng nảy nhưng là người bộc trực, tốt tính và hăng hái; còn dũng cảm thì khó ai bì. Từng một mình một súng xông vào làm náo loạn hội đồng xã khiến Trần Nhũng và đàn em xanh mặt. - Tôi nhất trí với ý kiến anh Mười, để lấy lại lòng tin cho dân, một mặt ta phải củng cố lực lượng, mở rộng cơ sở, mặt khác phải cảnh cáo một số tên ác ôn...

– Chuyện đó chúng tôi lo được!... - Mười Bàng sốt sắng.

– Không quá dễ như thọc túi lấy quả mận quả ổi đâu, nhưng phải làm... Kế hoạch cụ thể tôi đề nghị anh Mười chủ động bàn thêm với anh em du kích. Nhưng nhớ đấy cũng là biện pháp trước mắt, chủ trương lâu dài, tỉnh chỉ thị phải có nhiều trận đánh lớn.

– Ai chẳng khoái đánh lớn, nhưng tìm đâu ra vũ khí, anh Ba?

– Anh hỏi tôi, tôi hỏi ai?

– Bí thư về bảo sắp có súng đạn mà mong hoài vẫn bằn bặt... Định đánh địch bằng cùi chỏ sao?

– Điều ấy tỉnh biết, huyện biết và đang tìm cách gỡ... Mấy ổng còn lo hơn anh em mình... Chuyện tiếp nhận súng đạn là chuyện dài dài, tiến biến tới đâu trên phổ biến đến đó... Có cơ sở vững, có lực lượng mạnh mới nói tới việc nhận vũ khí được... Hôm rồi Sáu Sinh có nhắc lại rằng trong khi chờ đợi, làng Cát phải hành động. Lấy vũ khí địch đánh địch và tận dụng mọi thứ có trong tay.

– Khó lắm! Mấy khẩu moi ở đất lên, khi bóp cò, đạn không nổ. Tôi ngán cách nói tận dụng mọi thứ trong tay quá trời...

Mười Bàng có cái lý của Mười Bàng. Anh đã nhiều phen len lỏi vào tận sào huyệt bọn trùm ác ôn, tưởng đã ăn chắc, ai dè khi bóp cò, súng không nổ, lanh trí đưa được cái mạng thoát ra khỏi chốn hang hùm ổ sói đã là may. Những lần vậy Mười Bàng bực bõ, vò đầu bứt tai tiếc hùi hụi.

– Chẳng lẽ mình cứ ngồi chờ...

– Không chờ..., là nói để lường cho hết.

– Bây giờ tôi chuyển qua chuyện trước mắt... - Ba Tánh nói tiếp. - Ngay trong đêm nay tôi đề nghị huy động bà con làng Cát đấu tranh chôn cất thím Tư cho chu đáo. Đây là việc nghĩa việc tình và cũng là cách biểu thị thái độ của chúng ta...

– Chuyện thím Tư, nhỏ Ba Thành biết chưa, anh Ba? - Có người hỏi.

– Việc đó anh Sáu Sinh khắc có cách, khỏi lo đi...

– Ba con thằng Ba Hoàng là lũ nhẫn tâm. Hồi nhỏ thằng chó này vẫn lê la tới nhà thím Tư chơi với thằng Thanh thằng Thành đó chớ. Đồ phản phúc! Tôi mà có súng...

– Khỏi dài dòng nữa, anh Mười. Chuyện ba con Trần Nhũng có nói suốt buổi cũng không hết. - Ba Tánh ngước lên. - Sắp tối rồi, các bộ phận chuẩn bị còn qua sông về làng cho kịp. Nhớ không quá khích gây tổn thất nghe.

... Đêm đó trời tối thui. Làng Cát đông cứng trong nỗi thấp thỏm. Nơi bãi dương đoàn người kéo thành một vệt dài lặng lẽ bước. Bóng họ liêu xiêu hắt lên nền trời đen đặc. Đám đàn bà con gái đi trước. Kế đó là những người khênh quan tài. Đàn ông chốt hậu. Mọi người đi chậm. Qua bãi dương. Qua trảng cát. Cuối cùng dừng lại bên gò đất trống. ở đó một hố sâu đã được đào sẵn.

Sáng hôm trước, từ Lân Cồ hai chiếc xe nhà binh vội vã cắn đuôi chạy về làng Cát. Chiếc xe Jeep dẫn đầu. Phía sau là chiếc xe tải. Thi thể thím Tư Đởn, thằng con trai Trần Nhũng cho đặt trên đó. Đến sát bãi dương hai chiếc xe dừng lại. Ba Hoàng từ chiếc Jeep nhảy xuống. Viên đại úy vẫy tay, bọn lính lập tức xúm vào khiêng xác thím Tư. Người thím quắt hóp, bê bết máu, cứng khô. Ba Hoàng chọn một chỗ đất cao và lệnh đặt thím lên đó. Rồi thằng đại úy hô:

– Vô làng lùa dân ra. Già trẻ lớn bé gì xua hết!

Gần trưa lính Ba Hoàng cũng đưa được hơn chục người, đa phần là ông bà già và trẻ con ra mô đất trống gần bãi dương, nơi có thi thể người đàn bà làng Cát. Viên đại úy nhìn khắp lượt mọi người, ánh nhìn hăm dọa, rồi y nói:

– Các người nhìn cho thiệt rõ để làm gương nghe. Theo Cộng sản, tiếp tay cho Cộng sản số phận sẽ là vậy... Ai có ý chôn Tư Đởn cũng sẽ bị phơi nắng như Tư Đởn đó.

Nhiều tiếng sụt sùi. Có người lau nước mắt.

– Các người cứ nhìn cho kỹ nghe!

Nói rồi Ba Hoàng vẫy tay, đám lính nhâng nháo nhảy lên chiếc xe tải. Hai chiếc xe lại cuốn bụi hướng về phía Lân Cồ.

Xác thím Tư phải qua hai ngày nằm phơi dưới nắng, tối nay mới được dân làng mang đi táng. Khi mọi người chuẩn bị hạ huyệt, từ trong làng hơn chục dân vệ do Nguyễn Xấn chỉ huy hò nhau chạy tới. Gã chỉ huy dân vệ chững lại trước đám đông, hô:

– To gan! Ai cho các người chôn cất mụ Cộng sản này. Đã có lệnh trên là phơi nắng đến khô...

Ông Năm Bào bước lên:

– Nói vậy mà không sợ phải tội sao ông dân vệ? Thím Tư cũng là người làng Cát như ông đó.

– Mụ đã che chở cho Sáu Sinh, trùm Cộng sản vùng này.

– Ông chớ quên ông giáo Sáu đã từng dạy chữ con ông nghe...

– Không lý luận. - Nguyễn Xấn quát - Anh em dân vệ, đưa xác Tư Đởn về chỗ cũ.

Đám lính rấn vào chỗ chiếc quan tài. Mấy người đàn ông vội cản lại.

– Các chú chớ làm vậy, thất đức.

– Bọn này chỉ biết làm theo lệnh.

– Không được! - Ông Năm Bào đưa tay, huơ con dao bài to bản trông như cây đao của Quan Vân Trường, đứng chắn trước quan tài, nói to. - Kẻ nào đụng vào thím Tư Đởn hãy bước qua xác lão đây. Sống ngần này tuổi cũng đủ rồi!

Bọn lính chùn lại. Nguyễn Xấn giẫm chân:

– Định làm loạn phải không?... Gô cổ Năm Bào...

Bọn dân vệ lại xông vào. Đám đông dân làng cũng ào lên. Đôi bên giằng co... Một phụ nữ nói to:

– Anh em dân vệ! Bọn họ giết người mà không cho chôn cất, xét về đạo lý anh em thấy có được không? Cùng là người làng anh em nên để bà con lo cho thím Tư mồ yên mả đẹp...

