Chương 2
Hôm đi bán nhà cùng với mẹ, tôi đã nhớ lại tất cả những kỷ niệm ấn tượng nhất trong quãng đời thơ ấu của mình. Nhưng lúc đó, tôi chưa thật chắc cái gì có trước, cái gì có sau và chúng có ý nghĩa thế nào trong cuộc đời mình. Tôi chỉ lờ mờ hiểu rằng trong vầng hào quang giả tạo của Công ty chế biến hoa quả, cuộc hôn nhân của bố mẹ tôi xảy ra trong quá trình chấm dứt những năm suy tàn của thị trấn Aracataca. Kể từ khi bắt đầu nhận thức được thế giới xung quanh, tôi đã nghe đi nghe lại - lúc đầu còn giấu giấu giếm giếm, sau rồi công khai và có phần hoảng hốt - câu nói định mệnh: “Người ta nói rằng Công ty sắp đi khỏi đây”. Tuy nhiên, chẳng ai tin điều đó, hoặc là không có ai dám nghĩ đến những tác hại của việc này.
Lời kể của mẹ tôi chỉ kèm theo những số liệu rất mơ hồ và nơi xảy ra tấn thảm kịch lại quá nhỏ bé không như trí tưởng tượng nên gây bao thất vọng cho tôi. Sau này, khi được nói chuyện với các nhân chứng sống và tham khảo các bài báo và tài liệu chính thức tôi nghiệm ra rằng sự thật không ở hẳn về một phía giải thích nào cả. Những người thỏa hiệp thì nói là không có ai bị chết. Ngược lại, những người quá khích thì khẳng định một cách chắc chắn rằng hơn một trăm người đã bị bắn chết, máu chảy lênh láng trên quảng trường và xác chết chất đầy trên các toa chở hàng đưa đi vưt ra biển, tựa như những nải chuối mất chất bị mang đi đổ tống đổ tháo vậy. Đối với tôi, sự thật nằm ở đâu đó giữa hai thái cực này. Sự kiện này cứ đeo đuổi day dứt trong tôi đến mức, trong một cuốn tiểu thuyết, tôi đã mô tả nó một cách chính xác và đầy vẻ khủng khiếp, như vụ tàn sát do trí tưởng tượng của tôi đã thêu dệt lên từ nhiều năm trước. Tôi đưa ra con số người chết là ba ngàn cho ngang tầm với tấn thảm kịch, và số liệu thực tế đã chứng minh là tôi đúng: cách đây không lâu, trong lễ tưởng niệm sự kiện bi thảm này tổ chức ở Thượng viện, một diễn giả đã đề nghị mọi người giữ một phút im lặng để tưởng nhớ ba ngàn liệt sĩ vô danh đã bị lực lượng cảnh sát giết hại.
Cuộc thảm sát công nhân ngành chuối là đỉnh điểm của những vụ giết người trước đó. Nhưng lần này nó có thêm lý do phụ là vì những người lãnh đạo công nhân đều là cộng sản. Có lẽ họ đúng là cộng sản thật. Trong số họ, người xuất sắc nhất đồng thời là người bị truy lùng gắt gao nhất là Eduardo Mahecha. Tôi gặp ông một cách ngẫu nhiên tại nhà tù Modelo de Barranquilla, trong những ngày đi bán nhà với mẹ. Từ lúc tôi tự giới thiệu mình là cháu ngoại đại tá Nicolas Márquez, ông ta tỏ ý rất thân mật với tôi. Chính Eduardo Mahecha bảo tôi rằng ông ngoại không phải giữ thái độ trung lập, mà chính là người đứng ra thương lượng giải quyết vụ đình công năm 1928 và được đánh giá là một người trung thực. Nhờ vậy, tôi đã hiểu đầy đủ hơn về cuộc thảm sát và có quan điểm khách quan hơn về cuộc xung đột xã hội. Điều duy nhất không thống nhất trong ký ức của mọi người chính là số lượng người bị chết, và tất nhiên đó không phải là ẩn số duy nhất trong lịch sử đất nước này.
