← Quay lại trang sách

⚝ III ⚝

Bảy năm sau.

Tiếng xe tăng rì rầm đâu đó vừa xa lại như thể rất gần và tiếng pháo nổ dồn đêm đêm khiến Tư Nhâm thao thức không sao ngủ được. Chị ôm cậu con trai lên sáu vào lòng dỏng tai lắng nghe và nghĩ lan man. Hồi hộp, thấp thỏm, nôn nao. Qua tin tức hàng ngày chị rõ Quân Giải phóng đang thắng lớn, chẳng mấy nữa sẽ vào tới đây. Bao mong đợi, ngày giải phóng cũng đã tới... Chị vui, hẳn rồi, song vẫn chạnh chút băn khoăn ngơ ngác...

Dịp này Hai Rạng ít về nhà. Anh bận trực ở Sở Chỉ huy. Chiến sự càng tới gần, Hai Rạng càng không còn thời gian dành cho vợ con. Một hôm Hai Rạng tạt qua và Tư Nhâm dễ dàng nhận ra có cái gì đó hết sức buồn nản, tiếc nuối và thất vọng trong đôi mắt mệt mỏi của anh.

– Tây Nguyên thất thủ rồi, ông Thiệu đã lệnh tùy nghi di tản. - Anh nói, giọng chán chường - Việt Cộng cũng sắp vô tới Lân Cồ, em và con thu xếp hành lý, chuẩn bị rời khỏi đây nghe.

Ban đầu Tư Nhâm chưa mấy ý thức hết về điều đó, niềm hân hoan hồn nhiên vốn ẩn trong tiềm thức lấn át mọi suy tính, nhưng hôm nghe tiếng đại bác nổ dồn nơi ngoại vi thị tứ và thấy từng tốp lính bất chấp Ba Hoàng hò hét, cởi bỏ quân phục trốn chui nhủi khắp xó xỉnh, rồi Hai Rạng thúc gói nhanh đồ vào vali, để cùng anh và con ra nước ngoài, chị mới hoang mang, bất định. Hai Rạng hứa rằng bất luận trường hợp nào cũng không để chị và con phải khổ. Nhiều năm sống bên con người đó, chị rõ bản tính Hai Rạng. Những gì anh nói là chân thành... Nhưng Tư Nhâm ra nước ngoài ư? Chẳng lẽ hoàn cảnh đã lại một lần nữa đẩy chị vào buớc ngoặt không hề có trong tư duy như vậy?... Tiếng súng càng gần, Tư Nhâm càng bối rối. Mấy ngày qua Hai Rạng vẫn kiên trì thuyết phục. Tuy nhiên, điều khiến chị mềm lòng không hẳn là tình cảm chân thực và tình yêu của anh đối với chị, mà là ánh mắt trẻ thơ của đứa con lên sáu tuổi. Mấy ngày qua cu Đức luôn miệng: “Má đi với ba, với con nghe má”. Và cuối cùng chị chấp nhận lời cầu khẩn của Hai Rạng như một thắng thế của bản năng yếu đuối nơi tình mẫu tử trước ý thức...

Buổi sáng hôm đó, đang ngồi thừ bên cửa sổ đưa đôi mắt ngẩn ngơ ngóng ra thì cu Đức hãi sợ chạy vào:

– Má ơi, sao mãi giờ ba chưa về, con sợ lắm! Họ chạy hết rồi.

– Họ chạy kệ họ! Con không phải sợ. Vô nhà đi, chớ ra đường. Nghe lời, má yêu.

– Con thấy mấy người lính lên xe chạy ra biển... Sao mãi ba không về?

– Ba đây! - Vừa lúc Hai Rạng ập vào. Anh vốn điềm tĩnh song lúc này trên gương mặt thoáng lộ sự hốt hoảng. Anh ngồi xuống, dang rộng hai cánh tay và như mọi lần, cu Đức lập tức sà tới, ôm ngang cổ.

– Ba ơi, nhà mình sao chưa đi? Mấy đứa bạn con lên xe từ hôm qua... Con sợ tiếng súng lắm.

– Nhà mình cũng sẽ đi, con đừng sợ. - Hai Rạng âu yếm xoa tay lên đầu con rồi quay qua Tư Nhâm, và khi thấy chị chưa tỏ ra đã sẵn sàng, anh ngạc nhiên:

– ủa! Em chưa chuẩn bị gì sao? Gấp lắm rồi. Họ chỉ còn cách thị tứ hai mươi ki lô mét.

– Dạ dạ, em sẽ thu xếp. - Tư Nhâm lơ đãng đáp, đáp như một thói quen, và bước tới bên chiếc tủ đứng.

– Quần áo em cho vào vali to, ít thôi. Chủ yếu là nữ trang và vàng. Tiền cũng vứt lại, vứt hết. Tiền ấy sang bên đó, làm sao tiêu? Thời gian không còn nhiều đâu. Lẹ tay lên!

– Dạ... em đang thu xếp...

– Anh tới doanh trại lấy thêm mấy thứ rồi quay lại đón má con. Em gắng lẹ chút.

– Ba về sớm nghe ba! - Thằng Đức chạy theo Hai Rạng, dặn với.

Tiếng súng nổ mỗi lúc một gần. Bên ngoài, người xe ngược xuôi nhốn nháo, náo loạn. Người ta thúc nhau, tranh giành gì đó. Hối hả. Vội vã. Cuống cuồng và sợ hãi... Hoàn toàn vô thức, Tư Nhâm lẳng lặng xếp quần áo vào vali, nhưng khi nhìn đồ đạc ngổn ngang trong nhà chị có ý định vất bỏ lại, chợt có cái gì đấy như thể là thoảng thốt, chị giật mình nhận ra sự vô lý trong hành động của mình. Sao lại phải bỏ trốn? Tư Nhâm chẳng vẫn ngong ngóng mong cho tới ngày hôm nay đó sao? Tự dưng bỏ lại mồ mả ba má mà đi ư? Mà trốn ai chớ, chẳng lẽ trốn “đằng mình”, chạy trốn những người đồng đội của Tư Lăng, cũng là đồng đội của chị?... Tư Nhâm như kẻ vô hồn ngồi thừ ra, hoang mang. Bây giờ chị mới thực sự thấy mình hoảng loạn, lo sợ...

– Má ơi, cho con mang theo con gấu bông nghe! - Tiếng thằng con trai thốt lên ngay cạnh khiến Tư Nhâm bừng tỉnh. Chị ậm ờ:

– ừ, con có thể mang theo cái gì con thích...