Có báng súng thúc mạnh vào bụng Năm Bào, ông ối một tiếng, quặn người lảo đảo. Nguyễn Xấn giật khẩu cạc bin trên tay một dân vệ, định bắn, nhưng đám đông đã kịp vây quanh ông Năm, Nguyễn Xấn chới với giữa đám người... Trong lúc đang lộn xộn, những người ở gần quan tài đã nhanh trí đưa được thím Tư vào huyệt, và tùa nhanh đất xuống. Nguyễn Xấn bứt ra khỏi đám đông, chĩa súng lên trời, bóp cò. Tiếng nổ vang đanh trong đêm. Mọi người giãn ra.

– Ai dám phản loạn sẽ bị trừng trị. - Nguyễn Xấn nói to - Đừng tưởng người cùng làng nên tụi này chùn tay nghe.

Dân làng đứng im nhìn gã chỉ huy dân vệ. Người phụ nữ lúc nãy bước tới:

– Ông Xấn, ông chớ quên mình cũng là người làng Cát... Người làng mình sống có nghĩa tình. Ác quá sợ rồi chết lại không có đất chôn...

– Mụ dọa ta hả?

– Không ai dọa ông... Nhưng ông cứ ngẫm đi...

Nguyễn Xấn lúng túng, ngó trước nhìn sau, thấy đám dân vệ trơ ra, bèn nói to:

– Các người tự gây họa thì ráng chịu nghe. Ngày mai liệu mà ứng phó với lính của Ba Hoàng... Đi tụi bay.

Cũng tối ấy, Ba Thành và Sáu Quyên ngồi trên chiếc thuyền nhỏ, vượt sông Thạch Bàn về làng Cát. Mùa này dòng sông rộng ra, nước đỏ lừ, chảy cuồn cuộn. Vừa nhảy lên bờ Ba Thành đã có ý nhào vào làng.

– Chú Sáu dặn dò sao, em quên rồi, Ba? - Sáu Quyên làm bộ nghiêm vội giữ Ba Thành lại.

– Chị ơi, chị cho em được nhìn mặt má em lần cuối... - Rồi Ba Thành chợt khóc to: Má ơi, sao má khổ thế... Con về với má rồi nè... Con ở gần má mà... Sao chúng nó ác quá vậy... Má có tội tình gì?...

Sáu Quyên thấy mủi, hai mắt cũng rưng rưng, nhưng cố gắng nuốt nước mắt vào trong, làm bộ cứng:

– Thôi mà... Chị can... Để tụi đó biết em và chị về làng nguy hiểm lắm... Nghe chị.

Ba Thành không đáp, ngồi hướng mặt vào rặng cây, khóc tức tưởi. Sáu Quyên cũng khóc theo, có điều cô kìm không để bật to thành tiếng.

Biết tính Ba Thành, chiều nay Sáu Giáo đồng ý cho anh về làng nhưng ông cử Sáu Quyên đi kèm. “Việc đã rồi, dù thế nào cũng phải bình tĩnh nghe - Ông dặn - Chú cho Sáu Quyên theo. Và Sáu Quyên là người chỉ huy. Nhất nhất cháu phải nghe lời. Rõ không?... Xong mọi việc, khi dân làng chôn cất má và đã về làng, chị em mới được vô... Thắp hương cho má xong phải qua sông trong đêm... - Giọng ông Sáu nghèn nghẹn - Chú chưa về được, cháu thay chú thắp thêm cho má nén nhang...”. Nước mắt người Bí thư Tỉnh ủy rịn ra. ông vội quay mặt sang chỗ khác, rồi ra hiệu cho Sáu Quyên và Ba Thành lên đường. Với thím Tư, Sáu Sinh có quá nhiều điều để nhớ và chịu quá nhiều ơn huệ. Thời chín năm, khi còn dạy học ở làng Cát, thím Tư là người duy nhất biết Sáu Sinh được tổ chức cử về đây nắm địch, gây dựng phong trào. Hồi ấy Sáu Sinh ốm nhách, lại đau yếu luôn, trái gió trở trời là ôm ngực ho sù sụ. Mỗi lần thấy vậy, Tư Đởn lo lắm. Thím sốt sắng lần lên Lân Cồ lấy thuốc, tự tay sắc rồi sai anh em thằng Thanh, thằng Thành mang sang. Có miếng gì ngon, thím giấu nhịn để, như thím vẫn nói, dành cho thầy giáo sắp nhỏ. Có dạo Sáu Sinh nằm bẹp tới mấy ngày như người cảm hàn; ông lang hành nghề bốc thuốc trên Lân Cồ thím mời về sau khi xem mạch người bệnh, lắc đầu, lạnh lùng buông một tiếng:

– Khó!

Thím Tư hốt hoảng:

– Không còn cách chi sao, thầy?

– Chị đủ tiền bạc theo chăng?

Tư Đởn hoang mang. Thím đào đâu ra tiền bạc! Kiếm đủ để nuôi hai thằng con đã khó... Thím ẩn tiếng thở dài, bối rối nhìn Sáu Sinh hệt giải khoai héo đang nằm trên giường, lại nhìn người thày lang có khuôn mặt bí hiểm vô hồn như khuôn mặt các pho tượng vẫn để nơi đình chùa. Một lát Tư Đởn tuông vào buồng, lục lọi trong chiếc rương gỗ rồi mang ra một hộp nhỏ được bọc kỹ qua nhiều lần vải, mở ra. Đó là đôi khuyên vàng ba má tặng hồi thím lấy chồng. Đôi khuyên từng được Tư Đởn cất giữ, coi như đồ gia bảo.

– Bấy nhiêu đủ không, thày? - Tư Đởn hỏi.

Ông lang xoay qua xoay lại hai vật bằng kim loại óng ánh trên tay, không tin là đang cầm của báu, ngước lên:

– Chị bán thiệt? Đồ hiếm đó.

– Mạng người quý hơn chớ...

Những năm gần đây ngôi nhà nhỏ giữa xóm của thím là nơi Sáu Sinh thường xuyên qua lại. Sau nhiều năm bằn bặt, hôm Sáu Sinh lần tới ngôi nhà đó và cất tiếng gọi nhỏ, Tư Đởn ngơ ngác như thể người nằm mơ vội rón rén bước tới tâm liếp, hé nhìn rồi tròn mắt thốt lên:

– Trời phật, chú Sáu Giáo?

Sáu Sinh lách nhanh vào nhà.

– Chị cho lánh tạm nghe - Sáu Sinh ngó quanh ngôi nhà, nói nhỏ.

– Tưởng chú theo tỉnh theo huyện ra Bắc tập kết chớ. - Giọng thím Tư chưa hết run. - Mà bấy lâu ở đâu?

Sáu Sinh vặn nhỏ ngọn đèn:

– Trên biểu phải có người ở lại với bà con... - Suýt nữa Sáu Sinh buột mồm phô rằng những ngày qua ông và Tám Phụng ẩn dưới chuồng heo nhà Năm Bào - Lần này tôi lại quay về làng Cát quấy rầy bà con.

– Đừng nói chuyện quấy rầy. Có các chú là bà con an tâm rồi. Cách mạng vẫn ở bên cạnh mình mà...

Lúc cao điểm tố cộng, đêm đêm lính tuần tra nện gót giày rầm rập diễu khắp làng. Nằm dưới hầm Sáu Sinh thấp thỏm không yên và ông rõ rằng trên nhà, thím Tư cũng đang dỏng tai phấp phỏng nghe chừng. Thời đó bọn dân vệ cắm tấm biển “gia đình Cộng sản” ngay trước ngõ nhà thím. Gia đình nào có người thân đi tập kết đều có “bảng đen”, danh sách đen như vậy. Những người thuộc diện thân cộng, vài ba ngày lại bị gọi lên hội đồng xã thẩm vấn... Không khí trong làng ngột ngạt, căng thẳng, cái sống cái chết cách nhau chỉ sợi tóc... Những ngày đen tối ấy thím Tư lặng lẽ nuôi giấu Sáu Sinh trong nhà. Người trong vùng không hay đã đành mà cán bộ làng Cát cũng chẳng ai biết...

