Chương 1
Mẹ bảo tôi cùng đi bán nhà với bà. Sáng nay, bà mới đến Barranquilla từ một thị trấn xa xôi, nơi gia đình tôi sinh sống. Bà đang lúng túng vì chưa biết phải tìm tôi ở đâu. Bà hỏi hết người này đến người kia và được biết là nếu tôi không ở cửa hàng sách Thế giới, thì cũng ở các quán cà phê gần đó, nơi ngày hai lần tôi thường la cà để tán chuyện với bạn bè văn chương. Người mách bảo với bà điều này còn dặn đi dặn lại rằng, “Có đến đấy thì bà phải hết sức cẩn thận vì cái chốn đó toàn tụ tập những kẻ điên rồ thôi” . Đúng mười hai giờ trưa, mẹ xuất hiện. Bà nhẹ nhàng len lỏi giữa các giá sách trưng bày, đứng trước mặt, nhìn thẳng vào mắt tôi rồi nở nụ cười hóm hỉnh như những ngày son trẻ, và trước khi tôi kịp phản ứng, bà nói ngay:
- Mẹ đây con.
Hình như có điều gì đó thay đổi ở bà nhưng tôi không thể nhận ra ngay. Mẹ tôi, người đàn bà bốn mươi lăm tuổi tảo tần lam lũ với tổng cộng mười một lần sinh nở, giờ đây đang đứng trước mặt tôi. Nét mặt phờ phạc, mái tóc bạc trắng trước tuổi, đôi mắt mở to, dường như lờ đờ hơn sau đôi kính hai tròng. Trong bộ đồ để tang bà ngoại, mẹ vẫn giữ được nét đẹp thánh thiện của mình - một nét đẹp cổ điển mà những tấm hình cưới của bà là bằng chứng xác thực nhất. Trước khi ôm hôn tôi, bà nói với phong thái trịnh trọng thường ngày:
- Con có hiểu vì sao mà mẹ cất công lặn lội đến đây không? Mẹ muốn con cùng đi bán nhà, con thấy sao?
Bà chẳng cần phải nói nhà nào, ở đâu vì chúng tôi chỉ có duy nhất một căn nhà. Đó là ngôi nhà cũ của ông bà ngoại ở Aracataca, nơi tôi may mắn được sinh ra và sau khi tròn tám tuổi thì chưa một lần quay lại nơi đó nữa. Tôi vừa bỏ học sau sáu học kỳ “dùi kinh nấu sử” ở trường Luật. Suốt thời gian đó, sở thích duy nhất của tôi là đọc sách. Tôi có thể đọc ngấu nghiến bất cứ cuốn sách nào vớ được và học thuộc lòng những bài thơ độc đáo của Thế kỷ vàng Tây Ban Nha. Tôi đã đọc hầu hết các bản dịch cũng như nguyên bản các tác phẩm được coi là nổi tiếng lúc bấy giờ và những cuốn sách đó đã cho tôi hiểu được kỹ năng cũng như các tiểu xảo cần có khi viết tiểu thuyết. Và tôi cũng đã có sáu truyện ngắn được đăng trên các phụ trương báo chí. Điều đó khiến bạn bè nể phục, khen ngợi và thậm chí còn gây được sự chú ý với một số nhà phê bình. Tôi - một thanh niên hoàn toàn khỏe mạnh nhưng mắc khá nhiều tật xấu: trốn nghĩa vụ quân sự, không dưới hai lần mắc bệnh lậu, và là một con nghiện thuốc lá hạng nặng với sáu mươi điếu thuốc lá loại rẻ tiền mỗi ngày. Vào những lúc rảnh rỗi, với chút tiền nhuận bút viết cho tờ El Helrado tôi thường hay đến Barranquilla và Cartagena de Indias, hai địa điểm ăn chơi bên bờ biển Caribe, để tiêu khiển và đốt đời mình trong hơi thuốc lá, rượu mạnh cùng những cô gái làng chơi gợi cảm. Với tôi, cuộc sống hình như còn thiếu một chút gì đó, và với cá tính nổi loạn, tôi đã quyết định cùng nhóm bạn bè thân thiết của mình mạo hiểm xuất bản một tờ tuần báo mà Alfonso Fuenmayor đã ấp ủ và dự kiến từ ba năm trước. Với một gã trai mang nhiều mộng ước văn chương như tôi, còn có điều gì đáng mong ước hơn thế nữa?
Chỉ vì cái ví lép kẹp chứ tôi nào có thích thú gì với dáng vẻ bề ngoài của mình với kiểu ăn mặc và đầu tóc rơi rớt lại từ thập niên hai mươi: râu mép rậm rì, mái tóc bờm xờm, quần bò, áo sơ mi chim cò sặc sỡ cùng đôi dép xăng đan dã chiến. Trong bóng tối của rạp chiếu bóng, vì không biết là tôi đang ngồi ngay gần bên, một cô bạn gái thời ấy đã nói bâng quơ với một người nào đó: “Anh chàng Gabo (tên gọi thân mật của Gabriel Márquez) tội nghiệp dạo này hư hỏng quá” . Vì vậy, khi mẹ bảo cùng đi bán nhà với bà thì tôi chẳng còn cách nào khác ngoài việc gật đầu đồng ý. Bà than vãn với tôi rằng hiện tại bà không có đủ tiền và tôi kiêu hãnh trả lời là sẽ tự trang trải được mọi chi phí cho bản thân mình.
Tòa soạn báo nơi tôi làm việc không thể giải quyết được tất cả những nhu cầu về tiền bạc của tôi. Người ta chỉ có thể trả ba đồng peso tiền nhuận bút cho một bài viết và bốn đồng cho một bài bình luận, và chỉ vào những lúc tay bình luận viên chuyên trách bận việc không thể đảm nhận được. Với vài đồng bạc quèn này, tôi chỉ đủ trang trải cho những nhu cầu thiết yếu nhất của mình. Và rồi, trong cơn quẫn bách về tài chính, tôi tìm cách gõ cửa ngân hàng, nhưng vị giám đốc kho bạc với vẻ mặt không vui đã nhắc khéo đến món nợ gốc của tôi giờ đã lên đến hơn năm mươi peso. Buổi chiều hôm đó, cùng đường, tôi đã phạm một lỗi mà không một người bạn nào của tôi dám làm - lạm dụng lòng tốt của người khác. Ngay ở cửa ra vào quán cà phê Colombia, gần hiệu sách mà bọn tôi vẫn thường hay tụ tập, tôi gặp ngài Ramón Vinyes, vị giáo sư già và là nhà viết kịch người Catalan - Tây Ban Nha và tôi đã nài nỉ xin vay mười peso. Người đàn ông tốt bụng đó đã dốc đến đồng bạc cuối cùng đưa cho tôi bởi trong túi ông lúc đó chỉ còn vẻn vẹn sáu peso.
Vào lúc ấy, mẹ và tất nhiên cả tôi nữa không thể nào hình dung được ý nghĩa của chuyến đi ngây ngô đó. Một chuyến đi bão táp nhưng mãi mãi hằn sâu trong ký ức của tôi đến mức dù sau này tôi có sống lâu muôn tuổi và thừa tài năng cũng không đủ sức kể hết được. Bây giờ, khi đã sống đến hơn bảy mươi lăm năm có thừa, tôi đã hiểu đó là quyết định quan trọng nhất trong sự nghiệp văn chương của mình, hay nói cách khác, trong suốt cuộc đời tôi.