Con trai chạy đi rồi, Tư Nhâm lại phân tâm, không thật rõ tâm trạng mình, chị ngơ ngác ngồi lặng nhìn căn phòng bừa bộn đồ đạc. Tại sao cuộc đời lúc nào cũng dồn chị vào tình cảnh éo le, ép chị vào thế như thể ngưòi đứng ở ngã ba đường, luôn phải chọn lựa vậy chớ? Trớ trêu và vô lý quá! Tại sao chị lại phải rời nơi đây? Chẳng lẽ bắt đầu từ hôm nay sẽ phải xoá bỏ hết tất cả những gì đã có trên mảnh đất này, mảnh đất chị sinh ra, cho chị những kỷ niệm vui buồn sướng khổ, mảnh đất mà vì nó chị đã chịu bao tủi nhục, hiểu lầm để sắm vai một người khác?... Chưa bao giờ ý niệm quê hương lại cụ thể đến vậy, đó là ba má, là cánh đồng, những ngày ấu thơ, chân trần cắp sách đến trường làng, xục trong cát bỏng bên bờ sông và cả những ngày gian khổ nhường nhau từng mẩu sắn khô trong cứ... Chẳng lẽ mất hết... Nhưng nếu chị ở lại? Quyết định ở lại là đồng nghĩa với việc phải chấp nhận điều hết sức đáng sợ, vĩnh viễn xa đứa con mới lên sáu tuổi của mình. Thần kinh căng lên, bao toan tính cân nhắc, bao hãi hùng khi nghĩ tới hậu quả chị sẽ gánh chịu...

– Má à, má cho con mang theo con hươu bằng tre được không?

Bạn con nói bên đó không có tre... Lại không có cả rau muống nữa. Không có rau thì mình trồng, má nhỉ?

Tư Nhâm kéo con vào lòng, ôm chặt, nước mắt tự dưng ứa ra giàn giụa.

– Bên ấy thiếu nhiều thứ, con ạ... - Và chị buột thốt lên: Tại sao lại đặt tôi vào cảnh huống này hả ông trời?

– Má ơi, sao má khóc... Má nhớ à?... Con cũng nhớ.

– Má hỏi nè, sang bên ấy, nếu có ai đó hỏi rằng quê ở đâu, con trả lời sao?

– Con nói quê con ở miền Nam!

– Không đúng! Con phải nói quê con ở Việt Nam. Nhắc lại má nghe coi!

– Con là người Việt Nam! Quê con ở Việt Nam!

– Giỏi lắm!

Tư Nhâm hôn nhẹ vào má cu Đức rồi riết thằng bé vào lòng chặt hơn. Bên ngoài tiếng xe tăng nghe như đã áp sát ngay cạnh. Khói bụi bay mù mịt... Rồi có tiếng xe phanh gấp và Hai Rạng hơ hải chạy vào:

– Má con xong rồi chớ? Việt Cộng đã vào tới rìa thị tứ. Ta đi thôi, em.

Người lái xe hỏi:

– Thưa trung tá, cho đồ ra xe?

– Anh xách giùm chiếc vali to và cho cháu ra trước.

– Thưa rõ!

Thấy Tư Nhâm chưa có ý rời căn nhà, Hai Rạng thúc:

– Em còn nuối tiếc chi nữa?

Tư Nhâm vẫn ngồi lặng, nước mắt lưng tròng:

– Mình ơi!

– Nhanh, kẻo trễ, em!

– Mình ơi, em muốn nói chuyện với mình một lúc!

Hai Rạng chạy ra, ném chiếc vali nhỏ vào thùng xe, bước vào:

– Nói chuyện! Em nghĩ lúc này là lúc nào chớ? - Hai Rạng đứng sững giữa nhà, nhìn Tư Nhâm, rồi đưa tay nhìn đồng hồ.

– Nhưng đây là cơ hội để em có thể nói hết tất cả mọi điều. Em phải nói và em cần được nói ra... Xin mình đừng ngắt lời em. Dù là gấp cũng phải cho em được giãi bày, rồi sau đấy chúng ta sẽ quyết định...

Người lái xe chạy vào:

– Thưa trung tá... Việt Cộng đã...

– Anh ra xe và chờ ở đó!

– Những điều em sắp nói có thể khiến mình ngạc nhiên, nhưng xin mình thứ lỗi, đã đến lúc em không thể im lặng được nữa... Sự thật dẫu chua chát, vẫn là sự thật... Em là người của cách mạng, phía mà mình và người của mình vẫn gọi là Việt Cộng...

Hai Rạng quay nhanh lại, ngạc nhiên nhìn thẳng vào mặt Tư Nhâm.

– Cái gì? Em đang nói nhảm gì vậy?

– Mình hãy bình tĩnh cho em nói hết... Em được tổ chức bố trí cài lại để hoạt động hợp pháp. Em cần những tin tức tình báo nhằm phục vụ cho cách mạng, cho những con “tàu không số” chở vũ khí cập vào vùng này. Em lấy mình trước hết là nằm trong kế hoạch đó...

– Nói nhảm! Em ý thức được điều mình đang nói chớ?... Không đúng! Tôi không tin. Em cũng rõ là tôi cần em và yêu em như thế nào... Tôi không tin! Tôi không tin!

– Phải, có thể mình không tin... Nhưng sự thật là vậy. Ban đầu em lấy mình vì nhiệm vụ. Nhưng mình cũng biết là trong quá trình chung sống, em đã làm tròn bổn phận một người vợ. Chúng ta cũng đã có với nhau đứa con trai. Và dần dà thú thực em rất quý mình. Chúng ta đi hai con đường, nhưng em nhận ra rằng ở phương diện khác, mình là người chồng tốt, thương vợ, quý con... Nếu không ở trong hoàn cảnh éo le chúng ta đã trải qua, làm vợ mình, em chẳng có gì phải phàn nàn. Trời ơi, giá mà...

– Em im đi! Tôi không hiểu và không muốn hiểu gì cả. - Giọng Hai Rạng trở nên đắng chát. - Vợ tôi, Tư Nhâm là tình báo của Việt Cộng sao? Quá nực cười và vô lý... ừ mà cũng có thể... Phải rồi... Chẳng đã nhiều lần tôi thoáng thấy có điều gì đó khó giải thích. Nhưng tôi không dám đi đến tận cùng. Tôi cố đánh lừa mình và không dám đi đến tận cùng vì sao em rõ không? Vì tôi sợ, tôi sợ mất em... Tôi yêu em mà, Tư Nhâm. - Hai Rạng chợt sà xuống bên vợ, nước mắt cũng chảy ra. - Tôi yêu em mà...

– Điều đó thì em hiểu! Và không có gì phải nghi ngờ...

– Sao lại trớ trêu đến vậy? Tại sao chiến tranh lại trớ trêu đến vậy, ông trời? Tôi không hiểu gì cả! Không hiểu gì cả!

– Chiến tranh đã tạo nên những cảnh huống ngặt nghèo. Em đau lắm, cũng nhiều nỗi khổ tâm lắm! Nhưng chiến tranh sắp qua rồi. Chúng mình có thể bắt đầu lại từ đầu... Chúng ta sẽ sống bên nhau, không cần phải dối trá, không phải đóng kịch nữa... Chúng ta dũng cảm chấp nhận sự thật phũ phàng đã qua để bắt đầu một cuộc sống khác, có thể không mấy nhẹ nhàng, nhưng thật hơn...