Sáu Sinh nhìn theo Ba Thành và Sáu Quyên đi khuất xuống núi mới quay vào lán... Ngồi với Sáu Quyên chờ đợi bên mép sông Thạch Bàn, Ba Thành thấy thời gian trôi đi sao chậm chạp. Chiều nay chú Sáu mới báo cho Thành biết mọi chuyện... Cu Nhặt chết cháy cùng ngôi nhà, và má bị chúng nó bắt, tra tấn đến kiệt sức, rồi đưa về làng phơi sương phơi nắng... Chết rồi mà má vẫn chưa được chôn cất, sao vô lý vậy hả ông trời! Má ơi, con thương má quá! Cả một đời sống nhân hậu, cả một đời làm phúc cho hết thảy những người gặp rủi ro khó khăn, má có làm mếch lòng một ai bao giờ. Đến con sâu cái kiến má cũng ngại ngùng, không nỡ giết hại... Biết trong nhà ngày mai chẳng còn cái bỏ vào nồi, hôm nay có người túng bấn cần giúp vẫn vét lẻ gạo cuối cùng mang sang cho họ. Một đời tần tảo lam làm hết nuôi chồng lại nuôi con, chưa một ngày má được thanh nhàn. Sao đời má lại tội vậy, má ơi! Lấy chồng chưa trọn tháng đã phải chia tay. Hồi chín năm ba đi biền biệt, hết chiến dịch này tới chiến dịch nọ. Họa hoằn lắm có ghé về cũng chỉ ở vài ba ngày, như chuồn chuồn đáp nước rồi mặc má vò võ một mình, lại ra đi. Năm này qua năm khác, vừa lận đận nuôi dạy chúng con, vừa làm phúc làm đức, má vừa ngong ngóng lo âu cho chồng. Hòa bình lập lại, ba về, ngỡ lần này được đoàn tụ, nhưng niềm vui của má chỉ thoảng như tia chớp, mấy hôm sau ba bảo rằng mình sắp theo tàu thủy ra Bắc. Lần này ba đi thiệt xa, còn kéo theo luôn cả anh Thanh cùng đi. Má lại thấp thỏm chờ, thấp thỏm đợi. Cuộc đời má là chuỗi ngày trông ngóng khôn nguôi. Mong chồng, lo lắng cho chồng lại mong con, lo lắng cho con... Khi con lên cứ, ngỡ có thêm cu Nhặt má đỡ hiu quạnh, đỡ buồn. Vậy mà ai ngờ... Má ơi, sao má lại khổ thế... Con biết mình phải làm gì đây? Má đi rồi mà con vẫn không được nhìn thấy mặt lần cuối. Muốn khóc to cũng gìm lại, không dám. Gầm trời này sao nhiễu nhương quá vậy chớ...

Chợt có tiếng súng từ phía cồn cát đưa lại. Tiếng nổ hậc lên trong đêm khiến bóng tối như bị xé loãng ra. Sáu Quyên và Ba Thành cùng đứng lên.

– Chúng... - Ba Thành sợ hãi thốt ra.

– Để xem chừng đã... - Sáu Quyên nói - Chắc bọn dân vệ bắn dọa nhằm ngăn không cho bà con hạ huyệt thím Tư.

– Chị cho em tới đó nghe... Em sẽ liều mạng với chúng nó.

– Không một tấc sắt trong tay em định làm gì?... Chờ động tĩnh thế nào rồi chị em mình tính...

– Má ơi!... Má ơi! - Ba Thành nấc khẽ, tiếng nấc bất lực tắc nghẽn nơi cổ họng.

Đêm mông lung. Dòng Thạch Bàn trải ra lờ nhờ bàng bạc. Gió từ mặt sông mang theo hơi nước và không khí ẩm ướt thổi lên rất nhẹ. Về khuya tiếng sóng cạp bờ nghe mỗi rõ... Trên không trung những con chim ăn đêm bay qua bật ra tiếng kêu chéc chéc. Tiếng chim nằng nặng, tanh mùi biển. Người làng Cát cho rằng khi những con chim bắt cá đêm ngoài khơi trở về bất chợt cất tiếng kêu thường báo hiệu có điềm gở...

Khuya, Sáu Quyên và Ba Thành lần về phía trảng cát, nơi họ biết thím Tư được chôn cất ở đó. Sáu Quyên đi trước, Thành thấp thỏm bám phía sau. Vừa đi vừa quan sát. Hàng ngày vào giờ này, Nguyễn Xấn thường cho dân vệ phục ở các bãi dương giáp bờ sông đón lõng du kích từ rừng ẩn về. Nhiều đêm Sáu Quyên suýt mất mạng khi vào làng bắt liên lạc. Đêm nay xem ra yên yên. Có thể bọn dân vệ nghĩ là thím Tư đã được chôn cất, nên du kích không lần xuống nữa...

Qua bãi dương, hai người nhao đến trảng cát. Đêm yên tĩnh. Chỉ tiếng gió lao xao nơi bãi dương vọng lại. Và trên không trung, vẫn những tiếng chéc chéc khô khan báo điềm gở của những con chim bắt cá đêm. Tới ngôi mộ mới đắp còn nham nhở, Sáu Quyên và Ba Thành cùng thụp xuống. Nước mắt Sáu Quyên giàn giụa. Cô gìm tiếng khóc trong họng, miệng gọi tên thím Tư, rồi kể lể... Lúc này Ba Thành bình tĩnh hơn. Anh bật lửa, đốt nhang cắm xuống phía trước ngôi mộ, lẩm bẩm khấn:

– Má ơi, con là thằng Ba Thành, con về với má đây nè... Con về mà chẳng chút hoa quả tiền vàng, chỉ có nắm nhang nhỏ thắp lên mộ cho má... Tháng trước khi con lẻn về thăm, má giữ ở lại một đêm và đã dặn rằng gắng giữ gìn, mũi tên hòn đạn nó không từ một ai, đừng để má cô quạnh, má buồn... Vậy mà nay má bỏ con ở lại một mình, má ơi. Sao chúng nó độc ác quá vậy chớ? Con nhớ hôm đó má rờ nắn khắp lượt người con, cười mà nước mắt trào ra, rồi bảo: rắn rỏi, má mừng lắm... Ai hay đó là đêm cuối con được ngủ cạnh má và cu Nhặt. Má đặt cu Nhặt nằm giữa con và má. Thằng em nuôi thỉnh thoảng lại thức giấc, quờ tay tìm, biết má vẫn nằm cạnh, nó chóp chép miệng yên tâm ngủ tiếp... Thằng Nhặt chưa đầy năm, có tội tình chi mà bọn chúng giết?... Má ơi, tuần nhang này con thắp giùm chú Sáu, chú Sáu gửi lời thăm má đó. Má nghe rõ con nói không má?...

Giọng Ba Thành nghẹn lại, rồi khóc thút thít như trẻ nhỏ. Sáu Quyên thỉnh thoảng lại nấc to... Cồn cát tối mò, bóng hai chị em nhòa vào phần mộ. Xa xa có tiếng sóng biển mài lên bãi vọng vào, âm thanh rời rạc, buồn tênh.

– Em chào thím lần nữa rồi còn đi, Thành. Trời sắp sáng đó. - Tiếng Sáu Quyên nghẹn ngào, cô cúi xuống vái ba vái. - Con đi nghe thím... Sống thím ở với làng Cát nay thác xuống cùng tổ tiên thím lại về với cát mà... Thím cứ an giấc nơi đây, thỉnh thoảng về làng con lại ghé thăm... Con đi...