Với bất kì ai thì cho đến tuổi thiếu niên, ký ức vẫn thường có ý nghĩa với tương lai hơn là quá khứ. Vì thế hồi ức của tôi về thị trấn nơi tôi sinh ra vẫn chưa bị nỗi nhớ lý tưởng hóa. Thị trấn bé nhỏ đó vẫn sống trong trí nhớ của tôi đúng như hình ảnh thực của nó: một nơi tốt lành để sống, ở đấy người ta ai cũng biết nhau, một thị trấn nằm bên một dòng sông nước trong leo lẻo chảy qua các ghềnh đá trắng và hòn nào hòn nấy to như những quả trứng thời tiền sử. Những buổi chiều tà, nhất là vào dịp tháng Chạp, khi những cơn mưa rào xối xả tạnh hẳn, vòm trời trong vắt quang quẻ, thì dường như dãy núi Sierra Nevada de Santa Marta quanh năm tuyết phủ trắng xóa đang dần hiện ra bên những trang trại trồng chuối xanh ngăn ngắt phía bên kia sông. Ở đó, những thổ dân thuộc chủng tộc Arhuacos miệng nhai lá coca, lưng cõng các bao gừng, trông hệt như một đàn kiến tha mồi, mon men đi dọc theo các con đường mòn trên dốc núi. Thời đó, lũ trẻ con chúng tôi vẫn mơ lấy tuyết trên các đỉnh núi về vo tròn làm bóng chơi trận giả trên các đường phố dưới cái nắng như thiêu như đốt. Cái nóng hầm hập ở xứ này, nhất là vào buổi trưa, vô lý đến mức ai cũng phải than phiền như thể đó là một cái gì rất bất ngờ trong ngày vậy. Từ lúc còn bé xíu, tôi đã nghe người ta thường nói rằng công nhân trên tuyến đường sắt cũng như tại các trang trại trồng chuối của United Fruit Company (Công ty hoa quả thống nhất) toàn phải làm việc vào ban đêm vì ban ngày không ai cầm nổi các công cụ bằng sắt bởi chúng đã bị cái nắng gay gắt của xứ này nung cho bỏng rát.
Phương tiện di chuyển duy nhất từ thị trấn Barranquilla đến Aracataca là tàu thủy - loại tàu cũ được chế tạo lại cho hợp với điều kiện sông nước ở vùng này. Con tàu cũ kỹ ì ạch chạy trên một con kênh hẹp được nạo vét bởi những người nô lệ từ thời thuộc địa, và để đến được thị trấn Cienaga bí ẩn, hành khách phải đi qua một vùng đầm lầy đục ngầu những bùn. Từ đó, họ lại phải đáp chuyến tàu chợ mà thời mới xây dựng được coi là tuyến xe lửa tốt nhất trong nước, với một hành trình dài dằng dặc chạy qua các đồn điền trồng chuối mênh mông và liên tục dừng lại ở các nhà ga vắng vẻ với những làng mạc oi bức và bụi bặm. Chuyến đi nhớ đời của hai mẹ con tôi khởi hành vào lúc bảy giờ tối thứ Bảy ngày 18 tháng 2 năm 1950 - tức là đêm trước ngày hội hóa trang. Hai mẹ con, một già một trẻ lầm lũi ra ga tàu dưới cơn mưa tầm tã khác thường, trong lưng chỉ có ba mươi hai peso để quay về nếu việc bán nhà không suôn sẻ như dự kiến.
Tối hôm đó, cơn gió vùng nhiệt đới lồng lộn mạnh đến nỗi, đứng ở ngay bến sông tôi đã phải khó khăn lắm mới thuyết phục được mẹ lên tàu. Có rất nhiều lý do để bà từ chối chuyến đi giông bão này. Con tàu là một bản sao thu nhỏ của chiếc tàu thủy kiểu Nueva Orleans, nhưng với cái máy chạy bằng dầu diezen, nó chao đảo như một con thuyền nhỏ vào ngày cả gió. Trên tàu có một phòng nhỏ có móc đóng sẵn tiện cho hành khách mắc võng tùy theo độ cao khác nhau. Những ghế băng cũ kỹ dùng để chất hành lý, các túi hàng, rọ nhốt gà thậm chí cả lợn. Một số phòng ngủ có hai giường cố định theo kiểu trại lính thường do mấy cô điếm mạt hạng chiếm giữ để làm dịch vụ khẩn cấp suốt cuộc hành trình. Đến phút cuối cùng, do không tranh được chiếc giường nào và cũng quên không mang theo võng nên hai mẹ con tôi phải lao vào giành giật với đám khách hổ lốn để có được hai chiếc ghế sắt mà ngồi qua đêm.
Đúng như điều mẹ từng lo lắng trước đó, cơn giông khiến con tàu cà khổ vật vã lắc lư suốt cuộc hành trình trên sông Magdalena mà cách đó không xa là cửa sông vốn nổi tiếng thất thường bởi thời tiết đỏng đảnh cũng như những trận cuồng nộ của đại dương. Lúc ở trên bến, tôi đã kịp mua dự trữ một mớ thuốc lá rẻ tiền, sợi đen xì cùng một tờ giấy cuốn nhàu nát chẳng khác gì miếng giấy lau. Tôi bắt đầu hút thuốc theo kiểu của tôi hồi đó, nghĩa là dùng đầu mẩu của điếu này châm cho điếu khác khi ngồi nghiền ngẫm lại cuốn Ánh sáng tháng Tám của William Faulkner - một người trung thành nhất trong số những người đỡ đầu kỳ lạ của tôi thời bấy giờ. Mẹ tôi giữ chặt cuốn kinh cầu nguyện trong tay, cứ như đó là một vật bảo bối bất ly thân của bà. Theo lẽ thường, bà chẳng bao giờ cầu nguyện một điều gì cho riêng bản thân mình mà chỉ cầu mong sức khỏe và sự thịnh vượng cho mười một đứa con bé bỏng của bà mà thôi. Có thể lời cầu nguyện của bà đã trở nên hiệu nghiệm bởi khi con tàu đi vào dòng kênh hẹp thì cơn mưa cũng dịu bớt và gió thổi nhẹ nhàng hơn như để xua đi đàn muỗi đang vo ve vì đói mồi. Mẹ liền cất cuốn kinh cầu nguyện và trong suốt chuyến đi bà chỉ âm thầm quan sát sự ồn ào của đời thường đang diễn ra xung quanh.
Mẹ sinh ra trong một gia đình bình thường và lớn lên trong thời phồn thịnh chớp nhoáng của công ty chuối. Bà được đến trường và cũng có chút ít chữ nghĩa như mọi cô con gái con nhà khá giả khác trong vùng. Trong các kỳ nghỉ lễ Giáng Sinh, mẹ thường cùng các bạn gái trổ tài thêu thùa, chơi đàn dương cầm hoặc làm từ thiện. Đôi khi mẹ tôi thích đi theo một bà cô có tóc đuôi sam dài thòng đến dự các buổi khiêu vũ thanh lịch nhất của giới quý tộc địa phương, nhưng không một ai thấy bà thậm thụt hẹn hò với anh con trai nào. Cho đến khi, bất chấp sự phản đối của ông bà ngoại, mẹ tôi cương quyết lấy bằng được một anh điện báo viên ở thị trấn. Vào cái thời đó, tài sản đáng nể nhất của mẹ chính là tính hài hước và một sức khỏe hiếm thấy mà với chúng, bà không bao giờ đầu hàng bất cứ một tình huống khó khăn hay trở ngại nào. Nhưng phẩm chất đáng kinh ngạc nhất và cũng ít ngờ nhất lại là cái khả năng trời phú cho một phụ nữ có cá tính mạnh mẽ - một người sống rất chân thành, tình cảm nhưng lại đầy quyền uy. Điều này cho phép bà thiết lập được quyền lực của người mẹ đối với lũ con cái lúc nhúc cũng như với cả một đám đông họ hàng xa gần. Tất cả như một hệ thống vệ tinh vậy, mẹ ngồi trong nhà bếp, chỉ bằng giọng nói nhỏ nhẻ trong khi đang chăm chú ngồi canh nồi đậu đen sôi, mà điều khiển mọi hoạt động trong nhà.
Thấy mẹ bình thản chịu đựng chuyến đi nhọc nhằn đó, tôi cứ tự hỏi vì sao Người có thể thuần phục được những bất công do cái nghèo đem lại. Buổi tối sóng gió này là minh chứng rõ ràng hơn bất cứ điều gì cho tính cách của bà. Đàn muỗi háu đói, cái nóng ngột ngạt và mùi bùn tởm lợm của dòng kênh do con tàu chạy khuấy sục lên, những hành khách thiếu ngủ vật và vật vờ đi ra đi vào để hóng gió... Tất cả như được tạo nên để thách thức ý chí rèn luyện kiên trì nhất. Mẹ ngồi bất động trên ghế chịu trận trong khi những cô gái “bán hoa” đang thu hoạch vụ mùa lễ hội hóa trang ngay trong những phòng ngủ chật chội gần đó. Một trong những cô gái hành nghề mạt hạng đó hình như đang bội thu vì cứ hết ra lại vào phòng ngủ, mỗi lần lại với một gã đàn ông khác nhau. Tôi cứ nghĩ là mẹ không nhìn thấy, nhưng khi cô gái này bước vào phòng lần thứ tư hay thứ năm gì đó trong vòng một giờ đồng hồ, mẹ ném ánh mắt thương hại nhìn theo cho đến tận cuối hành lang và buồn rầu chép miệng:
- Những cô gái thật đáng thương. - Mẹ than - Những gì họ phải làm để kiếm sống còn tệ hại và nhục nhã hơn cả lao động khổ sai.