– Em chớ quên rằng tôi là một sĩ quan trong quân lực Việt Nam cộng hoà... Tôi là một trung tá ngụy... Tôi ở trận tuyến khác... Phải, em nói đúng, chúng ta sẽ dũng cảm bắt đầu một cuộc sống mới. Để bắt đầu cuộc sống ấy, anh và em và con phải rời khỏi đây. Nơi đó, người ta chỉ biết Tư Nhâm là vợ của Hai Rạng, không ai hay Tư Nhâm là tình báo của Việt Cộng. Cũng không ai biết Hai Rạng là một trung tá. Chúng ta là những người bình thường...

– Mình ơi, nhưng em không thể... Em trốn ai? Và tại sao em phải chạy trốn? Chúng ta hãy cùng nhau ở lại. ở đất này, trên quê hương chúng ta, cũng có thể làm người bình thường, không thù hận được mà. Cơ hội đó đã đến...

Hai Rạng khó chịu:

– ở lại! Em xui tôi ở lại để Việt Cộng thoả mãn ý thức trả thù sao? Tôi đã từng cầm súng chống lại họ... Tư Nhâm, ta đi thôi em... Thời gian không còn đủ để đắn đo suy tính nữa đâu. Cấp bách lắm rồi. Đây là chuyến tàu cuối cùng.

– Mình ơi... Em xin mình... Đất này là quê hương chúng ta mà...

– Trời ơi, tôi biết làm thế nào bây giờ? - Hai Rạng chợt quỳ xuống trước mặt Tư Nhâm: Tôi van mình, hãy vì tôi, vì con. Hãy vì chúng ta... Ra xe đi mà mình!

– Em đâu muốn xa mình, xa con. Nhưng em không thể...! Mình hãy hiểu cho em.

– Em điên rồi! Mà không phải em điên, tôi đang điên... Tôi đang điên... Mà cho dù em là Việt Cộng, là Cộng sản hay gì gì, tôi cũng không thể mất em. Tôi không muốn mất em... Thà tôi tự tay giết em!

– Mình hãy làm điều gì mình cho là đúng... Mình bắn em đi nếu thấy như vậy thanh thản, dễ chịu hơn.

– Trời ơi! Giá mà tôi đủ sức làm được điều đó... Tư Nhâm, em thật độc ác... Em không nghĩ đến tôi, nhưng còn thằng Đức, còn con của chúng ta? Anh xin em! Anh xin em, Tư à!

Tư Nhâm xót buốt nói trong nước mắt:

– Có người mẹ nào lại muốn xa đứa con mình rứt ruột đẻ ra... Mình nghĩ em không đau sao?... Thôi mình và con đi kẻo nhỡ. Còn em... Rồi em sẽ liệu...

– Tư Nhâm!... Mình... không thể...

Từ ngoài, người lái xe hốt hoảng chạy vào:

– Dạ thưa trung tá, gấp rồi...

Hai Rạng rũ xuống như một tàu lá héo, anh lúng túng. Bên ngoài, đã nghe rõ tiếng xe tăng nghiến xích trên đường:

– Thôi cũng đành! Em rõ đó, anh đâu ở lại được... Anh đi... Anh đi trước nghe Tư... Em nhớ bảo trọng...

Hai Rạng ra xe rồi, Tư Nhâm thấy mình chếnh choáng hoảng loạn. Chị bàng hoàng trước quyết định của mình. Bủn rủn, chị qụy xuống bên bàn và khóc to. Khi nghe tiếng cánh cửa ôtô sập lại, kế đó là tiếng động cơ nổ giòn, Tư Nhâm nhận ra nỗi đau đang cào xé trái tim mình, chị tuông ra cổng. Xe chuyển bánh, chị chới với ngóng theo và nhận ra khuôn mặt buồn thảm của Hai Rạng, và đôi mắt của đứa con lên sáu phía sau lớp kính dày đang đau đáu hướng về phía chị. Và chị nghe rất

rõ tiếng thằng Đức mếu máo, quẫy lên trong xe: “Má ơi, má đi với con, má đừng bỏ con...”.

Tư Nhâm những muốn đuổi theo chiếc xe nhưng chẳng rõ sao hai chân chị như thể cứng lại, chị khuỵu xuống, hoảng hốt chới với hướng về phía làn bụi cuốn sau chiếc xe.

– Anh Hai, đừng bỏ em... Con ơi!... Đức ơi!... Đừng bỏ má. - Chị nghẹn ngào, giọng tắc nghẽn, rồi chị rên rẩm. - Vậy là tôi lại mất đứa con! Tôi mất cả rồi...

Khi Tư Nhâm không hay biết gì nữa, choáng loạn như người lơ lửng trên mây, không xác định được những gì đang xảy ra là thật hay chỉ là một giả định trong tưởng tượng, thẫn thờ lết vào nhà, thì như thể tình huống kịch, vừa lúc Ba Hoàng xuất hiện. Gã mặc thường phục, đôi mắt nhớn nhác giống kẻ ăn trộm gà, len lén chỉ sợ chủ nhân nhìn thấy. Nhưng khi đã lọt được vào căn nhà, gã tự tin hơn.

– Chào bà trung tá! - Gã lên tiếng.

Tư Nhâm ủ rũ bên bàn, không ngẩng lên.

– Đại uý Ba Hoàng, ông đến đó sao? - Không niềm nở, không sợ hãi, không hốt hoảng, Tư Nhâm nói mà không thật rõ đó có phải tiếng của mình, giọng chị giống như của người đang trong mộng mị hay ở thế giới bên kia vẳng tới. Dửng dưng, vô cảm.

– Tôi với bà còn một món nợ chưa trả được... Bà là Cộng sản nằm vùng! Là tình báo của Việt Cộng!

Tư Nhâm vẫn ngồi lặng.

– Vậy à? Bây giờ đại uý Ba Hoàng mới rõ, muộn rồi phải không?

– Chị không quay lại, nói đủng đỉnh.

– Chưa đâu, thưa bà. Bà có thể mê hoặc lão trung tá si tình chứ thằng Ba Hoàng này thì không... Ba Hoàng chưa bao giờ chịu là kẻ trắng tay, thua cuộc!

Tư Nhâm khẽ ngước lên và khi thấy nòng khẩu súng ngắn đang chĩa vào mình, chị nhìn xoáy vào đó, nói một cách bình thản:

– Đừng run tay nghe, Ba Hoàng. Nào, bắn đi! Bóp cò đi!... Tới lúc rồi đó!

– Ba Hoàng! Dừng lại!

Có tiếng gọi giật phía sau. Ba Hoàng vội đảo mắt quay nhìn. Nòng khẩu AR.15 đang chĩa vào gã, gần lắm. Viên sĩ quan thất sắc, chới với. Rồi gã lắp bắp:

– Hả? Mày... Mày cũng là Cộng sản?

– Bỏ súng xuống, quay lại và bước khỏi đây... Bước!

Ba Hoàng lấm lét. Có lẽ gã vẫn chưa đủ thời gian định thần để hiểu được điều gì đang xảy ra. Đôi mắt ẩn chứa sự khó hiểu, gã nhìn cái nòng súng đang rê về phía mình, đành thả khẩu côn xuống đất rồi chuệnh choạng, luống cuống bước thụt lùi ra khỏi ngôi nhà.