Ba Thành gục xuống phần mộ, chưa muốn đứng lên. Sáu Quyên nhắc:

– Nào, đừng yếu đuối vậy thím Tư buồn... Ba Thành bật khóc thành tiếng:

– Má ơi, con đi! Khổ thân má quá, sao má lại phải lạnh lẽo nằm đây một thân một mình hả má... Con đi rồi con sẽ về với má...

Có tiếng chó sủa trong làng vọng tới. Sáu Quyên ngẩng nhìn, kéo vội BaThành:

– Lẹ lên, em!

Hai người lần về chỗ bãi dương. Sáu Quyên ấn Thành ngồi xuống:

– Nè, ra bờ sông và chờ chị ở đó nghe...

– Chị?...

– Vô làng một lát rồi ra ngay mà...

– Cho em đi cùng!

Không trả lời Ba Thành, nhanh như con sóc, Sáu Quyên bật khỏi những thân dương, thoáng cái đã mất hút vào bóng đêm. Cô lần về phía ngôi nhà cuối xóm của Tư Nhâm...

*

Đêm yên tĩnh. Sau những ngày mưa dầm dề bầu trời nơi rừng ẩn ráo mây, quang đãng trở lại. Nằm trên chiếc võng vải, Sáu Sinh trông rõ những ngôi sao đang nhấp nháy sau kẽ lá. Ông hít một hơi thật sâu

vào lồng ngực, khép nhẹ mắt, cố tạo thoáng thư giãn nghỉ ngơi. Ông đang vui. Chiều nay bộ phận quân sự đã báo cho hay tổ điện đài Trung ương cử vào đã được đón và đưa về cứ. Sáu Sinh liền tuông tới. Hóa ra toàn anh em quen biết, đều người tỉnh nhà ra Bắc tập kết thời năm tư. Ôm lấy nhau mà nước mắt giàn giụa. Mừng khôn xiết! Sáng qua nghe báo cáo rằng bộ phận công tác đặc biệt vẫn chưa bắt liên lạc được với tổ điện đài từ ngoài cử vào, đang ngồi trên chiếc ghế dài ghép bằng nhiều cây vầu trong ngôi lán dựng nơi khu rừng, Sáu Sinh bật dậy hệt chạm phải sâu róm. Ông lặng đi một lát rồi nói, giọng cáu bẳn:

– Chưa đón được anh em coi như chưa hoàn thành nhiệm vụ... Các đồng chí biết đây là việc hệ trọng liên quan đến một chủ trương chớ?

Người đội trưởng lúng túng;

– Chúng tôi ý thức được... Và đã lần tìm khắp các bãi, các vũng...

– Vô lý!... - Chợt Sáu Sinh quay lại và hỏi. - Đã ra vịnh Xuân Đài chưa?

– Báo cáo, chúng tôi nghĩ Xuân Đài là nơi địch thường tập trung quân nên...

Sáu Sinh ngắt lời:

– Đêm nay bố trí ra đó coi... Rất có thể anh em mình lợi dụng yếu tố bất ngờ khi địch cậy đông nên chủ quan...

– Rõ!

– Vịnh Xuân Đài rộng lại trống trải nên cần phối hợp với du kích làng Cát... Nhưng phải tuyệt đối bí mật... Có khả năng anh em mình trà trộn vào thuyền của dân.

Sáu Sinh đã đúng. Mấy hôm rồi chiếc thuyền của tổ điện đài có giấy tờ làm ăn hợp pháp nên đã vào vịnh Xuân Đài, giả bộ như thể thuyền đánh cá của bà con ngư dân vùng bên bị lạc, ghé lại tìm nước ngọt và mua thực phẩm. Ban đêm họ lẻn lên bãi, tìm chỗ đào cát chôn giấu máy móc rồi tỏa đi bắt liên lạc. Đêm đầu không thấy ai đón, đành chờ. Đêm thứ hai phát hiện ra người cần bắt liên lạc nhưng lại phải lẩn trốn, không dám lộ diện. Nghe chuyện, Bí thư Tỉnh ủy xúc động lặng đi. Cuộc chiến này có những điều thật thần kỳ. Chuyện là vậy mà nghe như không phải vậy... Trong mấy du kích làng Cát phối hợp với

tổ công tác đặc biệt của tỉnh đi đón “mấy anh cán bộ của khu về gây dựng phong trào” có Hai Liên, người yêu của tổ trưởng Xuân. Từ trong hốc đá, phát hiện ba bóng người đang có ý dò tìm, Xuân hất hàm cho một tổ viên ra hỏi ám hiệu. Nhưng anh vội kéo người tổ viên trở lại. Phía tốp người có tiếng con gái nghe quen quen: “Thuyền ai mà mấy hôm rày neo hoài nơi đây vậy ta? Hay là thuyền bọn thám báo, anh Mười?”. Tiếng ai như tiếng Hai Liên? Chẳng lẽ lại có sự ngẫu nhiên kỳ lạ như vậy? “Không, tụi thám báo tới chi vùng này. - Người đàn ông đáp - Chắc mấy cha mạn trong đi đánh cá bị lạc dạt vô... Chừ vầy, chia ra, anh Sánh vòng sang núi Dừa, tôi đi dọc bờ, còn Hai Liên đi vô mạn Hòn Chồng nghe.” Hai Liên! Trời ơi, đúng cô ấy rồi... Hai Liên, anh, Bảy Xuân... Bảy Xuân đã về quê đây nè... Trái tim trong lồng ngực Bảy Xuân đập rộ lên... Nhưng lúc đó có tiếng người chỉ huy cất lên bên tai: “Nhiệm vụ này vô cùng quan trọng. Bởi vậy bí mật là yếu tố hàng đâu. Nếu lộ ra, Trung ương khó bề chỉ đạo...Về quê, nếu gặp người quen, phải tránh. Không một ai biết sự xuất hiện của các đồng chí và nhiệm vụ của các đồng chí ở vùng này...”.

– Sao nhấp nhổm vậy, anh Xuân? - Người tổ viên ngạc nhiên hỏi.

– Chờ đã. Người... quen...

Tổ trưởng Xuân vốn là người trên Thượng Nghĩa. Làng Thượng cách thị tứ Lân Cồ cả chục cây số... Hồi sắp đình chiến Xuân đóng quân tại làng Cát và đem lòng yêu Hai Liên, cô gái được coi là xinh nhất làng, hát hay nhất làng. Những hôm bộ đội và thanh niên đốt lửa trại gần bãi dương liên hoan văn nghệ, Bảy Xuân và Hai Liên thường hò đối đáp. Mỗi lần đôi trai gái cất tiếng, mọi người lặng phắc lắng nghe. Giọng Hai Liên trong, cao vút; giọng Xuân lại dày, trầm ấm. Hai giọng hát quyện vào nhau lan trên cát, tan vào gió biển có cái gì đó gợi nhớ, gợi thương, khó quên. Không đi bậu nhắc bậu trông - Đi thì lại sợ Cù Mông Xuân Đài - Cù Mông là một, dốc chùa Rởi là hai - Dốc Giăng dốc Quýt dốc Xuân Đài là Năm... Anh nguyện với em tại bữa trăng rằm - Ai làm nên nỗi con tằm xa dâu?... Hòa bình trở về, đơn vị Xuân có lệnh đi tập kết. Hôm gần lên đường Xuân hẹn gặp Hai Liên nơi bãi dương giáp biển, là chỗ họ vẫn cầm tay nhau hát dân ca.

– Đi thiệt à? - Hai Liên hỏi, cô bước chậm lại.

– Mai có lệnh hành quân rồi.

– Không nhớ?

– Nhớ chớ!

– Vậy mà cầm lòng...

– Nhiệm vụ... Chưa đi đã thấy nhớ...

– Xạo... Ra ngoài đó gặp con gái Bắc lại quên...

– Thề!