Mẹ ngồi như vậy cho đến nửa đêm. Khi đã quá mệt mỏi vì đọc sách trong cảnh con tàu tròng trành lắc lư, tôi đến ngồi hút thuốc bên cạnh mẹ trong ánh điện vàng vọt hắt ra từ hành lang tàu để cố tránh nỗi ám ảnh của những đụn cát di động trong lãnh địa của bá tước Yoknapatawpha. Năm trước, tôi đã bỏ dở việc học hành của mình ở trường Luật với ảo tưởng liều lĩnh là sẽ sống bằng nghề bút nghiên mà không cần phải theo đuổi ngành nào khác, vì lúc đó tôi rất ấn tượng với câu mà tôi tin là đã đọc được từ Bernard Shaw: “Từ khi còn rất nhỏ, tôi đã phải bỏ học để lăn lộn với cuộc đời” . Tôi đã không thể thảo luận việc đó với bất cứ ai vì tôi cảm thấy, tuy không tự lý giải được, rằng những lý do của việc này chỉ có giá trị đối với chính mình mà thôi.
Tôi nghĩ, một khi đã ấp ủ và vun vén biết bao hy vọng cũng như đã tiêu hao biết bao nhiêu tiền bạc mà tự mình lại không thể tìm ra cách thuyết phục bố mẹ chấp nhận hành động điên rồ của mình, thì đúng là chỉ tổ làm mất thời gian. Nhất là đối với một người nghiêm khắc và nguyên tắc như bố tôi. Ông có thể tha thứ cho mọi lỗi lầm của tôi, chỉ trừ việc không treo được lên tường bất cứ một thứ bằng cấp học vị nào, điều mà trong suốt cuộc đời của mình, ông đã không đạt được. Mọi liên lạc của tôi với gia đình hầu như bị ngưng trệ. Gần một năm sau, đúng lúc tôi đang dự định về thăm nhà để giải thích cho bố lý do bỏ học thì mẹ xuất hiện bảo tôi cùng đi bán nhà. Tuy vậy, mẹ không hề đả động gì về chuyện học hành cho đến tận nửa đêm, lúc hai mẹ con đã ở trên tàu, bà bắt đầu cuộc tranh luận mà theo tôi, đó mới là mục đích chính trong chuyến đi của bà. Mẹ bắt đầu hắng giọng, với một cung cách, giọng nói và những lời lẽ dường như đã được sắp đặt, chuẩn bị kỹ lưỡng trong đầu vào những đêm không ngủ. Có thể, bà đã trằn trọc, trăn trở rất nhiều về tôi trước chuyến đi này.
- Bố con rất buồn, bà mở lời.
Vậy là điều gì đến đã phải đến. Rốt cuộc thì cái địa ngục đáng sợ cũng xuất hiện. Cũng như mọi lần, mẹ bắt đầu câu chuyện vào lúc ít chờ đợi nhất và với giọng khô khan muôn thuở, không hề thay đổi trước bất cứ việc gì. Tôi hỏi với giọng chiếu lệ vì đã biết rõ câu trả lời:
- Tại sao ạ?
- Vì con đã bỏ học - mẹ bình thản.
- Con có bỏ học đâu - tôi chống chế - con chỉ thay đổi ngành học thôi.
Dường như những gì tôi nói chỉ đổ thêm dầu vào lửa. Giọng mẹ có vẻ sắc cạnh hơn:
- Bố con nói hai việc đó cũng như nhau.
Dù biết là không đúng nhưng tôi vẫn cố nói:
- Trước đây, bố cũng từng bỏ học để chơi đàn vĩ cầm cơ mà.
- Nhưng không giống như con - mẹ tôi đáp lại, nhìn thẳng vào mắt tôi - Bố chỉ chơi đàn vĩ cầm trong các buổi lễ hội và các đám hát serenata. Bố bỏ học chỉ vì gia đình túng thiếu không đủ cái ăn. Nhưng không đến một tháng sau, bố đã tự học được kỹ thuật điện báo mà vào thời đó là một nghề rất tốt, nhất là ở thị trấn Aracataca.
- Nhưng con cũng đang sống bằng nghề viết báo đấy chứ mẹ.- tôi chống chế.
- Con nói thế để khỏi làm mẹ buồn, đúng không? - bà nói -
Nhìn từ xa, bất cứ ai cũng đã có thể nhận biết được tình cảnh khốn khó của con rồi. Đấy, khi gặp con ở hiệu sách, mẹ đã không thể nhận ra được con nữa.
- Con cũng không nhận ra mẹ. - Tôi đáp tỉnh bơ.
- Nhưng nguyên nhân thì không giống nhau. Thật sự, thoáng nhìn qua, mẹ cứ nghĩ con là một đứa ăn mày cơ đấy. - Mẹ đưa mắt nhìn xuống đôi dép mòn vẹt của tôi và nói thêm - Lại còn không có cả tất nữa.
- Đi như vậy cho thoải mái, mẹ ạ - tôi nói - Hai cái sơ mi và hai cái quần, một chiếc mặc và một chiếc giặt. Với con, vậy là đủ rồi mẹ a.
- Con người ta có thể thiếu ăn, thiếu mặc, nhưng nhất định phải cần một chút tự trọng, con ạ - mẹ nói. Ngay sau đó, mẹ dịu giọng lại - mẹ nói điều đó chỉ vì bố mẹ rất yêu thương con.
- Con biết điều đó. Nhưng mẹ hãy trả lời con đi: Nếu mẹ ở vào trường hợp của con, mẹ cũng sẽ làm như vậy chứ?
- Mẹ sẽ không làm như vậy - mẹ từ tốn - nếu điều đó làm trái ý bố mẹ mình.
Nhớ lại việc mẹ đã kiên trì thế nào mới thắng được sự chống đối của ông bà ngoại để kết hôn với bố, tôi cười và nói:
- Mẹ có dám nhìn thẳng vào con không nào!
Nhưng mẹ đã lảng tránh vì quá rõ tôi đang nghĩ gì.
- Lúc đó, mẹ sẽ không lấy chồng nếu không có sự đồng tình của bố mẹ - bà nói. - Đúng là mẹ phải dùng đến sức mạnh, nhưng dù sao thì mẹ cũng được ông bà ngoại chấp thuận.
Cuộc tranh luận của hai mẹ con tôi tạm dừng, không phải vì những lý lẽ của tôi đã thuyết phục được mẹ, mà vì bà phải đi vệ
sinh dù đã được báo là phương tiện vệ sinh trên tàu rất tồi tệ. Tôi hỏi viên trưởng toa xem có nơi nào sạch sẽ hơn không, nhưng ông ta giải thích là bản thân ông cũng phải dùng phòng vệ sinh công cộng. Rồi ông ta buông một câu kết luận, cứ như vừa mới đọc xong tác phẩm của Conrad: “Trên biển, tất thảy mọi người đều bình đẳng” . Như vậy, mẹ tôi cũng phải tuân theo luật lệ của mọi người. Khi bà đi ra, trái với sự lo ngại của tôi, cố lắm bà mới nhịn được cười:
- Con thử tưởng tượng mà xem - bà nói - Bố con sẽ nghĩ gì khi thấy mẹ trở về mang chứng bệnh của những kẻ sống buông thả?
Chúng tôi bị chậm mất ba tiếng đồng hồ vì những đám rong rêu quấn chặt chân vịt nên con tàu bị mắc cạn tại bãi cây sú vẹt trên dòng kênh. Nhiều hành khách đã phải lên bờ dùng các dây võng để kéo tàu đi với hy vọng cữu vãn được tình huống. Cái nóng hầm hập cùng tiếng vo ve dai dẳng của đàn muỗi đói càng làm cho không khí trở nên hết sức khó chịu, nhưng mẹ tôi vẫn bình thản trong giấc ngủ chập chờn nửa say nửa tỉnh. Bà lim dim nhưng tai thì không bỏ sót bất cứ một câu nói nào của tôi. Khi con tàu khởi động trở lại, một luồng gió mát tràn vào làm mẹ hoàn toàn tỉnh táo.
- Dù sao thì mẹ cũng phải có câu trả lời cho bố con - bà thở dài nói.