Việc nghe nhiều cách giải thích khác nhau về sự kiện này khiến trí nhớ của tôi cũng bị rối tinh lên. Một trong những kỷ niệm kiểu đó là cảnh tôi đội mũ và tay cầm súng đồ chơi đứng trước cửa ra vào, xem đoàn lính nhễ nhại mồ hôi đang duyệt binh dưới hàng cây bàng. Một trong số viên sĩ quan chỉ huy mặc lễ phục đi ngang qua liền chào tôi:
- Tạm biệt, đại úy Gabi! (tên thân mật của Márquez - ND)
Cảnh tượng thì rõ ràng trong kí ức của tôi, nhưng sự việc thì chưa chắc đã có thật trong thực tế. Mũ, lễ phục, súng là những thứ cùng tồn tại trong hồi ức, nhưng đã hai năm trôi qua sau cuộc đình công thì làm gì còn lính tráng ở Cataca nữa. Trong nhà, người ta tạo ra nhiều chuyện kiểu này khiến tôi cảm thấy như đã có những kỷ niệm này từ trong bụng mẹ và có những giấc mơ đậm chất linh tính.
Đó là thực trạng thế giới khi tôi bắt đầu có ý thức về môi trường gia đình mình và tôi chỉ có thể nhắc lại theo công thức này: khổ đau, nhớ nhung, mơ hồ trong nỗi cô đơn trong căn nhà rộng lớn. Trong nhiều năm liền, tôi thấy thời kỳ đó là một cơn ác mộng kéo dài vì sáng nào tỉnh dậy tôi cũng cảm thấy sợ hãi. Thời niên thiếu, bị giam lỏng trong một trường trung học lạnh lẽo trên vùng núi Andes, tôi thường tỉnh dậy trong đêm tối và lại khóc thầm. Mãi đến khi về già, tôi mới chợt hiểu ra, nỗi bất hạnh của ông bà ngoại thời ở Cataca chính là ký ức mà càng cố xua đuổi thì nó càng bám riết hơn.
Nói một cách đơn giản hơn: ông bà tuy sống ở Cataca nhưng tâm hồn của họ thì luôn hướng về Padilla, mà đến tận bây giờ chúng tôi vẫn quen gọi ngắn gọn là tỉnh, làm như trên thế gian này không có tỉnh nào khác vậy. Dù có thể không suy tính từ trước, nhưng ở Cataca, ông bà đã cho xây căn nhà giống hệt căn ở Barrancas vốn có các cửa sổ hướng về phía nghĩa trang nơi chôn cất Medardo Pacheco. Ở thị trấn Cataca, ông bà được mọi người yêu mến, nể trọng, nhưng cuộc đời thì vẫn như bị trói buộc với quê hương, nơi hai người sinh ra. Ở đó, người ta cứ nhất quyết không chịu thay đổi những ham thích, niềm tin, quan điểm, thành kiến của mình và họ vẫn xiết chặt hàng ngũ để chống lại bất cứ cái gì khác với lẽ thường.
Những tình bạn thân thiết nhất của ông bà, trước hết, là những người đến từ tỉnh. Ngôn ngữ dùng trong gia đình vẫn là thứ tiếng nói mà các cụ cố đã mang theo từ đất nước Tây Ban Nha, qua đường Venezuela vào thế kỷ trước. Và tất nhiên, thứ tiếng nói này cũng chịu những ảnh hưởng nhất định của phương ngữ vùng Caribe, của các nước châu Phi, do những người nô lệ da đen mang sang và những từ còn lại của người thổ dân bản xứ. Bà ngoại hay dùng những từ này để giấu giếm, không muốn cho tôi hiểu một chuyện gì đó, nhưng bà đâu biết là qua tiếp xúc trực tiếp với những người làm công, tôi cũng hiểu được thứ ngôn ngữ này. Hiện nay, tôi còn nhớ khá nhiều từ: atunkeshi là tôi buồn ngủ; jamusaitshi taya là tôi đói; ipuwots là người đàn bà có mang; arijuna là người nước ngoài. Từ này bà ngoại thường dùng để chỉ người Tây Ban Nha, người da trắng hoặc những kẻ thù địch. Bà Chon, cũng giống như những người nông dân khác, thường nói thứ tiếng Tây Ban Nha pha tạp với tiếng thổ dân, khiến bà tôi nhiều khi phải rầy la hoặc uốn nắn lại.
Một ngày sẽ là không hoàn chỉnh nếu không có những tin đồn, đại loại như có ai đó mới sinh ở Barrancas, con bò mộng ở trại Fonseca đã húc chết mấy người, ở Manaure có đám cưới của ai đó hoặc giả có ai đó vừa giã từ cõi đời để trở về với ông cụ bà kị ở thế giới bên kia, hoặc là chuyện bệnh tình của tướng quân Socarras ở San Juan del Cesar sáng nay đã đỡ chưa.