– Thề... Nếu lời thề hiệu nghiệm thì đã chẳng còn mống đàn ông nào trên đời... - Hai Liên chợt thở dài - Con gái có thì...

– Lần trước bảo cưới không chịu nghe...

– Lần đó chưa biết phải xa... - Hai Liên dừng lại, đôi mắt như có lửa chiếu vào Bảy Xuân... - Hôm nay... cưới được không?

– Trời đất...

- Em muốn làm vợ trước khi anh đi... Chúng mình vô bãi dương nghe...

... Khi hai người mệt mỏi và thỏa mãn gối đầu lên tay nhau nằm xoài trên cát, Hai Liên nói:

– Bây giờ em không còn giữ anh nữa... - Rồi cô xoay qua, xoa tay lên bộ ngực trần của Bảy Xuân - Ra ngoài đó được tự do... Muốn đến với ai cũng mặc.

– Anh đã là chồng em và em đã là vợ anh... Với anh chỉ em mới có ý nghĩa...

Hai Liên trườn người, sung sướng hôn vào đôi mắt Bảy Xuân:

– Thiệt nghe.

– Nếu có một người đàn ông trên cõi này biết tôn trọng lời thề, đó là anh...

Và Bảy Xuân đã thực hiện như vậy. Hơn mười năm sống trên đất Bắc lúc nào anh cũng đau đáu nghĩ về làng Cát. Cái đêm chồng vợ cùng Hai Liên trên bãi xế vạt dương ám ảnh khôn nguôi... Khát thèm, nhớ nhung, mong ngóng... Vậy mà lúc này Hai Liên chỉ cách có gang tấc, vẫn không sao quờ tới, không sao gặp được. Xuân biết cô cũng đang đi tìm anh, đang tìm “người cán bộ quân khu về xây dựng phong trào”...

Đêm thứ ba, tổ điện đài gặp được tổ công tác.

... Sáu Sinh trở người ngồi dậy. Bóng đêm đặc quánh, gió vờn trên vòm lá rất nhẹ. Đâu đó từ những con suối bao quanh căn cứ có tiếng nước chảy vọng tới. Tiếng suối về đêm nghe rầm rào như lời kể chuyện đơn điệu rời rạc của người già... Hôm nay với Bí thư Tỉnh ủy là ngày đặc biệt. Nhiều niềm vui đến với ông. Buổi sáng Ba Tánh cho người lên báo cáo rằng việc chôn cất thím Tư Đởn ở làng Cát đúng như dự kiến; trước áp lực và lý lẽ của dân làng, bọn dân vệ đã phải chùn tay... Rồi tin tức của Tư Nhâm và A.5 thu lượm được do Sáu Quyên báo về khiến ông an tâm... Cuộc họp sắp tới ông sẽ báo cáo và đề nghị với Khu ủy cho tiến hành mở bến chuẩn bị tiếp nhận vũ khí. Các yếu tố gần như đã chín mùi. Vấn đề còn lại là mở bến ở khu vực nào thuận lợi và an toàn nhất... Điều này sẽ được Khu ủy quyết định trong hội nghị tới...

Sáu Sinh đứng lên, ông bước vào ngôi lán lợp lá ẩn dưới mấy gốc cây lớn. Chiếc đèn dầu nơi bàn được vặn to... Từ ngôi lán khít đó, Ba Thành bước sang.

– Khuya rồi, chú. - Thành nói.

– Cháu cũng chưa ngủ à? - Sáu Sinh ngước lên. - Ngồi xuống đây...

– Cháu pha cho chú ấm trà nghe.

– Khỏi!... Chú có câu chuyện muốn bàn với cháu. - Sáu Sinh nói khi Ba Thành đã ngồi đối diện trước mặt ông. - Chú sẽ đưa cháu sang bộ phận trinh sát... ở đó có điều kiện tiến bộ hơn. Cháu thấy sao?

– Nếu được vậy cháu vui lắm ạ... Cháu có nguyện ước đã lâu. Chỉ lo cháu đi rồi lấy ai chăm sóc chú.

– Việc đó đã có mấy anh bên tổ chức... - Sáu Sinh nói - Nhiệm vụ của cháu là gắng lập công để thỏa mãn vong linh má...

– Sang đó cháu có điều kiện trả thù cho má cháu...

– Không phải vậy... Trả thù cho má đâu ở chỗ diệt mấy tay ác ôn... Phải chung sức để có những thành tích lớn hơn...

– Dạ!... Bao giờ cháu...

– Chú đã bàn với mấy anh bên đó. Cháu có thể sang bất cứ lúc nào.

... Ba Thành đi rồi, Sáu Sinh mở sổ viết mấy nội dung chính ông có ý định báo cáo trong cuộc họp Khu ủy sắp tới. Trọng tâm vẫn là chuyện mở bến đón vũ khí từ ngoài Bắc đưa vào. Lực lượng. Bến bãi. Tổ chức cất giấu. Bảo vệ...

Đêm ở rừng mông lung; không khí dường như đặc hơn. Về khuya sương xuống dày, ngàn ngạt, khó thở. Từ trong hốc đá có tiếng tắc kè vọng ra. Vào giờ này con tắc kè bảy năm tuổi quen thuộc vẫn bò ra điểm nhịp. Sáu Sinh buông bút, nhìn đồng hồ rồi lần tới chiếc võng buộc sẵn nơi gốc cây... Đêm yên ả trôi.

*

Xế thị tứ Lân Cồ, cạnh con đường đi về làng Cát có một quán giải khát nhỏ. Quán không mấy rộng nhưng lúc nào cũng nhộn nhịp đông vui. Khách phần lớn là lính. Người ta khoái đến đây bởi quán gần đường cái, bán nhiều chủng loại: rượu bia, nước hoa quả tươi có, đóng chai có, giá bình dân. Nhưng điều này mới hấp dẫn, đàn ông thường sà tới chốn này bởi chủ quán Năm Hồng là người phụ nữ dễ dãi, xởi lởi. Gần chạm tuổi bốn mươi nhưng trông vẫn còn nuột nà ngon mắt, cứ như khúc giò nạc, thoáng nhìn đã muốn cắn. Cặp vú bánh dày ở tuổi hồi xuân sau lần áo mỏng không quen đeo phần đỡ gần như chẳng hề nhão xệ qua năm tháng, núng nính nhảy tưng tưng trên ngực theo bước đi như thể mời chào khiến khối người ngồi uống rượu mà mắt liếc vẹo cả cổ. Mỗi khi Năm Hồng bận chiếc áo trễ cổ, cái rãnh sâu nơi ngực được tạo nên nhờ hai gờ thịt nhô cao gợi mở nhiều tưởng tượng trong những cái đầu luôn háo thèm của lạ của đám đàn ông. Khách đến đây không những được cợt nhả tán tỉnh nói tục thoải mái mà khi cơ hội thuận lợi còn có thể sàm sỡ vuốt nhẹ vào cặp mông căng tròn gợi cảm lúc nào cũng hằn lẳn chiếc quần trong loại trễ, tạo nhiều liên tưởng của bà chủ...

Lính Rồng Biển của thiếu tá Hai Rạng lúc nhàn cư to nhỏ rằng người đàn bà này trời phú cho năng lực đặc biệt. Năm Hồng chưa bao giờ có khái niệm “no xôi...”. Sự ham muốn đực cái nơi chị là chiếc thùng không đáy. Người ta kháo rằng một đêm Năm Hồng có thể chấp cả một tiểu đội lính tơ. Không tin cứ bỏ tiền ra cá cược. Năm ngoái, nghe đâu đã có hơn chục chàng trai lún phún ria mép mới vào lính góp nhóp được một số tiền và hồi hộp rủ nhau đến quán thử cho biết. Cuối cùng thua. Chị Năm mới ưỡn mình vặn người vài ba chiêu, những trai tơ khỏe mạnh đã không thể kìm giữ, thèm khát và hưng phấn vội vã đổ thống đổ tháo. Ra khỏi phòng cậu chàng nào cũng tặc lưỡi thòm thèm tiếc rẻ... Còn chị Năm cứ tô hô phơi cơ thể phốp pháp trắng mịn trên giường, giọng rất tỉnh: “Ngoài đó có em nào vô nốt để chị còn rửa ráy một thể”.