- Tốt hơn hết là mẹ đừng lo lắng gì nữa - tôi vẫn ngây thơ nói. - Tháng Mười Hai này con sẽ về nhà và giải thích tất cả cho bố hiểu.
- Nhưng còn những mười tháng nữa! - giọng mẹ nghe có vẻ bực bội.
- Kiểu gì thì năm nay con cũng không thể xoay xở gì được nữa rồi. - Tôi dè dặt.
- Thế con có hứa là sẽ về không?
- Con hứa mà - tôi nói. Và tôi cảm nhận được niềm khát khao toát ra từ giọng nói của bà:
- Thế mẹ có thể nói với bố là con sẽ đi học lại được không?
- Không - tôi dứt khoát đáp lại. - Việc đi học lại thì không.
Tôi cố tìm một lối thoát khác, nhưng tất cả hình như đã muộn.
- Thế thì tốt nhất là mẹ sẽ kể hết toàn bộ sự thật với bố - bà nói. - Chỉ có vậy bố mới cảm thấy là không bị lừa dối.
- Vâng, mẹ cứ nói thật với bố đi. - Tôi không còn cách nào khác.
Chúng tôi thỏa thuận như vậy và nếu không biết rõ tính bà, người ta sẽ nghĩ rằng mọi việc sẽ dừng ở đó. Nhưng, tôi hiểu đây chỉ là một quãng thời gian nghỉ lấy sức của mẹ. Sau cuộc tranh luận có phần hơi gay gắt, mẹ ngủ thiếp đi. Làn gió nhẹ xua đi đàn muỗi đang vo ve kiếm hơi người. Hương của loài hoa nào đó khó nhận biết thoảng vào khoang tàu. Hình như, trong những khoảnh khắc như thế này, con tàu mới có lại cái dáng vẻ yêu kiều vốn có của một chiếc thuyền buồm.
Chúng tôi đã từng ở Cienaga Grande (vùng Đầm lầy lớn) và đó chính là một huyền thoại tuổi thơ khác của tôi. Tôi đã đi tàu đến đây vài lần, khi ông ngoại tôi, đại tá Nicolas Ricardo Márquez Mejia - người mà lũ cháu chắt chúng tôi thường gọi là Papalelo - đưa tôi từ Aracataca đến thăm bố mẹ tôi tại Barranquilla. “Các cháu không việc gì phải sợ đầm lầy, nhưng ít ra cũng phải biết tôn trọng nó” , ông thường nói với tôi như vậy khi kể về những bất trắc trên vùng nước này. Đó là một nơi hiền hòa như một cái ao rộng nhưng đôi lúc lại hung dữ như một đại dương bất trị. Mùa mưa, nó phải hứng chịu những cơn bão từ trên núi ập xuống. Từ tháng Mười Hai đến tháng Tư, khi thời tiết êm ả hơn thì những cơn gió bấc lại lồng lộn thổi mạnh đến mức những chuyến đi trong đêm tối trở thành những cuộc phiêu lưu thực sự. Bà ngoại tôi, Tranquilina Iguarán - Mina - không bao giờ dám mạo hiểm vượt qua vùng đầm nước này nếu không vì một lý do hết sức khẩn cấp, bởi bà đã quá sợ hãi sau một chuyến đi khủng khiếp khi mọi người phải tìm chỗ ẩn náu suốt đêm cho đến lúc trời sáng ở vùng cửa sông.
May mắn là tối hôm đó thời tiết khá yên lành. Qua cửa sổ mui tàu, nơi tôi vẫn thường hóng mát trước khi trời sáng, tôi nhìn thấy ánh đèn của các thuyền đánh cá giăng đầy như ánh sao, chập chờn hất bóng trên mặt nước. Nơi đó có vô số thuyền đánh cá cùng các ngư dân đang trò chuyện rôm rả. Mọi âm thanh trong khu đầm lầy này đều có tiếng vang dễ sợ. Tựa mình vào thành lan can nhìn lên bóng dãy núi mờ xa, trong tôi bỗng trào dâng những hoài niệm về một thời trẻ dại.
Cũng trong một buổi tang tảng sáng như thế này, khi đi tàu thủy qua vùng Đầm lầy lớn, ông ngoại đã để tôi ngủ trong phòng và đi ra quầy rượu. Tôi không rõ lúc đó là mấy giờ, nhưng tiếng ồn ào của đám đông lẫn vào tiếng cót két của chiếc quạt máy han gỉ cùng tiếng va đập của các lon nước trong phòng đã đánh thức tôi dậy. Lúc đó, chắc tôi chưa quá năm tuổi nên rất hoảng sợ trước những âm thanh lạ lẫm này, nhưng tôi đã kịp trấn tĩnh được ngay vì nghĩ đó chỉ là một giấc mơ mà thôi.
Sáng hôm sau, khi tàu cập bến thị trấn Cienaga, ông tôi đứng cạo râu với chiếc gương treo trước cửa phòng mở rộng. Tôi nhớ rất kỹ hình ảnh ông lúc đó với chiếc áo may ô, chiếc thắt lưng loại đeo vai to bản có sọc xanh bắt chéo trước ngực. Trong khi cạo râu, ông tiếp tục nói chuyện với một người đàn ông không quen nào đó mà vào lúc này nếu có gặp lại, thì từ cái nhìn đầu tiên tôi vẫn có thể nhận ra được. Nhìn nghiêng, ông khách này có bộ mặt giống một con quạ, không lẫn vào đâu được, một vết xăm mà cánh thủy thủ vẫn coi là dấu hiệu của họ trên tay phải, cổ đeo mấy chiếc vòng vàng thật to, hai cổ tay thì đầy những lắc vàng. Tôi đã mặc xong quần áo, đang ngồi trên giường để mang giày, thì nghe người đàn ông nói với ông tôi:
- Ngài Đại tá, đừng nghi ngờ gì nữa. Chúng nó đang định quẳng ông xuống nước đấy.
Vừa cười vừa cạo râu, và với vẻ cao ngạo rất riêng, ông tôi đáp:
- May cho chúng nó đấy.
Lúc đó tôi mới hiểu vì sao có tiếng ồn ào tối hôm trước khi ông ngoại bỏ mặc tôi một mình trong phòng ngủ và đi ra ngoài. Và điều làm tôi ngạc nhiên là việc có kẻ nào đó định lẳng ông tôi xuống đầm lầy.
Trong lần cùng mẹ đi bán nhà, kỷ niệm về một sự kiện chưa bao giờ được làm sáng tỏ chợt ùa đến trong tâm thức tôi vào sáng sớm hôm ấy, lúc tôi đang mải ngắm nhìn lớp tuyết trên đỉnh núi xanh thẫm lại dưới những tia mặt trời ấm áp đầu tiên. Tàu của chúng tôi bị chậm so với lịch trình. Khi trời sáng hẳn, chúng tôi đã có thể nhìn thấy dải cát dài lấp lánh dưới ánh nắng, chia cắt đầm lầy với biển cả, nơi có một làng chài ẩn hiện dưới những tấm lưới đang phơi mình trên bãi biển, và những đứa trẻ gầy yếu, bẩn thỉu chơi đá những quả bóng bằng giẻ. Tôi nghẹn ngào khi thấy trên đường phố có nhiều người đánh cá cụt tay, có lẻ vì họ đã không ném kịp khối thuốc nổ xuống nước. Tàu chúng tôi chạy đến đâu thì lũ trẻ con lại bơi theo đến đó, chúng ngụp lặn tìm các đồng xu do hành khách ném xuống.
Khoảng bảy giờ thì con tàu phải dừng lại giữa đám bùn lầy hôi thối, cách thị trấn Cienaga không xa. Một toán phu lội bùn đến đầu gối, ra bế từng người chúng tôi vào bờ đặt giữa đám gà qué đang bới rác trong bùn. Trong lúc chậm rãi ăn sáng ở bến cảng với món cá nổi tiếng là đặc sản của vùng đầm lầy cùng chuối xanh rán, mẹ tiếp tục cuộc tranh luận dở dang của bà.
- Bây giờ con cho mẹ biết lần cuối - bà nói mà không ngước mắt lên - xem mẹ phải nói gì với bố đây?
Tôi cố tranh thủ thời gian để suy nghĩ thêm:
- Nói về cái gì hả mẹ?
- Nói về điều duy nhất mà bố con quan tâm - mẹ nói với vẻ hơi bực dọc - việc học của con, chứ còn gì nữa?