– Cám ơn anh Độ! Cám ơn đồng chí A5... - Tư Nhâm nói một cách khó khăn và chị lảo đảo đổ xuống chiếc ghế, đầu óc quay đảo.

– Tôi biết hắn thế nào cũng tới đây. - Hai Độ nói.

*

Những ngày chiến sự xảy ra giáp Lân Cồ, quán Năm Hồng thưa vắng khách. Súng nổ tứ bề, tâm trí đâu rỗi hơi ngồi nhậu. Tối tối hoạ hoằn lắm mới có vài ba người tạt qua, gọi cốc gì đó, uống rất vội và bước ra cũng rất vội. Song không vì vậy mà Năm Hồng đóng quán. Chị vẫn bày hàng. Việc ấy vừa là thói quen, vừa là sự ham thích.

Khuya khuya, chờ cho người khách hiếm hoi cuối cùng ra khỏi, chị sai người làm đóng cửa rồi bằng thói quen những ngày gần đây, bước tới bàn thờ mới lập treo bên vách, thắp hai nén nhang cắm xuống hai bát hương. Từ ngày hay tin Mười Bàng bị lính Ba Hoàng bắn chết trên Lân Cồ, chị cảm thấy hẫng hụt, trống trếnh như thể mất mát cái gì lớn lắm. Thương cảm, nhớ tiếc đã đành, nhưng chị còn nhận ra nơi mình thứ tình cảm là lạ chưa hề có đối với những người đàn ông khác. Và điều này mới kỳ, đêm đêm, khi đã liu thiu ngủ, chị vẫn thấy Mười Bàng, như một cái bóng lách qua cửa, vào giường. Thậm chí khi nằm với gã trai khác, để thêm hưng phấn, chị lại nghĩ đến người đàn ông đó. Mười Bàng với sự mạnh mẽ và cách làm tình tuyệt chiêu cứ ẩn hiện chấp chới trong tâm trí. Để tưởng nhớ người đã khuất, chị thuê đóng tấm gỗ, lập bàn thờ. Trên bàn thờ chị đặt hai bát hương, một dành cho Mười Bàng, và một, như chị nói, dành cho những chàng trai xấu số ít nhiều đã có chung đụng với chị. “Một khắc nên nghĩa”, nếu ai đó hỏi, chị đơn giản giải thích... Việc Năm Hồng vẫn thắp hương cho Mười Bàng không làm đại uý Ba Hoàng bằng lòng, một lần viên sĩ quan tới, mở chân theo hình chữ V úp ngược, đứng giữa quán, nhìn lên bàn thờ, kháy: “Việt Cộng vô thần, họ không khoái thờ phụng. Mà Mười Bàng là trùm chỉ huy Việt Cộng làng Cát, làm vậy Năm Hồng không sợ hệ luỵ sao?”. Năm Hồng nói cứng: “Tôi đâu thờ Việt Cộng, tôi cũng chẳng thờ Quốc gia, tôi chỉ tưởng nhớ tới những người đàn ông từng có lúc ngủ với mình. Đa phần là lính của đại uý đó. Với nữa Quốc gia hay Việt Cộng thì cũng từ một bọc sinh ra. Đồng bào mà xử tệ với nhau vậy sao đặng...”. Ba Hoàng khó chịu, trước khi rời quán buông một câu:

“Muốn làm ăn, nghiêm cấm dính líu tới Cộng quân. Không nghe, tôi cho lính hót quán đó”. Biết Ba Hoàng đe mình nhưng Năm Hồng đâu ngán, chị đưa cặp mắt sắc tựa dao cứa lên mặt viên sĩ quan, nửa đùa nửa thật: “E rằng lúc ấy người hối tiếc nhất lại là đại uý Ba Hoàng”... Viên đại uý bực, bỏ đi, từ đấy ít thấy qua lại. Vậy mà hôm nay, vừa định đi nghỉ, chợt Năm Hồng nghe có tiếng gọi gấp ngoài cửa. Chị nhận ra đó là tiếng Ba Hoàng.

– Cô đại uý đã cho phép hay sao giờ này đại uý còn mò tới? Súng đạn đang bắn quá trời! - Năm Hồng mở then cửa, ngạc nhiên nhìn vẻ hơ hải của viên sĩ quan khi gã hoảng hốt bước vào quán, giễu cợt.

– Tụi Ba Tánh, Ba Thành đang dẫn người lùng bắt. - Ba Hoàng không để ý đến thái độ chẳng mấy mặn mà của chủ nhà, nài nỉ: Năm Hồng cứu tôi nghe.

– Trước đây đại uý cũng sục họ gắt lắm... Đại uý hành thím Tư Đởn vậy, Ba Thành nó thù là phải... Ba Hoàng lấm lét ngó ra ngoài:

– Nói chi chuyện đó nữa. Gấp rồi, Năm Hồng tìm cách giúp với. Tôi đội ơn. Tụi nó rượt sắp tới nơi...

– Ai ngờ đại uý Ba Hoàng cũng có khi gặp cơ sự này...

– Sông có khúc, người có lúc.

– Vẫn còn hiểu được vậy sao?... Vào buồng ngủ của tôi và chui xuống gầm giường!

– Gầm giường?

– Đại uý chẳng vừa biểu tôi tìm cách giúp? Hay định để Ba Tánh gô cổ giải đi? Tuỳ!

– Cũng đành... Tôi phó mạng mình cho Năm Hồng đó.

– Vậy lẹ lên.

Ba Hoàng theo Năm Hồng vào phòng trong. Sau cái chỉ tay của người chủ quán, tuy thoáng chút chần chừ, song cuối cùng gã đại uý cũng nằm mẹp xuống sàn nhà và tựa con lươn lúc gặp mưa, trườn nhanh vào cái xó tối thấp tè ẩm mốc chừng hơn mét vuông chằng chịt màng nhện.

– Nhớ nằm yên đó!

– Những gì không phải trước đây coi như bỏ nghe, Năm Hồng. - Ba Hoang dán mình xuống sàn đất, cố ngoi cái cổ dài ngước lên nói vọng ra.

Năm Hồng không đáp, chị thúc chân vào người Ba Hoàng như có ý bảo rằng toài sâu vào rồi quay xuống nhà dưới, gọi:

– Tư!

– Dạ!

– Lên dì biểu!

Một thanh niên chừng mười bảy tuổi, hàng ngày vẫn làm công chạy hàng cho chủ nhà, đôi mắt đỏ như còn ngái ngủ, xộc tới.

– Dì Năm cho gọi?

– Biết làm đàn ông chớ?

– Con chưa rõ ý dì Năm.

– Ngủ với đàn bà lần nào chưa?

– Con chưa... Nhưng...

– Nhưng sao?

– Di Năm đừng quở nghe, cũng đã mấy bận, khi dì lục sục với đàn ông trên giường này, khó chịu không ngủ được, con có vạch liếp lé mắt lén nhòm...