Vùng Lân Cồ nay chỉ một người duy nhất khiến Năm Hồng phải phục, coi là đàn ông thứ thiệt. Đó là Mười Bàng. Da ngăm ngăm, người chắc như cây lim, tay chân cứng hệt sắt nguội, Mười Bàng có lần vần cho Năm Hồng bã bượi, phải thở bằng tai... Hôm ấy đã khuya, đang liu thiu Năm Hồng lờ mờ cảm thấy có bàn tay ai đó sờ vào chân mình, rồi như thể biết bò, bàn tay giống con sên mơn man men dần lên đùi...

– ối giời ôi!... Ai thế? - Năm Hồng khoái trá kêu khẽ khi những ngón tay ranh mãnh luồn vào quần thuần thục sờ sịt moi móc chỗ ngã ba giữa hai đùi và bụng dưới... Rồi Năm Hồng đuỗi người chộp lấy bàn tay ấy, đờ dại làm đồng minh miết qua miết lại...

– Ngoan nào, Mười Bàng đây.

– Ngoan chớ, đang háo... Mình giết người ta cho kỳ chết nghe... Quần áo nhanh chóng được chủ động tuột bỏ. Khối thịt ngẫn ngà lồ lộ sáng bừng trong đêm. Người đàn ông lập tức đổ ụp xuống. Kế đó là xoáy xiết trào dâng những đợt sóng. Mê mụ. Cuồng si. Riết rít... ào ạt dồn dập cuồn cuộn cứ như nước biển đập vào bờ đá hôm trời bão... Miệng rên ư ử, mũi thở hào hển, Năm Hồng đê mê ưỡn cong người hưởng ứng, sau đấy là cảm giác nhũn nhão, tan chảy như cục nước đá gặp nhiệt...

– Khiếp, sao có cái giống đàn ông quý thế!... - Xong mọi sự, Năm Hồng no nê và mãn nguyện thả lỏng người xệp ra giường, khen ngợi, giọng sung sướng. - Người ta cài then cửa chặt vậy cũng mò vô được.

– Du kích mà!

– Cô ả nào vớ được anh làm chồng thiệt có phúc... Khi nào hứng lại tới nghe.

Mười Bàng gật đầu nhưng sau đó đã lặn một hơi không sủi tăm... Nghe nói chuồn lên “rờ”. Có người phong thanh biết chuyện rỉ vào tai Năm Hồng:

– Mười Bàng là du kích Việt Cộng đó.

Năm Hồng thản nhiên:

– Cái giống quý ấy của Việt Cộng khác Quốc gia sao? Người trần mắt thịt làm sao tôi phân biệt được...

Bẵng đi mấy tháng, vào một đêm tối trời, Mười Bàng lại lẻn đến.

– ác! Cho người ta nếm mùi rồi bỏ đi biệt tăm... - Mắt Năm Hồng sáng lên, miệng lào thào. - Nhớ thấy mồ.

– Mấy đứa giúp việc đâu không thấy?

– Hồi chiều chúng xin về dưới quê... Đêm nay ở lại nghen.

– Nhưng Năm phải giúp một việc đó.

– Cứ làm sướng như hôm nọ đừng nói chi một việc, mười việc cũng ưng.

– Năm biết Ba Hoàng hôm nay đi đâu không?

– Hai vợ chồng đánh xe lên Tuy Hòa từ chiều... Hình như dự lễ sinh nhật đại tá Long tại câu lạc bộ.

– Chắc chớ?

– ở vùng này cu thằng nào to, cu thằng nào dài tôi còn rành nữa là...

– Cám ơn nghe! - Nói rồi Mười Bàng tuông đi...

– ủa, không ở lại? - Năm Hồng tiếc nuối nhìn theo.

– Thưởng sau, Năm!

Đấy là hôm Mười Bàng đưa du kích làng Cát đánh vào câu lạc bộ sĩ quan ở Tuy Hòa nhưng không thành... Mấy ngày sau lính Rồng Biển vào quán uống rượu kể với nhau rằng Ba Hoàng và đám sĩ quan trên Tuy Hòa cao số, lựu đạn Việt Cộng rơi ngay dưới chân nhưng chẳng rõ vì nguyên do gì không nổ. Có người bảo vì chôn dưới đất lâu, bị xịt. Thoát chết, Ba Hoàng ba hoa trước đám sĩ quan trong câu lạc bộ rằng sẽ càn lên núi ẩn và quyết hót chẳng sót một bóng cộng quân nào...

... Ba Hoàng ít khi ra quán này uống rượu. Hôm nay là một ngoại lệ. Cái chết của Trần Nhũng khiến viên đại úy bị xốc. Ba Hoàng xốc không hẳn bởi Trần Nhũng là cha đẻ của mình, mà gã bất an bởi nhiều sự. Du kích Việt Cộng đã táo tợn luồn vào tận nhà gã và bắn chết ông già ngay tại bàn uống nước, một hành động mang tính trả thù, khiến gã choáng. Ba Hoàng chưa bao giờ nghĩ tới tình huống ấy. Dân vệ rào kín vòng trong vòng ngoài, và ông Hội đồng là kẻ tinh quái, biết lường trước mọi điều, hôm ngủ trên giường dì ba, hôm lên gác và nhiều đêm ra trụ sở xã nằm chen giữa đám dân vệ, vậy mà... Hôm qua nếu Hai Rạng không gàn, thậm chí quát lên như ra lệnh, Ba Hoàng đã đưa lính về làm cỏ làng Cát... Nhất định đã có kẻ thông tỏ đường đi lối lại, biết quy luật sinh hoạt của ông hội đồng và chỉ điểm...

– Mẹ khỉ! - Hoàng vô thức buột tiếng chửi và dốc ngược ly rượu vào họng.

– Đại uý uống nhiều rồi! - Trung sĩ Độ, gã vệ sĩ thân tín của Ba Hoàng, vẫn lẽo đẽo theo viên đại úy như cái bóng, nhìn Ba Hoàng và gàn.

– Cho xị nữa nghe, chị Năm! - Ba Hoàng quay vào quầy, gọi to,giọng đã phê phê.

Người chủ quán dạ nhẹ một tiếng, đánh cặp mông mẩy như hai tảng bánh đúc được bó chặt sau lần vải mỏng trông rất bắt mắt, cầm xị đế lướn phướn bước tới.

– Năm Hồng làm với tụi này một ly nghe... - Ba Hoàng cầm tay người đàn bà, kéo xuống... Trung sĩ Độ vội vàng với chiếc ly để cạnh, rót rượu.

– Xin chia buồn với đại úy... - Năm Hồng ngước nhìn Ba Hoàng và đưa ly rượu viên trung sĩ mới rót lên ngang mày - Ly này mong cho ông Hội đồng mát mẻ nơi chín suối... Du kích Việt Cộng táo bạo quá! Đôi mắt đỏ ngầu, viên đại úy chạm mạnh chiếc ly của mình vào chiếc ly của Năm Hồng.

– Táo bạo mẹ gì... Tôi sẽ cho quân lên núi ẩn quét sạch... Tiêu diệt hết... Đây là trò của lão Sáu Sinh, và Mười Bàng chớ ai... Mẹ khỉ, nhất định trong làng Cát có kẻ giấu mặt. Khui được, tôi băm nát nhừ... Năm Hồng thấy đứa nào khả nghi, cứ báo nghe. Có thưởng.

– Ông Hội đồng chết thảm quá!... Tội.