Lúc ấy, tôi may mắn có được một thực khách kênh kiệu ngồi bên cạnh, người có vẻ quan tâm đến câu chuyện giữa hai mẹ con tôi và muốn biết về việc học của tôi. Câu trả lời của mẹ không chỉ khiến tôi e ngại mà còn ngạc nhiên nữa vì vốn biết tính bà rất dè dặt đối với những ai muốn can thiệp vào đời tư của mình:
- Chẳng là nó thích làm nhà văn - bà nói với người đàn ông lạ.
- Một nhà văn giỏi có thể kiếm được nhiều tiền đấy - người đàn ông nghiêm nghị đáp lại. - Nhất là lại làm việc cho chính phủ.
Tôi không biết là vì tính kín đáo mà mẹ né tránh nói lại đề tài này hay vì lập luận thuyết phục của người đối thoại đột xuất, mà cả hai cùng quay ra chia sẻ nỗi buồn về sự thiếu chín chắn của thế hệ trẻ chúng tôi, và cuối cùng, họ đàm đạo về những câu chuyện của thời xa xưa. Sau khi rà soát lại tên họ những người mà cả hai cùng biết, họ phát hiện ra là ông khách và hai mẹ con chúng tôi có họ hàng với nhau cả về bên ngoại lẫn bên nội theo hai dòng họ Cote và Iguarán. Vào thời đó, cứ trong ba người dân vùng biển Caribê thì có tới hai người có cùng huyết thống với nhau. Thế mà điều này khiến mẹ tôi ngạc nhiên và cứ luôn miệng thán phục cứ như thể đó là một sự kiện thần kỳ.
Chúng tôi ra ga tàu lửa bằng xe ngựa, và có lẽ đó là dấu vết duy nhất còn lại của thứ phương tiện huyền thoại và sang trọng đã biến mất ở nhiều nơi trên thế giới. Mẹ thích thú ngắm nhìn cánh đồng khô cằn vì bị chất diêm tiêu theo gió biển đốt nóng, chạy dài từ vùng bùn lầy bến cảng cho đến tít tận chân trời. Đối với tôi đây là vùng đất lịch sử bởi từ thuở lên ba, trong chuyến đi đầu tiên đến Barranquilla, ông ngoại, không báo trước mục đích, đã dắt tay tôi đi vội vàng qua vùng đất hoang nóng bỏng đó. Rồi bỗng nhiên hai ông cháu đứng trước một vùng nước xanh mênh mông với những ngọn sóng trắng xóa, đang trôi nổi cả một thế giới gà mái bị chết ngạt.
- Đó là biển, cháu biết không? - ông nói với tôi.
Tôi thất vọng hỏi phía bờ bên kia có gì, và ông trả lời một cách chắc chắn:
- Phía bên kia không có bờ.
Cho đến tận hôm nay, khi đã bôn ba qua nhiều sông sâu, biển cả, tôi vẫn nghĩ đó là một trong những câu trả lời vĩ đại nhất. Không có hình ảnh nào lưu giữ trong bộ nhớ của tôi trước đây lại phù hợp với thực tế như vậy. Bờ biển thì bẩn thỉu, nơi mà chẳng có ai có thể cất bước nổi qua những bãi đá nhọn hoắt, sắc lẻm cùng những bãi sú vẹt rậm rạp, đầy cây mục và ốc chết. Thật là ghê sợ.
Có lẽ mẹ tôi cũng có chung ý nghĩ như vậy về bãi biển Cienaga nên khi nó xuất hiện bên phía trái xe ngựa, bà than thở:
- Không có bãi biển nào đẹp bằng bãi biển xứ Riohacha!
Nhân dịp này, tôi kể lại chuyện những con gà mái bị chết ngạt mà tôi vẫn còn nhớ và, như tất cả những người lớn khác, bà cũng cho rằng đó chỉ là ảo giác của trẻ thơ mà thôi. Sau đó, mẹ tiếp tục ngắm nhìn những nơi chúng tôi đã đi qua và tôi cũng biết bà đang âm thầm nghĩ gì về những nơi đó.
Chúng tôi đi ngang qua phía trước khu phố nhà thổ ở bên kia đường xe lửa, với những căn nhà nhỏ, mái đã bị hoen rỉ và những con vẹt già nheo nhéo gọi khách bằng tiếng Bồ Đào Nha từ những chiếc vòng treo trên ban công. Sau đó, chúng tôi đi qua đài cấp nước cho đầu máy xe lửa với vòm sắt to làm nơi trú ngụ cho đàn chim di trú và những con hải âu lạc bầy. Chúng tôi chỉ đi vòng qua chứ không vào trong phố, nhưng vẫn nhìn thấy những con đường rộng, vắng vẻ và những căn nhà một tầng trang trí rực rỡ, từ đó vọng ra tiếng tập đàn dương cầm liên tục không nghỉ suốt từ sáng sớm tinh mơ. Mẹ tôi bỗng chỉ tay:
- Con nhìn kìa - bà nói - Đó là nơi tận cùng thế giới.
Tôi nhìn theo hướng chỉ của bà và thấy phía xa xa là nhà ga tàu lửa. Một tòa nhà bằng gỗ tróc hết sơn, trần làm bằng tôn với ban công chạy dài, phía trước là một quảng trường nhỏ vắng lặng không chứa nổi hai trăm người. Chính ở nơi này, theo lời xác nhận của mẹ tôi hôm đó, là nơi mà vào năm 1928, quân lính đã giết một số lượng, vẫn chưa được xác minh, những người thợ trong các đồn điền trồng chuối. Tôi nhớ rất rõ sự kiện này như thể đã trực tiếp chứng kiến vì từ lúc còn nhỏ và bắt đầu có sự hiểu biết, tôi đã được nghe ông kể đi kể lại hàng ngàn lần: một quân nhân đọc bản quyết định tuyên bố những công nhân đang đình công là một bọn tội phạm trước ba ngàn người gồm đàn ông, đàn bà và trẻ em đứng bất động dưới cái nắng chói chang. Ngay sau khi viên sĩ quan cho phép họ năm phút để rời khỏi quảng trường, thì lệnh phát hỏa được đưa ra, những loạt đạn được chia thành từng lô xối xả bắn tới, đám đông hoảng sợ co cụm lại và rụng dần từng mảng một dưới gọng kìm của những làn đạn kim loại khát máu.
Tàu hỏa đáng ra phải đến ga Cienaga vào lúc chín giờ sáng để đón những hành khách đi tàu thủy và những người làm việc ở trên núi xuống, rồi mười lăm phút sau tiếp tục chuyến hành trình vào khu vực trồng chuối. Hơn tám giờ thì mẹ và tôi đến ga, nhưng chuyến tàu lại trễ giờ. Hai mẹ con chúng tôi là những hành khách duy nhất. Mẹ nhận ra ngay việc này khi bước lên toa xe trống rỗng, và hóm hỉnh kêu to:
- Sang thật! Cả chuyến tàu chỉ để dành riêng cho chúng ta!
Cho đến bây giờ, tôi vẫn nghĩ niềm vui đó của bà chỉ giả vờ để che giấu nỗi thất vọng của mình, bởi vì chỉ nhìn qua tình trạng các toa xe cũng đã thấy được sức tàn phá của thời gian. Đó là những toa cũ hạng hai nhưng lại không có ghế bằng mây và cửa kính có thể kéo lên xuống được, mà thay vào đó là những chiếc ghế băng bằng gỗ dành cho những người nghèo. Nếu so với thời trước thì không chỉ các toa xe mà toàn bộ đoàn tàu chỉ còn là một bóng ma mà thôi. Trước đây có ba hạng toa. Hạng ba, mà những người nghèo nhất thường đi, chính là những toa hàng chở chuối và bò đưa đi xẻ thịt, nay đã được cải tạo lại với những dãy ghế băng dài bằng gỗ thô. Hạng hai thì có các ghế mây với khung bằng đồng. Hạng nhất dành cho quan chức chính phủ và nhân viên cao cấp của công ty chuối, có thảm trải dọc hành lang và ghế bành bọc vải nhung đỏ có thể thay đổi thế ngồi. Mỗi khi tổng giám đốc công ty, hoặc người nhà, hoặc khách mời của ông ta đi tàu thì lắp thêm một toa hạng sang có cửa kính che nắng với đường viền nổi màu vàng và một khoang rộng có bày bàn uống trà. Tôi chưa hề quen biết một ai được tận mắt chứng kiến những thứ sang trọng bên trong toa xe hạng sang đó. Ông ngoại tôi, người đã hai lần giữ chức thị trưởng của thị trấn và được coi là cũng rủng rỉnh tiền bạc, cũng chỉ dám đi toa hạng hai ấy là khi tháp tùng giới nữ trong gia đình. Khi người ta hỏi tại sao ông lại đi hạng ba, ông tôi hóm hỉnh trả lời: “Vì không có hạng tư” . Tuy vậy, cái đáng nhớ nhất thời bấy giờ là tàu hỏa bao giờ cũng chạy đúng giờ. Ở các thị trấn, nhân viên đường sắt thường chỉnh đồng hồ theo tiếng còi tàu khi đến và rời ga.