– Cái thằng... Tưởng ngu ngơ chớ... Vậy bây giờ cởi quần áo rồi lên giường nằm.

– Dì Năm...

– Khoái nhòm trộm đàn ông hú hí với đàn bà là trưởng thành rồi, biết làm đàn ông rồi. Lẹ lên!

– Dạ!... Dì Năm chiều con thiệt?

Năm Hồng cũng tuột bỏ hết quần áo, vặn liu riu ngọn đèn và cùng lên giường.

– Đưa tay đây, vân vê chỗ này trước nè...

Một lát, chàng trai chợt dừng tay, nghển tai lắng nghe và sợ hãi thì thào:

– Hình như... Hình như có con gì lục cục dưới gầm giường, dì Năm.

– Thây kệ! Miết vô chỗ này nữa... Chà, coi bộ cũng rành ha... Chàng trai hì hì:

– Thấy những người ngủ với dì hay làm vậy, con bắt chước...

– Giỏi!

Chợt từ ngoài sân có nhiều bước chân vội vội nện tới, kế đấy là tiếng Ba Tánh choang choang tựa chiếc hũ sành vừa bị ném xuống nền đá:

– Năm Hồng ngủ chưa vậy?

Rồi không chờ chủ nhà lên tiếng, cánh cửa phòng ngoài hình như bị ai đó xô mạnh, tung ra. Chàng trai với tâm trạng lạ lẫm đang khoái cảm mân mê hai múm vú nơi bộ ngực trần mềm ấm của ngừơi đàn bà, chững lại, và tựa như con chuột nhìn thấy con rắn, theo bản năng, phản xạ hết sức tự nhiên, co rúm toàn thân; rồi sau đó lại giống chiếc lò xo bị nén được hất ngược, hoảng hốt chồm dậy. Song đôi tay trắng như hai chiếc ngà voi của Năm Hồng đã nhanh chóng kịp vít đầu cậu ta xuống khuôn ngực ngồn ngộn của mình.

– Ai đó, đêm hôm có việc gì mà tới chẳng đúng lúc vậy hè! - Vẫn không đổi thế nằm, hai cánh tay thuần thục đan xoắn ghì chặt xuống để cơ thể chàng trai úp trọn trên người, giọng Năm Hồng tỉnh khô.

Ba Tánh và đám người lăm lăm súng trong tay xộc vào. Tới cửa phòng ngủ thì sững lại. ánh đèn dẫu không mấy sáng cũng đủ để họ nhận ra trên giường, hai cơ thể, một đàn ông và một đàn bà trần như nhộng, nòn nõn những thịt đang chập dính, nhoà vào nhau.

– Xin lỗi nghe... Thấy ác ôn Ba Hoàng chạy về hướng này nên... - Ba Tánh hơi lùi lại, và hỏi. - Hắn có vô đây?

– Ba Hoàng con nhà Tư Nhũng làng Cát?... - Năm Hồng vẫn bện chặt cơ thể chàng trai trong vòng tay, trả lời tự nhiên.

– Phải! Năm Hồng nhìn thấy thằng ác ôn ấy, đúng chưa?

– Đại uý Ba Hoàng có vào... - Dưới gầm giường chật hẹp chợt có tiếng động cựa như là tiếng chuột gặm gỗ, Năm Hồng hắng giọng và nói tiếp: Nhưng thấy tôi đang... vầy, liền nhủi xuống trảng cát rồi.

– Xuống trảng cát? Thằng này ngoan cố thiệt... Nhanh chân, các đồng chí!

Chờ đám người ra khỏi phòng, chàng trai nhũn nhùn tựa quả sung chín nẫu rã rượi rụng khỏi bụng người đàn bà, miệng thều thả như kẻ sắp chết:

– Dì... dì cho con dậy nghe. Con sợ.

– Đàn ông lúc nào cũng lăm nhăm cúp càng vào như con cáy còn làm nên trò trống gì.

Chàng trai kêu Năm Hông bằng dì lí nhí câu gì đó trong miệng, lấm lét toài ra khỏi giường, vội vội quơ bộ quần áo và như ma đuổi, lủi nhanh xuống nhà dưới.

Năm Hồng lỏng người, vẫn không mảnh vải che thân, thuồn thuộn thừ ra, chán nản thở hắt. Chẳng rõ chị chán chường bởi sự vô tích sự của gã trai mới lớn hay chán chường bởi tình cảnh vô nghĩa vớ vẩn đang diễn ra buộc chị phải chứng kiến, phải tham gia.

– Ra được chưa, Năm?

Tiếng Ba Hoàng từ gầm giường nhợt nhão lăn ra càng kiến chị thất vọng, khó chịu. Chị bắt chéo hai chân khép cặp đùi che chỗ kín và vẫn nằm tênh hênh trên giường, cộc lốc:

– Ra!

Hệt con rùa, viên đại uý từ từ ló cái đầu có mớ tóc bù xù dính bết màng nhện khỏi khung gỗ, rồi khó nhọc tuồi dần tuồi dần toàn thân ra hẳn chỗ gã được cứu sống.

– Cám ơn nghe! - Viên đại uý vừa nói vừa phủi bụi quanh người. - Sẽ có lúc Ba Hoàng tôi đền đáp nghĩa cử này.

– Đền đáp... Tôi đâu cần ba cái thứ nhảm nhí đó.

– Dẫu sao Năm cũng đã nhọc lòng cứu tôi... Mà cứ tô hô vậy sao? Giúp tôi coi tụi Ba Tánh, Ba Thành đã biến chưa để còn liệu.

– Chẳng đã có lúc đại uý Ba Hoàng khoái của lạ, xin được một lần nhòm như vầy...

– Trời ơi, tính mạng đang tròng trành như chiếc lá me trước bão, tâm trí đâu nghĩ tới chuyện đó...

– Vậy xin lỗi nghe... - Năm Hồng xoay người, với chiếc váy ngủ may bằng thứ lụa mỏng như giấy pơ luya, khoác vào người, mặc mà như thể không mặc, rồi luẩy nguẩy hất cặp mông nung núc trắng ngộn bước ra nhà ngoài. Chị đảo mắt ngó quanh, đánh tiếng:

– Ba Tánh còn đó không, vô tôi biểu cái này...

Phía trước yên vắng. Trời đen thui, bóng tối quánh đặc như trong cái hũ sành nút lá chuối. Năm Hồng quay vào.

– Rút rồi... Giờ đại uý tính đi đâu? - Chị uể oải ngồi xuống và hỏi.

– Còn đi đâu nữa. Tôi đã gửi vợ con xuống tàu từ hôm trước...

– Có làng, có quê không ở, đua nhau sang nước người ăn nhờ ở đậu chi cho cực.

– Nó bắt phải vậy, nó buộc phải vậy...

– Ai?

– Cuộc chiến này!

– Thì cũng tự người mình gây ra...

– Phải, người mình... - Da mặt Ba Hoàng chợt bợt bạt, xám ngoét như da mặt kẻ vừa bị treo cổ mới được hạ xuống, rồi hỏi: Năm Hồng biết Sáu Sinh chớ?