Câu nói của Năm Hồng thổi phồng nỗi đau của Ba Hoàng, viên đại úy dốc cạn chỗ rượu trong ly, ngồi lặng. Đôi mắt vằn đỏ, lờ đờ. Đúng là ba gã chết tang thương quá. Khi được báo, từ trên đồn Ba Hoàng tuông về, xác Trần Nhũng vẫn nằm trong vũng máu, ngay giữa nhà. Ba vết đạn xuyên qua ngực trổ ra phía sau loe mở như ba chiếc phễu. Lưng nát bấy. Tờ giấy viết nguyệch ngoạc: “Cách mạng cảnh cáo những kẻ làm tay sai cho giặc” úp trên mặt. “Thằng nào?” - Ba Hoàng gầm một tiếng, xé vụn tờ giấy, rồi đứng lặng như chôn chân giữa nhà, cằm bạnh ra, hai hàm răng cắn vào nhau nổi lên những múi thịt, rung rung...

Người vợ ba của Trần Nhũng ngất xỉu, mềm nhũn hệt bị thịt chúi vào một góc, khuôn mặt trắng bạc như người chết đuối vừa vớt ở sông lên nghe tiếng gầm của con trai chồng chợt tỉnh, lập cập bò ra, đôi môi lắp bắp:

– Họ... Chúng có ba đứa... Rất sợ...

– Sao phải sợ! - Ba Hoàng hét - Mọi lần cãi nhau với chồng bà to mồm lắm mà...

– Đã kêu... Nhưng... họ có súng...

– Đúng là lợn cái - Ba Hoàng rủa rồi quay qua Nguyễn Xấn lúc ấy đang lấm lét và run rẩy đứng ngơ ngáo bên cạnh - Các ông canh phòng gác xách vậy đó?

– Thưa...

– Hay là chính dân vệ các ông có người dẫn đường? Sắp tới lượt ông rồi... Liệu mà mua quan tài trước.

Nguyễn Xấn ngước lên nhìn, đôi môi dẩu ra mấp ma mấp máy giống như đít gà cái lúc vừa đẻ trứng, chẳng rõ lão nói gì...

– Mà sao lão Nguyễn Xấn ngu vậy chớ... - Ba Hoàng tự tay rót rượu vào ly của mình, lại rót rượu vào ly của Năm Hồng - Khi nghe súng nổ lại ngỡ ba tôi bắn chơi... Mẹ khỉ, sao có loại dốt nát thậm tệ... Quả ba tôi thỉnh thoảng có chĩa khẩu côn lên trời bắn vài phát giải sầu. Nhưng phải phân biệt được tiếng cạc bin với tiếng súng ngắn chớ... Năm Hồng nhớ nghe, tôi đâu đã cho qua vụ này. Ba Hoàng là Ba Hoàng, Hai Rạng là Hai Rạng. Khác nhau chớ. Đụng vào cha con Trần Nhũng, Trần Hoàng là tụi du kích vuốt râu hùm rồi... Uống đi Năm Hồng. Uống với tôi ly nữa nghe... Có ly rượu vào trông Năm Hồng ngon quá ha. Hai má đỏ hây hây. Đẹp! Ngồi thêm với kẻ đang buồn này chút nữa...

– Mất mát gì mà không ngồi. - Năm Hồng đưa cặp mắt sắc được kẻ một vệt đen dưới mi rất điệu nghệ liếc nhìn Ba Hoàng. - Chỉ sợ cô đại úy hay, lại tới phá quán, kẹt đường làm ăn...

– Đã có Ba Hoàng bảo lãnh còn sợ chi ai... Nếu có người đến quậy cứ báo cho trung sĩ Độ hay. Trung sĩ Độ biết là Ba Hoàng biết... Nào, cạn... - Chợt Ba Hoàng đặt mạnh ly rượu xuống bàn, đôi mắt như hai hòn than hướng về cửa ra vào. - ủa, ai như là cô Tư Nhâm... Đúng Tư Nhâm rồi. Trung Sĩ Độ, kêu cô Tư tới luôn... Đúng là có duyên. Đang định gặp cô Tư thì cô Tư tới.

Từ cửa, Tư Nhâm lúng túng bước vào. Tình huống hơi bất ngờ khiến chị bối rối...

– Chào đại úy, chào trung sĩ, chào chị Năm.

– Cô Tư ngồi! -Trung sĩ Độ kéo thêm chiếc nghế. Tư Nhâm nhẹ nhàng thả mình xuống.

– Mời cô Tư một ly! - Ba Hoàng đưa cho Tư Nhâm ly rượu. - Hôm đám ông già tôi thấy có cô Tư đến viếng, cám ơn nghen.

– Nghĩa tử là nghĩa tận...

– Mấy lần về làng Cát có ý định ghé vô nhà chơi mà cô Tư đi vắng hoài.

– Tôi mải chạy chợ...

– Chỉ hai má con cũng cực vậy sao cô Tư?

– Thì cướp được của ai đâu mà không phải làm...

– Lại nặng lời rồi... Nghe nói cô Tư từ chối việc thiếu tá Hai Rạng chu cấp...

– Sao đại úy lại ngoèo ông thiếu tá vô đây?

– Vậy không có việc ấy thiệt sao?... Nghĩ tức cười, một thiếu phụ trên ba mươi tuổi, xinh đẹp, chín nẫu như quả lựu trên cây, lúc nào cũng có thể rụng, nếu không chờ ai đó hoặc hứa hẹn với ai đó thì phải lấy chồng chớ. Cớ gì để ông thiếu tá năn nỉ hoài...

– Tôi đã trót dại một lần nên đành cam chịu. - Tư Nhâm thong thả đáp

– Thiệt vậy sao?... Năm Hồng, chị có tin điều ấy không?

– Đại úy hôm nay uống hơi nhiều... - Năm Hồng đáp.

– Nghĩa là Năm Hồng biểu tôi say? Tôi không say... Hai Rạng mềm yếu cả tin, nhưng Ba Hoàng thì khác. Ba Hoàng không tin bé Thảo là con hoang. Người như cô Tư đây làm sao có khả năng ấy. Muốn trăng hoa đâu dễ. Lẳng lơ cũng phải có mác chớ, đúng không người đẹp Năm Hồng? Để có đứa con ngoài giá thú phải bản lĩnh lắm. Đến tay chơi cỡ vợ tôi hay Năm Hồng đây cũng chỉ dám nhảy múa vờn ve vòng ngoài, đâu có cái gan mang bầu. Hả, tôi nói đúng chớ, Năm?

– Suy diễn là quyền của đại úy. -Tư Nhâm đứng dậy -... Xin lỗi, tôi đang có việc bận.

– Cô Tư đừng đi vội... Phụ nữ có lòng chung thủy, một dạ chờ chồng, không chịu thành hôn với ai kể cả người có quyền thế trong quân lực cộng hòa, đáng nể đó... Nói vậy cho vui chớ tôi tin cô Tư. Bao giờ làm lễ cưới nhất định Ba Hoàng sẽ có quà mừng. Quà lớn... Bây giờ cô Tư cứ ngồi chơi, tôi đi... Tôi còn phải tìm cho ra mấy đứa gan to mật lớn dám giết ba tôi. Nếu phát hiện ra manh mối cô Tư giúp tôi nghe.

– Đàn bà con gái như tôi biết gì.

– Chà, khéo quá ha. Chào...

Ba Hoàng xiêu vẹo đứng lên, chật chưỡng bước.

– Bao nhiêu chị Năm? - Trung sĩ Độ vội hỏi.

– Thôi mà. Hôm nay đại úy có chuyện buồn, tôi khuyến mãi.

– Cám ơn nghe.

Hai Độ chạy ra đường cái, rất thành thạo tót lên xe. Chiếc Jeep nổ máy, chạy về thị tứ Lân Cồ.

– Cha Đại úy thấy em đâu là gây sự. - Tư Nhâm nhìn theo chiếc xe. - Kỳ thiệt!