Ngày hôm đó không hiểu vì lý do gì mà tàu chậm tới một tiếng rưỡi đồng hồ. Con tàu khởi hành một cách chậm chạp, tiếng bánh sắt kêu kin kít nghe thật buồn bã. Mẹ làm dấu thánh giá, nhưng ngay lập tức bà như sực tỉnh và quay trở về với thực tế.
- Bộ nhíp tàu này thiếu dầu bôi trơn - bà hóm hỉnh nói.
Có lẽ chúng tôi là những hành khách duy nhất trên chuyến tàu ngày hôm ấy và nói một cách nghiêm túc, cho đến tận lúc đó, chẳng có gì làm tôi thực sự thấy thích thú cả. Tôi đắm mình trong không khí lờ mờ của ánh sáng tháng Tám, rít thuốc liên tục, thỉnh thoảng hé mắt nhìn những nơi tàu đi qua. Con tàu đi qua vùng đầm lầy ven biển rồi lao nhanh qua một hành lang giữa những lèn đá màu nâu sẫm, khiến cho tiếng va đập giữa các toa trở nên ồn ào không chịu nổi. Khoảng mười lăm phút sau, tàu chạy chậm lại, và như có luồng hơi nước bí ẩn, tàu đi vào khoảng trống tranh tối tranh sáng mát mẻ của những trang trại trồng chuối. Thời gian như đặc quánh lại và tôi có cảm giác dường như không còn làn gió biển tươi mát nữa. Không cần để ý đến xung quanh, tôi cũng biết là con tàu đang đi vào vương quốc khép kín của những đồn điền chuối.
Trải dài suốt dọc hai bên đường sắt là những con đường rộng rãi, cân đối của các đồn điền, trên đó những xe bò kéo chở đầy chuối xanh đang chậm rãi di chuyển. Thỉnh thoảng, giữa khoảng đất trống xuất hiện những khu nhà lợp ngói đỏ gồm các văn phòng với các loại dây treo thô thiển ngoắc hờ trên cửa sổ cùng với những chiếc quạt trần cũ kỹ quay loẹt xoẹt, và những bệnh xá lẻ loi giữa bãi hoa mồng gà đỏ chót. Tôi để ý thấy hầu như bên cạnh bất cứ dòng sông nào cũng hiện diện những thị trấn bé nhỏ với những chiếc cầu sắt mà mỗi khi tàu chạy qua, tiếng nghiến của bánh sắt trên đường ray làm vang lên những tiếng sắc lạnh đến ghê người, bên mé sông các thiếu nữ đầm mình giữa dòng nước lạnh, thỉnh thoảng lại nhảy tâng tâng phơi bộ ngực trần trắng nõn, thấp thoáng làm hành khách vô cùng thích thú.
Ở thị trấn Riofrio, tôi trông thấy một vài gia đình dân tộc Arhuacos đang cõng lên tàu những ba lô đầy quả bơ rừng có tiếng là thơm ngon nhất nước. Họ nhảy như con choi choi dọc theo toa xe tìm chỗ ngồi, nhưng khi tàu khởi hành thì chỉ còn hai người phụ nữ da trắng với một đứa trẻ mới sinh và một vị cha đạo trẻ là ở lại. Trong suốt chuyến hành trình, đứa bé luôn miệng eo éo khóc. Vị cha cố mang ủng, đội mũ dành cho những người thám hiểm, mặc áo choàng lễ thắt dây thô và những miếng vá hình vuông giống hình dáng một cánh buồm. Ông nói cái gì đó liên hồi như đang đứng trên bục hành lễ, trong khi đứa trẻ vẫn không ngừng quấy khóc.
Đề tài bài giảng đạo của vị cha cố này liên quan đến khả năng Công ty chế biến hoa quả quay trở lại các khu đồn điền, nơi mà họ đã từ giã cách đây không lâu, có lẽ là do tình trạng kinh doanh ế ẩm. Từ khi công ty này ra đi, khắp vùng đâu cũng nghe người ta bàn tán về chuyện đó. Họ chia ra làm hai phe, một bên thì ủng hộ việc công ty quay lại, bên kia thì phản đối, và cả hai phe đều khăng khăng cho rằng mình đúng. Vị cha cố thuộc phe chống đối và ông đã giải thích với lý do rất riêng mà hai người đàn bà đi cùng đều cho là điên rồ:
- Công ty đó hễ cứ đi đến đâu là y như rằng xảy ra chuyện. Họ chỉ gây ra những phiền phức cho chúng ta thôi chứ chẳng có tích sự gì.
Đó là điều duy nhất mà tôi cho là độc đáo trong những lời ông nói, nhưng ông lại không thể giải thích vấn đề một cách rõ ràng, vì vậy mà người phụ nữ có đứa con hay khóc cuối cùng lại hiểu nhầm là Thượng Đế không đồng tình với ông.
Nỗi buồn nhớ, bao giờ cũng vậy, thường xóa đi những kỷ niệm xấu và làm tăng thêm ý nghĩa cho những kỷ niệm đẹp. Không mấy ai thoát khỏi được điều này. Qua cửa sổ toa tàu, người ta nhìn thấy những người đàn ông ngồi đăm chiêu trước cửa nhà mình và chỉ cần nhìn gương mặt họ thôi, bạn cũng đoán biết được họ đang chờ đợi điều gì. Những người đàn bà giặt đồ trên những bến nước cạnh bãi đá cuội ven sông ngước nhìn đoàn tàu hỏa chạy qua với nỗi niềm tương tự. Bất cứ một người nước ngoài nào xách cặp đến nơi này đều được họ coi là nhân viên của Công ty chế biến hoa quả, quay về để thiết lập lại công ty như trước đây. Bất cứ cuộc gặp gỡ nào, cuộc thăm viếng nào, bất cứ bức thư nào sớm hay muộn đều hiện diện câu nói thiêng liêng này: “Người ta nói rằng công ty sẽ quay lại” . Không ai biết kẻ nào đã nói, nói lúc nào và vì sao, nhưng không ai tỏ ra nghi ngờ điều đó.
Mẹ tôi nghĩ là đã giải thoát được nỗi sợ hãi vì sau khi ông bà ngoại mất, bà cũng cắt đứt mọi mối quan hệ với Aracataca. Tuy vậy, những mường tượng về quê hương vẫn luôn làm bà day dứt. Trong những bữa điểm tâm, bà thường hay nhớ về vùng quê cũ, một vùng đất với bạt ngàn các loại chuối. Bà đã trải qua những ngày tháng cơ hàn, khắc nghiệt nhất nhưng vẫn không phải bán nhà và bây giờ, bà hy vọng sẽ bán được giá cao hơn bốn lần khi công ty chế biến hoa quả quay trở lại. Cuối cùng thì áp lực ghê gớm của thực tế đã chiến thắng. Nhưng khi nghe lỏm được những lời mà vị cha cố nói trên tàu thì bà tỏ ý chán nản và nói nhỏ vào tai tôi:
- Tiếc là mẹ con mình không thể chờ thêm chút nữa để bán được nhiều tiền hơn.