– Người giáo làng ấy đứng đầu một phe, đối địch với phe Ba Hoàng, phải chưa?... Nói điều này đại uý đừng giận, nhìn từ phía sau, cái dáng đi của đại uý y trang dáng đi của ổng.

– Chết rồi!

– Sáu Sinh cũng chết rồi? - Vẫn ngồi bên mép giường, Năm Hồng sửng sốt quay lại. - Mỹ quốc hay Bắc Việt ở đâu không hay, chỉ thấy người làng Cát bắn giết người làng Cát, kỳ lạ!

Ba Hoàng không để ý đến đôi mắt ngạc nhiên của người chủ quán, nói tiếp, giọng tựa kẻ đang trong cơn mơ:

– Năm Bào biểu Sáu Sinh là ba đẻ của tôi...

– Đại uý nói sao?...

– Cuộc chiến này oái oăm khốn nạn vậy đó... Không sang bển, tôi còn dám ở lại mà sống nơi cái làng này nữa không?...

Năm Hồng như hiểu, chợt lại hắt tiếng thở mạnh. Chị thẫn thừ ngồi lặng như hoá băng, đôi mắt mệt mỏi hướng ra ngoài nhưng lại không nhìn vào đâu cả, tưng tửng thả một câu:

– Thiệt ngu!

Không biết là chị nhiếc ai, nhiếc cái gì.

Sau này, chẳng rõ do đâu có dăm ba người làng Cát, hình như cũng mang máng đánh hơi ra chuyện Năm Hồng đã từng cứu Ba Hoàng, nên lúc dư dư chén rượu, buông lời bàn: “Khi nguy hiểm, chỗ ẩn trốn bí mật nhất, an toàn nhất là đũng quần đàn bà!”. Còn vào giờ đó, lúc gã đại uý ngó trước nhìn sau rồi dẫu vẫn biết người phụ nữ vận chiếc áo ngủ mỏng đang khinh bỉ nhìn mình, lò dò truồi vào bóng tối, đã non non đêm. Đấy là thời khắc giao nối giữa ngày hôm trước và ngày hôm sau...

*

Lân Cồ được giải phóng, và Sài Gòn cũng đã được giải phóng. Điều ấy khiến nhiều người vui sướng, vui sướng một cách thái quá, nhưng cũng không ít kẻ choáng váng ngỡ ngàng...

Một hôm, Hai Độ đánh tiếng và đẩy cổng bước vào nhà. Tư Nhâm vội chạy ra.

– Anh Độ... Trời ơi, mấy hôm rày cứ mong anh hoài.

– Cô Tư mong tôi?

– Mọi việc đã kết thúc, phải không anh Độ? - Tư Nhâm mệt mỏi hỏi

– Kết thúc ư? Chưa đâu, bọn họ đang nhao nhác ra biển... Họ giành nhau xuống tàu để đi nước ngoài.

Tư Nhâm ngồi bất động. Hình ảnh thằng con trai mếu máo sau tấm kính cửa xe chập chờn trong đầu...

– Giải phóng rồi mà sao cứ thấy cô đơn, hiu hắt lạ. Anh có nhận ra vậy không, đồng chí A.5? - Một lát, Tư Nhâm nói.

– Tôi sắp rời khỏi Lân Cồ... Hôm nay tới là có ý chào cô Tư để chuẩn bị lên đường.

– Hả, anh cũng bỏ quê hương, anh Độ? - Giọng Tư Nhâm buồn bã. Chị nhìn thẳng và mặt Hai Độ.

– Đâu có! Hôm trước người ta gọi tôi ra trình diện. Tôi tới và họ thông báo rằng chuẩn bị đi vào trại.

Tư Nhâm ngạc nhiên, ngước lên, nói chậm rãi:

– Vào trại? Trại nào, anh Hai?

– Tôi vào trại cải tạo!

– Vào trại cải tạo? Anh phải đi cải tạo? Sao vậy được?

– Sao không, cô Tư? - Giọng Hai Độ trầm xuống, đau xót. - Tôi chẳng là một thượng sĩ trong quân lực Việt Nam Cộng hoà mặc áo Mỹ, cầm súng Mỹ đó sao?

– Trời ơi! Nhưng...

– Nhưng là người của cách mạng cài vào hàng ngũ địch, cô Tư định nói vậy phải không? Khéo mà mắc thêm một tội nữa đó. Ai giao nhiệm vụ? Sáu Quyên chết trong nhà tù, chú Sáu Sinh đã hy sinh. Hay cô Tư đứng ra bảo lãnh cho tôi? Vợ một trung tá ngụy đi bảo lãnh cho một lính ngụy, nghe tức cười...

– Phải, hoàn cảnh là vậy...

– Không ai tránh né được hoàn cảnh... Nhưng chẳng sao mà, cô Tư. - Giọng Hai Độ có cái gì chua chát. - Đất nước được yên hàn, mình cực nhiều rồi, nay chịu khó vào trại vài ba năm nữa để nghe giảng giải về lòng yêu nước, về lập trường, về Tổ quốc càng thấm nhuần, đúng không?

Tư Nhâm nhìn ra đâu đó và chợt không gìm được, thở hắt ra, có cái gì đấy rất khó giải thích, buồn mêng mang...

– Cô Tư còn khổ, còn chịu nhiều điều tai tiếng hơn tôi chớ. Đành vậy thôi! Ta gắng làm một con người tốt, hữu ích, chỉ cần lòng ta hiểu cho ta là đủ...

Hai Độ đi rồi, ngồi lại một mình trong ngôi nhà rỗng không, vắng hơi chồng, hơi con, ngẫm lại, Tư Nhâm không khỏi giật mình lo sợ khi ý thức hết hoàn cảnh. Quả chị đã trắng tay, đã bị cắt đi mọi liên hệ với tổ chức. Một lần nữa lại chơ vơ, giống như thân cây bật mất rễ, trước bão gió không còn đất bấu víu...

Rồi cuộc sống kế theo càng khiến chị ngấm hơn sự đắng chát, nghiệt ngã, trớ trêu nơi hoàn cảnh mình. Thời gian sau đó, thường xuyên chị bị chính quyền gọi lên. Một câu hỏi thường trực được đặt ra là tại sao chị không theo chồng con đi di tản, ở lại với mục đích gì? Tư Nhâm biết trả lời sao đây! Thì đành nói rằng mình và viên trung tá không hợp.

– Không hợp mà có con với nhau? - Người thẩm vấn có khuôn mặt non choẹt, nhưng lúc nào cũng làm bộ căng thẳng, luôn tỏ ra quan trọng, ngước lên nhìn chị và tra vấn. - Hôm trước chị bảo rằng chị không thể rời bỏ quê hương, hôm nay lại trả lời khác, sao vậy chị Tư? Chúng tôi không ngây thơ nghe... Thôi, chị có thể về, lúc nào cần chúng tôi cho gọi.