– Cô mới là kỳ... - Năm Hồng thu dọn cốc đĩa trên bàn - Lão thiếu tá nó mê thì lấy phắt cho xong. Coi ra hắn cũng là thằng đực khỏe mạnh. Cứ vò võ một mình, thiếu đàn ông mà cô chịu được. Cô không đòi hỏi, không ham muốn cái thứ đời thường đó à? Phụ nữ như cô thiệt lạ.

– Em không có cái quyền dành cái không phải của mình...

– Cái gì là không phải của mình? Sinh ra đàn ông trên cõi này là để làm sướng phụ nữ chúng ta. Ta có toàn quyền...

– Với nữa hoàn cảnh em, chị tính... Rồi con chung, con riêng... em ngại lắm.

– Ngại thì đừng đẻ thêm nữa. Cô học tôi đây nè, thằng nào háo tôi cho uống nước tuốt. Mất gì. Hao gì. Có mòn đâu mà sợ. Nhưng phải là những gã khỏe mạnh, biết cách; chớ rượu vào rồi nhấp nhấp như con chuồn chuồn đạp nước làm mình thêm ngứa ngáy tôi đạp ra khỏi giường liền.

Tư Nhâm nhìn Năm Hồng, khẽ thở dài.

– Những thằng nát rượu như Ba Hoàng vợ nó theo trai là phải. - Năm Hồng nói tiếp - Đêm về nằm ườn xác ra ngáy, đàn bà nào chịu thấu. Thằng chồng trước bị tôi quẳng qua cửa sổ cũng bởi vậy. Mình rửa ráy xong, ưỡn ra tơ hơ chờ, nó đi về không kịp thay quần áo, ặt ra ngủ, lại chóp chép miệng nói mớ, mồm sặc hơi rượu nữa chớ... - Năm Hồng hạ giọng, nhìn Tư Nhâm bằng ánh mắt thông cảm. - Đàn bà không có đàn ông tưới tắm, khác gì cái cây không có nước, lúc nào cũng háo cũng cằn cõi, khô héo khổ lắm cô ạ...

Tư Nhâm ngồi im, nghe mà như không nghe. Đôi mắt nhìn ra đường cái giống đôi mắt kẻ vô hồn. Sao chị lại không rõ nỗi khổ nơi người đàn bà khi vắng thiếu đàn ông! Cũng da thịt ấy, cũng những nhu cầu ham muốn đời thường ấy, chớ đâu là gỗ đá. Có ai hay đêm đêm một mình chị bã bời trong nỗi khổ sở chống trả quyết liệt với những đòi hỏi nhức buốt cứ rình cơ hội nhoi lên hành hạ... Và đã bao lần chị thở dài với ý định buông xuôi bỏ cuộc. Đời người ngắn, đời con gái càng ngắn, sức chịu đựng có hạn, vở kịch lại không rõ bao giờ mới đến hồi cuối, hồi kết thúc. Chị quá mệt mỏi với vai diễn này rồi...

Nhưng có cái gì đó rất khó gọi tên khiến những tháng ngày qua chị phải trụ và đã trụ được. Chị vẫn làm tốt vai trò của mình trong hoàn cảnh éo le và hết sức cô đơn... Chính chị cũng ngạc nhiên bởi điều ấy... Phải chăng bên cạnh ý thức, cái ý thức bắt nguồn từ gốc gác gia đình hình thành từ khi Tư Nhâm còn bé xíu, cái ý thức được cài nắn tự nhiên vô thức trong những ngày ở cứ, là những ý niệm mơ hồ có tên nhiệm vụ, những quan hệ cụ thể, là thói quen và sự ràng níu vô hình của những sức mạnh kỳ bí không tên khác?... Và có lẽ còn là điều cụ thể này nữa: đại úy Ba Hoàng. Viên sĩ quan này đã khiến Tư Nhâm quá bận tâm đối phó mà quên đi những đòi hỏi đời thường như Năm Hồng nói. Mối hiểm họa luôn rình rập là sự quan tâm đầu tiên của con người. Lâu nay, bằng trực giác nhạy cảm buộc phải có ở những người sống trong hoàn cảnh như chị, Tư Nhâm cảm nhận được rằng Ba Hoàng đã bắt đầu manh nha một điều gì đó, có thể là những nghi ngờ đối với mình. Gã rình rập, cho người bí mật theo dõi và mỗi lần gặp lại huyên thuyên cố tình khiêu khích... Hễ rỗi rãi, hay những lúc nằm một mình trên giường, khuôn mặt có nước da trắng mịn như trứng gà bóc và đôi mắt luôn mở to với cái nhìn đa nghi soi mói của viên đại úy lại hiện lên. Mỗi khi đụng chị, gã nhệch cặp môi mỏng như lá lúa xéo sang một bên như thể là cười khiến Tư Nhâm chột dạ. Nụ cười nửa miệng hết sức tinh quái giễu cợt ấy như thể bảo rằng: đừng phù phép nghe, đừng nghĩ tôi không hay bà là người của Việt Cộng cài lại!... Chẳng hẳn không có lúc Tư Nhâm giật mình tự vấn, hay là thằng mật vụ cà trớn này đã nhìn thấy chút sáng của cây kim vẫn giấu trong bọc?...

Chị nhớ hồi cuối năm ngoái, cũng tại quán Năm Hồng, khi Tư Nhâm đang vô tình cầm tờ báo lên coi, một kẻ lạ mặt chừng trên bốn mươi tuổi đã lân la tới, tự nhiên ngồi xuống cạnh, thả nụ cười ruồi, hỏi:

– Xin lỗi, trông cô quen quen... Trước đây, hình như cô có ở K5...?

– K5? K5 là cái gì, thưa ông...

– Cô không nhớ K5, thiệt sao?

– Làm sao tôi biết... Tôi chỉ là người quê mùa...

– Chà, quê mùa mà cũng quan tâm tới thời sự ha?...

– Tôi chỉ quan tâm tới giá cá hàng ngày.

– Thấy cô có đọc báo mà.

– à, thấy thằng nhỏ tội tội, mua một tờ chơi.

– Cô có thể...

– Ông muốn đọc báo hôm nay phải không, tôi biếu ông...

Về tới nhà, lục lạo trí não mãi chị mới lờ mờ nhớ ra kẻ lạ mặt nọ. Hôm đó chị đi bán hàng trên chợ Lân Cồ. Buổi sáng, người mua kẻ bán khá đông... Một chú bé bán báo vặt từ phía phố, ôm xấp báo trên tay, vừa chạy vừa rao:

– Báo đây, báo đây! Tin chiến sự mới nhất... Tiểu đoàn dù đã đụng độ với một đơn vị quân Việt Cộng, và đã tiêu diệt hoàn toàn... Báo đây! Báo đây!

Đi qua chỗ Tư Nhâm, chú bé dừng lại:

– Mua tờ Cộng hoà ngôn luận, dì Hai?

– Sáng ra, dì chưa mở hàng! - Tư Nhâm đáp.

– Không có tiền, dì tặng con con cá nhỏ, con về nướng cho mèo.

Tư Nhâm cười: “Cái thằng!”, rồi chị nhặt con cá bằng bàn tay, xâu vào dây, đưa cho chú bé. Chú bé cảm ơn và biếu Tư Nhâm tờ báo, lại vụt đi, miệng rao dẻo quẹo... Tư Nhâm nhìn theo, thấy vui... Ai ngờ hành động của chị và chú bán báo không lọt qua mắt người đàn ông mặc thường phục, đeo kính mát đang ngồi trong quán giải khát gần đó.

– Nhóc! - Người đàn ông vẫy ngón tay trỏ.

– Ông mua báo? - Cậu bé bước vào, hớn hở hỏi - Nhiều tin hay lắm!

– Nè, tao muốn mua con cá mày c?