Trong khi vị cha cố đang thao thao thuyết giảng thì con tàu chậm chạp trườn qua một khu đất nơi có một đám đông đang tụ tập, dưới ánh nắng mặt trời nóng như thiêu như đốt. Hình như họ đang vây quanh để thưởng thức bản hành khúc mà nhóm nhạc công đang say sưa biểu diễn. Tôi nhận thấy tất cả các thị trấn này đều nhang nhác như nhau. Khi được ông ngoại đưa đến rạp chiếu bóng sáng rực có tên là Olympia của ngài Antonio Daconte để xem phim, tôi nhận thấy tất cả các ga xe lửa trong những bộ phim cao bồi của Mỹ cũng chẳng có gì khác biệt ga tàu lửa ở nước tôi. Sau này, khi bắt đầu đọc Faulkner, tôi lại nghiệm ra rằng các thị trấn làng mạc trong tiểu thuyết của ông cũng giống y chang như thị trấn của chúng tôi. Cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên, tất cả đều được xây dựng theo cảm hứng tối cao của Công ty chế biến hoa quả. Những khu nhà thờ ở quảng trường trung tâm và các nếp nhà xinh xinh như trong truyện cổ tích được sơn với gam màu lạnh. Những toán thợ da đen, tóc xoăn tít luôn miệng ca hát vào những buổi chiều tà. Các dãy lều trại của đám công nhân na ná giống nhau, từ dáng vẻ bề ngoài của khu lều cho đến những chủ nhân đang ngồi đăm chiêu nhìn đoàn tàu đi qua với ánh mắt vô cảm. Những khu phố dành riêng cho người Mỹ ở Aracataca và Sevilla phía bên kia đường sắt được bao bọc như những chuồng gà khổng lồ bị quây kín bởi lớp hàng rào dây thép gai dẫn điện. Trong những ngày hè nóng bức, người ta thường thấy xác những con chim én cháy đen thui trên những dãy hàng rào điện này. Khu công viên xanh mát với những con đường nhỏ dành cho người đi dạo, bãi cỏ xanh tươi nơi tụ tập rất nhiều chim cút, chim công. Những biệt thự lợp ngói đỏ có cửa sổ được rào kín bằng dây kẽm gai, những chiếc bàn tròn với những chiếc ghế gấp được dùng cho các bữa ăn trên sân thượng, giữa những hàng cọ hay vườn hồng đầy bụi bặm. Thỉnh thoảng, qua hàng rào kẽm gai, người ta cũng nhìn thấy những thiếu phụ xinh đẹp với nước da trắng nõn trong bộ đồ bằng vải mỏng, đội mũ vải duyên dáng đang cắt hoa trong khu vườn bằng những cây kéo bằng vàng.
Khi còn là con nít, tôi không phân biệt được thị trấn này với những thị trấn khác. Và hai mươi năm sau vẫn vậy, bởi vì ở các cổng nhà ga tàu lửa, tất cả những bảng hiệu với những cái tên như Tucurinca, Guamachito, Neerlandia, Guacamayal đều đã bị rơi xuống đất. Tất cả đều hoang vắng hơn so với những gì tôi vẫn mường tượng trong ký ức. Chuyến tàu dừng lại khoảng mười lăm phút ở ga Sevilla, hình như bắt đầu lúc mười một giờ rưỡi để đổi đầu máy và tiếp nước. Lúc này, trời đã bắt đầu nóng nực. Khi đoàn tàu khởi hành trở lại, chiếc đầu máy mới, mỗi khi chạy qua vòng cua lại hất ra phía sau một dòng khói bụi đen sì, khói bay qua ô cửa sổ không kính, phủ lên người chúng tôi một lớp sỉ màu đen nhớp nhúa. Chúng tôi không để ý đến vị cha cố cùng hai người đàn bà nữa. Không biết họ đã xuống ga lúc nào và thế là trong lòng tôi, ấn tượng về việc hai mẹ con đơn độc trên chuyến xe không người lại trở nên đậm nét hơn. Ngồi trước mặt tôi, hướng mặt về phía cửa sổ, mẹ đã ngủ chập chờn được hai hoặc ba giấc, nhưng ngay sau đó bà tỉnh dậy và một lần nữa bà nhìn sang tôi với câu hỏi thật đáng sợ:
- Vậy thì mẹ phải nói với bố thế nào đây?
Tôi vốn biết là bà sẽ không bao giờ đầu hàng, sẽ tìm chỗ yếu nào đó để đánh quỵ lòng quyết tâm của tôi. Trước đó, bà đã đưa ra một vài gợi ý để tôi cam kết, nhưng tôi từ chối thẳng thừng và vẫn biết sự rút lui của bà sẽ kéo dài không lâu. Mặc dù vậy, tôi vẫn rất kinh ngạc trước cuộc phản kích mới này của bà. Đã chuẩn bị tinh thần cho một trận đấu trí khác, tôi trả lời mẹ một cách bình thản hơn những lần trước:
- Mẹ cứ nói với bố là trên đời này, điều duy nhất mà con mong muốn là được trở thành nhà văn, và đó là việc mà con sẽ làm cho bằng được.
- Bố không phản đối việc con thích làm nghề nào - bà nói - chỉ cần con có bằng tốt nghiệp, bất cứ môn học nào cũng được.
Bà nói mà không nhìn tôi, làm như không muốn quan tâm đến cuộc đối thoại giữa hai chúng tôi bằng cuộc sống đang trôi qua phía bên ngoài cửa sổ.
- Con không hiểu tại sao mẹ cứ ép con mãi khi biết rõ là con không bao giờ từ bỏ ý định và quyết tâm của mình - tôi nói.
Lúc này, mẹ bỗng nhìn vào mắt tôi và hỏi một câu đầy ẩn ý:
- Sao con tin là mẹ đã biết?
- Bởi vì mẹ và con đều giống nhau - tôi chậm rãi trả lời.
Tàu hỏa dừng lại ở một ga giữa đồng không mông quạnh, rồi ngay sau đó chạy qua một đồn điền chuối duy nhất ở bên đường có tên ghi trên cổng: Macondo. Cái tên này đã khiến tôi chú ý ngay từ những chuyến đi đầu tiên với ông ngoại, nhưng chỉ khi trở thành người lớn, tôi mới phát hiện ra rằng mình thích nó vì tên nó đọc lên nghe rất nên thơ. Trước đó, tôi chưa từng nghe ai nhắc đến tên này và thậm chí cũng không buồn hỏi về ý nghĩa của nó. Khi dùng tên này đặt cho một thị trấn tưởng tượng trong ba cuốn tiểu thuyết, tôi vô tình đọc được trong một cuốn Bách khoa toàn thư rằng đó là tên của một loại cây vùng nhiệt đới giống như cây gạo nhưng không có hoa và quả, thân gỗ xốp thường được dùng làm thuyền độc mộc và đồ dùng nhà bếp. Sau đó, tôi lại phát hiện trong cuốn Bách khoa toàn thư nước Anh có ghi rằng: ở Tanganyika có một tộc người du mục tên là Makondos và tôi nghĩ đó có lẽ là nguồn gốc của từ này. Nhưng tôi không bao giờ xác minh điều này và cũng không hề nhìn thấy loại cây đó, vì nhiều lần tôi hỏi về nó ở vùng trồng chuối nhưng chẳng có ai biết để trả lời tôi. Rất có thể, trên cõi đời này nó cũng chưa hề tồn tại.
Con tàu đi qua đồn điền Macondo vào lúc mười một giờ, và mười phút sau thì dừng lại ở Aracataca. Tàu đến ga chậm một tiếng rưỡi so với lịch trình. Khi tôi đang ở trong phòng vệ sinh thì tàu bắt đầu tăng tốc và một cơn gió khô nóng luồn qua cửa sổ không kính ập vào, hòa với tiếng ồn ào của các toa xe cổ lỗ và tiếng còi ghê rợn của đầu tàu. Tim tôi đập thình thịch và một cảm giác ớn lạnh làm tôi thấy buồn nôn còn bụng thì co thắt lại. Tôi vội vàng bước ra khỏi phòng vệ sinh với nỗi khiếp sợ tưởng như đang trong cơn động đất, và tôi thấy mẹ vẫn bình thản ngồi trên ghế, nhắc to tất cả tên những nơi mà chúng tôi đã đi qua, đã nhìn thấy qua khung cửa sổ như một loạt hình ảnh của cuộc đời đã qua và sẽ không bao giờ trở lại nữa.
- Đó là những vùng đất mà người ta đã bán cho bố con với câu chuyện là ở nơi đó có vàng - bà nói.
Con tàu lao vút ngang qua căn nhà của các thầy dòng thuộc giáo phái Tái giáng sinh, với khu vườn đầy hoa và một dòng chữ trên cổng: The sun shines for all.
- Đó là câu tiếng Anh đầu tiên mà con đã học được - mẹ tôi nói.
- Không phải là câu đầu tiên - tôi cải chính - mà là câu duy nhất.
Tàu chạy qua một cây cầu bằng bê tông và dòng kênh nước đục ngầu do người Mỹ trước đây làm ra để đưa nước về tưới cho các đồn điền chuối của họ.
- Kia là khu nhà thổ nơi những khách làng chơi đàng điếm đốt tiền vào những cuộc vui phù phiếm thâu đêm với đám gái mại dâm rẻ tiền - Mẹ tôi bảo.