Tư Nhâm thấy mình đuối lý. Chị cúi xuống luống cuống tránh cái nhìn của người cán bộ có khuôn mặt non choẹt nhưng cố làm vẻ đạo mạo, lúc nào cũng tỏ ra bận rộn và quan trọng, rồi cắp nón đứng lên, ấp úng chào và thấp thửng bước ra khỏi công sở. Hai chân nặng tựa đeo đá. Sự ấp úng và thiếu nhất quán trong những lần trả lời thẩm vấn của chị là cái cớ để nhà chức trách dành cho mình được quyền nghi ngờ, cảnh giác... Tư Nhâm bị giám sát chặt hơn thời còn Ba Hoàng.

Nhưng điều khổ tâm không chỉ chỗ ấy. Sau ngày Lân Cồ giải phóng, mỗi lần ra đường hay có việc đến chỗ đông người, chị thường bắt gặp những ánh nhìn tò mò, khó chịu, thương hại, thậm chí khinh bỉ. Tình thế đẩy đưa khiến chị phải nhập vai làm diễn viên, sống khác mình để đến lúc này, sự éo le lại xô chị vào trạng huống không còn cái khả năng quay về với chính mình được nữa. Chị đã thành người khác. Ngày ngày cố sắm vai đóng lại chính mình mà nhạt nhoà, không giống. Nhiều lúc hoang mang, chị thẫn thờ tự hỏi mình là ai, nhưng không có câu trả lời. Và cũng không thể trả lời. “Chỉ cần ta hiểu cho lòng ta là đủ”, đó là câu Hai Độ nói để an ủi Tư Nhâm và an ủi cả anh ấy. Hôm đành liều tiễn Hai Độ lên xe đi vào trại cải tạo, nhìn vào đôi mắt có cái gì lạ lẫm, thoáng chút bàng hoàng và buồn rượi nơi anh, chị rõ Hai Độ cũng xót buốt và khổ sở lắm. Bàn tay giơ lên vẫy, miệng nhếch cười, mà khuôn mặt nhíu lại, cay cực như thể là đang mếu...

Tuy vậy chẳng rõ vì nguyên cớ gì, Tư Nhâm vẫn nuôi nơi mình một mỏng tang bâng quơ hy vọng và vẫn có ý đợi chờ. Cũng không thật rõ hy vọng và đợi chờ cái gì, song ngày ngày cứ thấy vẩn vơ, xốn xang tâm trạng thấp thỏm mong ngóng...

Một ngày nọ, thoáng thấy bóng người mặc quân phục ra dáng cán bộ cách mạng ngấp nghển nơi cổng có ý dò hỏi, chị mừng rỡ, chân thấp chân cao hớp hởi chạy ra. Chị hồi hộp chào hỏi và mời người đó vào nhà. Nhưng cuộc viếng thăm của vị khách, là cán bộ cách mạng không mời mà đến ấy lại khiến chị thêm khổ sở, thêm buồn phiền và tủi phận.

– Xin lỗi, anh là... - Tư Nhâm rót nước mời và khấp khởi hỏi.

– Tôi chỉ là kẻ qua đường bình thường. - Khách đáp - Qua đây muốn ghé vào hỏi thăm...

– Hỏi thăm? Anh quen biết ai vùng này sao?

– Tôi có một món nợ, dẫu rõ rằng không thể trả hết, song cũng muốn chí ít giúp mình được thanh thản phần nào...

– Tôi ngỡ những người chiến thắng chỉ biết đi đòi nợ? - Tư Nhâm như thể đã hiểu ra vấn đề, chán chường hỏi lại.

– Xin lỗi, chị cho hỏi, chị có biết một người tên là Tư Nhâm, vợ một thuỷ thủ trên “tàu không số” đã hy sinh khi con tàu đó chở vũ khí cập vào vùng ta?

Như thể chạm vào than nóng, Tư Nhâm giật mình, có cái gì đó bất thường khiến chị thất sắc. Nhưng vốn đã quen ứng phó với nhiều cảnh huống bất chợt ngoài dự kiến, chị nhanh chóng lấy lại bình tĩnh.

– Tư Nhâm, vợ một thuỷ thủ trên “tàu không số” à? - Chị đáp, dừng lại hít sâu không khí vào lồng ngực và nói tiếp: Có, tôi có biết, nhưng... vợ Tư Lăng chết rồi!

Tư Nhâm nói với giọng tỉnh không, dửng dưng như thể người ngoài cuộc, dửng dưng như thể mình chỉ là kẻ qua đường, vô tình biết chuyện, không hề can dự vào những gì đã xẩy ra. Hình như cuộc sống và thời gian với nhiều bất hạnh đã lắng đọng tạo ra nơi chị lối ứng xử như thế...

– Chết rồi? Chị ấy chết rồi! - Người khách thoảng thốt. - Trời ơi, vậy là tôi đã tới trễ.

– Phải, đã quá trễ. Tư Nhâm đã không còn sau cái chết của Tư Lăng một trăm ngày.

– Tội quá! Xin lỗi, chị có thể cho biết rõ hơn, chị ấy đã hy sinh như thế nào và trong trường hợp nào?

Tư Nhâm vẫn như thể người vô cảm, chị nói và cũng nhận ra sự lạnh lùng trong giọng mình:

– Cái chết rất kì quặc. Chết mà vẫn sống, sống như đã chết. Có những cái chết trong chiến tranh rất khó xác định. Con người trong chiến tranh lạ lắm.

– Chị nói đúng. Ngay cả cái sống cũng vậy, rất kỳ quặc. Đã dành phần sống của người khác thì dù tồn tại, cũng coi như đã chết... - Người khách tỏ ra thất vọng. - Thế là món nợ đó tôi lại đành cõng theo trên lưng suốt đời... Tôi đã gắng về đây với hy vọng được san vơi ít nhiều, vậy mà...

– Anh đã làm gì để đến nỗi phải mắc vào món nợ đó?

– Có giải thích, chị cũng không rõ... Chị chẳng vừa nói, con người trong chiến tranh lạ lắm đó sao!

– Vậy mong anh chóng lấy lại được sự bình tâm, thanh thản...

– Khó! Tôi đã gắng, nhưng hình như càng gắng càng bị dằn vặt. Sau chuyến đưa vũ khí vào vùng biển này bị lộ và phải cho nổ tàu, tôi đã đòi được đi thêm nhiều chuyến nữa. Những chuyến đi nguy hiểm. Sóng gió. Kẻ thù. Không ít lần chúng tôi đụng độ với địch. Lạ là tôi đã không còn sợ chết. Nói điều này có thể chị không tin, nhưng quả vậy, đã nhiều lúc tôi thậm chí mong có một viên đạn xuyên qua người mình. Thế là được giải thoát, và mọi việc kết thúc. Lạ thay, đạn kẻ thù đã cố tình tránh tôi. Sau mỗi chuyến đi, tôi được tâng bốc như một người anh hùng, và huân chương, cấp bậc, địa vị theo đó mà đến... Họ đâu biết tôi biểu hiện cái gọi là dũng cảm ấy chỉ vì muốn chuộc lại chút nợ. Tôi chỉ vì mình...