Những chiếc ghế băng trên bãi đất, những cây bàng bị nắng đốt cháy khô, những khu trường tiểu học bé xinh nơi tôi học đánh vần những chữ cái đầu tiên... Bỗng chốc, trong tôi, toàn cảnh của thị trấn trong ngày Chủ nhật tháng Hai này bừng lên, rực rỡ ngoài cửa sổ toa xe.
- Con nhìn kìa, nhà ga đấy! - Mẹ tôi thốt lên. - Thế giới đã đổi thay quá nhiều, đâu ai ra đón chuyến tàu đến nữa đâu.
Đầu tàu ngừng kéo còi, giảm tốc độ và dừng lại trong tiếng xiết của bánh sắt trượt trên đường ray. Điều đầu tiên gây ấn tượng cho tôi là sự im ắng bao trùm trên sân ga. Trong số tất cả mọi sự im lặng trên thế gian này, sự im lặng vật chất vẫn có thể nhận biết dù hai mắt bị bịt kín. Cái nắng nóng đến mức tất cả như được phản rọi qua muôn ánh thủy tinh gợn sóng bập bùng. Làm gì có kỷ niệm nào trong đời con người ta lại vượt được ra khỏi tâm trí. Mẹ tôi còn ngồi lại một lúc lâu trên ghế, lặng nhìn cả thị trấn vắng lặng, im lìm như đang say ngủ. Mãi sau bà mới sợ hãi thốt lên:
- Chúa ơi!
Đó là điều duy nhất bà nói trước khi bước xuống sân ga.
Một khi con tàu còn ở trong sân ga, tôi còn có cảm giác là hai mẹ con chúng tôi không hoàn toàn cô độc, nhưng khi tàu khởi hành với tiếng còi tức tưởi, mẹ con tôi trở nên bơ vơ dưới cái nắng cháy da cháy thịt, trong cảnh đìu hiu, u uất của thị trấn. Hai mẹ con không ai nói với ai câu nào. Khu nhà ga cũ kỹ bằng gỗ với mái tôn có bao lơn chạy dài như một bản sao của những nhà ga miền nhiệt đới mà tôi đã từng thấy trong các bộ phim cao bồi của Mỹ. Chúng tôi đi qua khu nhà ga bị bỏ hoang với từng hàng gạch lót bị cỏ chen lấn, rồi sau đó thiếp đi trong cơn mệt mỏi ngay dưới tán cây bàng.
Từ bé tôi đã rất ghét những giấc ngủ trưa biếng nhác vì chúng tôi chả biết làm trò gì. “Chúng mày có im đi không nào, không thấy là chúng tao đang ngủ hay sao” - những kẻ đang ngủ làu bàu như vậy nhưng vẫn không thèm mở mắt ra. Các kho tàng, công sở, trường học đóng cửa từ lúc mười hai giờ trưa và không mở trở lại trước ba giờ chiều. Bên trong bất cứ khu nhà nào cũng bảng lảng một không khí dật dờ, mơ ngủ. Ở nhiều nhà, cái nóng làm cho người ta khó ngủ đến nỗi phải mắc võng ở ngoài vườn hoặc ngủ trên ghế bố dưới bóng cây bàng hay ngồi ngủ gật ngay giữa phố.
Mở cửa vào lúc này may chăng chỉ có khách sạn trước ga cùng với cửa hàng, câu lạc bộ bi da và bưu điện ở phía sau nhà thờ. Những nơi này vẫn còn nguyên vẹn trong kí ức tôi chỉ có điều bây giờ trông nhỏ bé và tồi tàn hơn, tất cả dường như đã và đang bị cơn cuồng phong định mệnh tàn phá: những căn nhà mục nát, mái tôn bị sét gỉ lỗ chỗ, bãi đất chất đầy những xỉ than bụi bặm, dãy ghế băng bằng đá mài nằm ẩn dưới tán bàng buồn bã, mọi thứ đều bị biến dạng vì lớp bụi vô hình, vì cái nắng nóng bỏng như muốn đốt cháy da thịt. Dãy hàng rào dây thép gai bao bọc xung quanh khu vực Công ty chế biến hoa quả phía bên kia đường sắt giờ đã bị phá đi, để lộ ra bãi cỏ dại rộng mênh mông không một bóng cọ, với những căn nhà đổ nát giữa đám hoa mồng gà và xà bần của trạm xá cũ bị phóng hỏa. Cảnh vật hiu hắt này làm ta có cảm giác hình như sự sống đã không còn hiện diện nơi đây.
Mẹ tôi bước nhẹ nhàng, gương mặt tái xanh của bà trông có vẻ xa xăm, buồn bã. Khi đến cuối bãi đất hoang, chúng tôi mới gặp được người đầu tiên: một phụ nữ gầy gò với vẻ ngoài nghèo khổ xuất hiện ở góc phố Jacobo Beracaza và đi ngang qua chúng tôi, tay cầm chiếc nồi nhôm, vung đậy không vừa nên cứ kêu lách cách theo nhịp chân đi. Không để ý đến người đàn bà này, mẹ nói thầm vào tai tôi:
- Đó là cô Vita đấy.
Tôi đã nhận ra cô. Khi tôi hãy còn là một nhóc con thì cô Vita đã làm phụ bếp ở nhà ông bà ngoại rồi. Tôi cứ nghĩ rằng dù chúng tôi có thay đổi thế nào đi chăng nữa thì chắc chắn cô ấy cũng vẫn sẽ nhận ra. Nhưng tôi đã nhầm, cô ấy đi trên đường với gương mặt nhợt nhạt, vô hồn như đang ở một thế giới khác không hề tồn tại trên thế gian này. Và cho đến giờ phút này, tôi vẫn tự hỏi không biết có phải người phụ nữ có tên là Vita đã chết rất lâu trước cái ngày hôm đó hay không.
Khi rẽ qua một góc phố thì đôi dép xăng đan của tôi bị rách lớp vải lót. Cảm giác bỏng rát dưới gan bàn chân khiến tôi hết sức khó chịu. Tôi bực bõ trong lòng và nghĩ rằng tình cảnh của hai mẹ con tôi lúc này sao giống hệt cảnh người mẹ và đứa em gái của tên ăn trộm bị bà hàng xóm Maria Consuegra bắn chết khi nó định cạy cửa vào nhà bà mà tôi đã từng chứng kiến hồi còn bé.
Lúc ba giờ sáng, bà Maria tỉnh giấc vì một tiếng động lạ. Hình như có ai đó đang muốn cạy cửa ra vào. Dù mắt nhắm mắt mở, bà đã đoán ngay là có kẻ trộm. Không cần thắp đèn, bà bật dậy, lần tìm trong tủ khẩu súng ngắn cũ kỹ chưa có ai sử dụng kể từ hồi chiến tranh. Trong bóng tối, bà lên đạn lách cách, nhắm vào ngay chỗ ổ khóa và hết sức bình sinh bóp cò. Chưa bao giờ rớ tới súng ống, vậy mà đêm đó, người đàn bà này đã thực sự trở thành một tay thiện xạ: viên đạn đã xuyên qua ổ khóa, trúng đích.
Đó là xác chết đầu tiên mà tôi nhìn thấy. Bảy giờ sáng, trên đường đến trường, tôi đi qua nhà bà Maria, thi thể của tên ăn trộm nằm sõng soài trong vũng máu khô. Viên đạn định mệnh xuyên từ mũi qua tai làm khuôn mặt của hắn biến dạng. Nó mặc chiếc áo len sọc màu kiểu thủy thủ, quần tây buộc dây chứ không dùng thắt lưng và đi chân trần. Bên cạnh xác chết người ta còn thấy chiếc móc tự tạo dùng để bẻ khóa.
Những người lương thiện ở thị trấn kéo đến chật nhà bà Maria Consuegra để hỏi han việc bà giết được tên trộm. Tối hôm đó, tôi đi cùng với ông ngoại đến nhà bà thì thấy bà đang ngồi trên cái ghế bành to như một con công được đan bằng sợi mây và kể đi kể lại đến lần thứ 1000 cho đám đông tò mò hóng chuyện. Mọi người đều nhất trí cho rằng bà ta nổ súng chỉ vì sợ hãi. Đúng lúc đó thì ông tôi hỏi bà rằng sau phát đạn nổ có nghe thấy tiếng gì không; bà trả lời lúc đầu bà không nghe thấy tiếng đ?