– Có lẽ tôi hiểu và thông cảm được phần nào tâm trạng của anh! - Giọng Tư Nhâm đã dịu trở lại.

– Cám ơn chị, xin được hỏi thêm câu nữa, chị có rõ cháu Thảo, con gái của Tư Lăng và Tư Nhâm giờ sống thế nào?

Tư Nhâm thoáng lắng đi một lát. Hình như chị cố gắng nén tiếng thở mạnh.

– Tôi cũng không thật rành. - Chị nói - Có người bảo đã từng gặp cháu trong rừng, nhưng lại có người cho hay đã gặp một đứa hao hao giống cháu làm ở quán bar trong Sài Gòn...

– Tôi nghĩ cô gái đó chắc sẽ chọn con đường của ba má... Tự giới thiệu với chị, tôi là thượng tá Đàm Quang Chiêu, trước đây vốn là chính trị viên trên “tàu không số”, con tàu Tư Lăng từng làm thuyền phó... Xin lỗi, còn chị là...?

– Tôi là ai ư? - Có cái gì gợn lên chút chua chát, ngậm ngùi, nhưng giọng Tư Nhâm vẫn rành rẽ. - Tôi là vợ một sĩ quan cao cấp trong quân đội Việt Nam cộng hoà mà các anh vẫn gọi là sĩ quan ngụy...

*

Ngày tháng qua nhanh, Tư Nhâm cam đành lặng lẽ sống trong nỗi cô đơn, nhiều trắc trở của số phận mình. Chị quen dần với những gì đã đến, đang đến... Và để vượt qua những cay cực, chị vẫn an ủi rằng so với Sáu Quyên, Sáu Sinh, Mười Bàng, Hai Liên... và nhiều người khác, chị vẫn may mắn hơn. Một lần chị nói ý ấy với Hai Độ, người thượng sĩ mới đi cải tạo về gật gù:

– Cô Tư nói đúng!... Những ngày ở trong trại, tôi ngẫm ra nhiều điều lắm. Giá chi đừng có hiềm khích, đừng đánh nhau! Máu đỏ da vàng cả mà...

Từ ngày đi cải tạo về, dường như Hai Độ đã nhận ra được điều gì, bởi vậy mà anh ít nói hơn, và cũng ít đến thăm chơi với Tư Nhâm. Bẵng đi không thấy Hai Độ tới, Tư Nhâm có ý mong. Còn ai hiểu chị, rõ hoàn cảnh chị hơn anh nữa!

– ở Lân Cồ này chỉ còn anh và chị Năm Hồng là chỗ thân quen. Vậy nên năng tới thăm nghe, anh Hai! - Một lần Tư Nhâm nói.

Hai Độ nhếch mép cười buồn:

– Cũng muốn tới cô Tư chơi luôn luôn cho đỡ sầu, nhưng vẫn nơm nớp sợ mấy đứa cán bộ sau bảy lăm nó nghi bọn mình tụ tập cấu kết phá phách chi đó nên cũng ngại. Là tôi giữ cho cô Tư, còn tôi... Bọn đó đang thích lập công nhằm phô diễn lập trường mà.

Tư Nhâm thở hắt ra, ngồi lặng.

Thỉnh thoảng buồn, chị tới chỗ Năm Hồng chơi. Người chủ quán vô tâm bất biết Tư Nhâm là Việt Cộng hay ngụy, vẫn xởi lởi tốt tính như xưa. Sau ngày giải phóng, lính miền Bắc vào đông, coi ra chị đông khách hơn, làm ăn còn khấm khá hơn. Chẳng rõ sao, thời gian không làm nhạt phai nhan sắc nơi chị. Năm Hồng vẫn phây phây, vẫn ngon mắt như khúc giò lụa, thoáng nhìn đã muốn cắn. Và vẫn không ít kẻ háo thèm, ngoài mặt thì làm bộ cao đạo, cố tỏ ra người đứng đắn, nhưng trong lòng lại rạo rực khát háo, và đêm đêm vẫn trốn đồng đội lén đến lên giường với người đàn bà này.

– Bọn đàn ông vẫn hám, và bản thân chị cũng còn thích, trước thì bên nọ nay lại bên kia, bên nào thì cũng là người Việt ta cả... Nhưng có tuổi rồi cô ạ, không được như trước. Với nữa toàn bọn xa vợ, lại bị cấm kỵ nên mỗi lần gặp, hung lắm. Giá như trước đây được thế! - Có lần Năm Hồng toét miệng cười, tâm sự, rồi vẫn như ngày nào, lại khuyên: Hay là cô tới đây làm với tôi, mình nuôi mấy đưa choai choai là đủ sống. Lính xa nhà chúng nó háo... Mà cô ngu quá, cớ chi để Hai Rạng tót sang bên đó một mình chớ. Hay thằng ấy có vấn đề về đàn ông? Mà vấn đề đàn ông sao có con được? Nè, người đàn bà có thể bỏ chồng chứ không ai bỏ con... Cô thiệt kỳ.

– Nhắc chi chuyện đó nữa thêm buồn, chị Năm... Giá mà má em còn, em về dưới đó sống là khoẻ.

– Lâu nay nhận được tin tức gì bên ấy gửi về không? - Năm Hồng hạ giọng.

Tư Nhâm không đáp, chị cũng không thật rành rằng mình có ngóng tin Hai Rạng. Nhưng điều này chị rõ, đêm đêm, ôm gối nằm một mình, chị nhớ thằng Đức đến thắt thẻo, đến khô héo, hễ nghĩ tới hình ảnh thằng con trai chơi vơi sau cửa hậu chiếc xe, mếu máo gào khóc: “Má ơi, má đừng bỏ con”, chị lại ứa nước mắt, thao thức nhói buốt không sao ngủ được, và những lúc như vậy hình như chị có chờ, có đợi, có ý ngóng một điều gì đấy...

Dịp này Tư Nhâm thường hay lui tới đài tưởng niệm tàu không số địa phương mới xây dựng. Chị ra chợ mua hoa, lặng lẽ đi bộ đến đó rồi đứng lặng hồi lâu. Hôm ấy chị rời tượng đài chưa mấy bước, thì có nhóm thiếu nhi ào tới. Lúc sau nghe một giọng trẻ nít từ phía đó:

– Vứt hoa của người kia đi. Không cho bả để chung với hoa của tụi mình. Lính của lão trung tá chồng bả đã bắn chết anh Hai tao. Tao ghét bà ấy lắm!

Đã quen với những trường hợp tương tự, Tư Nhâm không quay lại, chị lẳng lặng đi xuống bờ biển.

Gần đây chị có thói quen, thích đứng lặng hồi lâu bên mép nước thẫn thờ ngóng ra xa, thật xa. Cũng chẳng rõ rằng mình mong đợi điều gì ở biển.

Tiếng sóng rầm rào đơn điệu dội tới buồn rượi, khắc khoải tựa hơi thở dài. Dưới ngàn vạn con sóng triền miên nối nhau uể oải đổ vào bờ ấy, chị dễ dàng nhận ra còn có những con sóng khác nữa, những con sóng chìm.

Hết.