Ở cửa hàng của Công ty chế biến hoa quả thường có bán nhiều mặt hàng với giá cả theo thời vụ, nào là táo California được gói trong giấy bóng, cá ướp lạnh, thịt hun khói của vùng Galicia, dầu ăn Hy Lạp. Tuy vậy, đã gọi là thức ăn của gia đình thì phải có hương vị gợi nhớ quê hương: khoai sọ nấu súp phải của vùng Riohacha, ngô làm bánh điểm tâm phải từ vùng Fonseca, dê phải được nuôi bằng thức ăn có trộn muối của Guajira và rùa cùng tôm hùm sống phải được chuyển từ Dibulla đến.
Phần lớn những người khách của gia đình là từ tỉnh đến bằng các chuyến xe lửa hàng ngày. Họ thường mang họ Riascos, Noguera, Ovalle kết duyên với các dòng họ Cotes và Iguarán. Họ thường chỉ mang chiếc ba lô độc nhất và dù không báo trước, nhưng vẫn ở lại dùng bữa cơm trưa. Tôi không bao giờ quên được câu nói bất di bất dịch của bà ngoại mỗi khi bước vào cửa nhà bếp: “Phải nấu đủ các món đấy nhé bởi vì không ai biết số khách sắp tới thích ăn món gì”.
Cái tinh thần xê dịch muôn thuở đó dựa trên điều kiện địa lý thực tế. Tỉnh này vốn tự chủ, có nền văn hóa đồng nhất và cổ lỗ, lại khép kín trong thế giới riêng vì bị kẹp giữa hai dãy núi Sierra Nevada de Santa Marta và Sierra del Perijá và nhô ra biển Caribe. Nó thông thương với thế giới bên ngoài còn dễ dàng hơn với các vùng khác trong nước. Cuộc sống hàng ngày cũng giống như các nước trong quần đảo Antillas vì sự giao lưu đi lại quá dễ dàng với nước Jamaica, hoặc vùng Curazao, và gần như được trộn lẫn với cách sống của người Venezuela qua một vùng biên giới bỏ ngỏ. Tỉnh gắn bó với các vùng khác trong nước chỉ qua hệ thống luật lệ, thuế khóa, lính tráng và những tin tức xấu được truyền đến từ độ cao hai ngàn rưỡi mét, sau tám ngày đi trên tàu thủy chạy bằng hơi nước đốt bằng củi qua con sông Magdalena.
Điều kiện tự nhiên của một bán đảo đã tạo ra một nền văn hóa có đặc tính riêng biệt khép kín từ thời ông bà truyền lại ở Cataca. Mỗi ngôi nhà là một thị tứ riêng biệt. Từ lúc tôi mới lên ba, bữa ăn trong nhà đã luôn diễn ra theo nhiều phiên khác nhau, trong đó hai phiên đầu là thiêng liêng nhất. Trong bàn ăn, ông ngoại bao giờ cũng ngồi đầu bàn, tôi ngồi góc phải ông. Các vị trí còn lại theo thứ tự đàn ông trước, phụ nữ sau và giữa hai khối người luôn phải có khoảng cách nhất định. Nguyên tắc này chỉ không áp dụng trong ngày lễ Quốc khánh 20 tháng Bảy và các buổi ăn trưa theo phiên sẽ kéo dài cho đến khi tất cả mọi người ăn xong. Ban đêm thì không bày bàn ăn, mọi người vào bếp uống cà phê sữa cùng với các món bánh ngọt ngon lành do bà ngoại làm. Khi cửa nhà đóng lại, mỗi người tự mắc võng nơi mình thích, theo độ cao khác nhau, thậm chí cả ở dưới các gốc cây ngoài vườn.
Những năm đó, tôi sống với những chuyện tưởng như huyền thoại. Ví như có lần tôi thấy một nhóm người đàn ông mặc áo, quần đi ngựa và mang giày với những miếng sắt thúc ngựa giống hệt nhau, trên trán cũng có vẽ hình chữ thập ngoặc bằng tro. Họ đều là những người con mà ông ngoại - ngài đại tá - đã để rơi rớt ở nhiều nơi trong tỉnh trong cuộc chiến tranh Một ngàn ngày. Họ từ các làng mạc, thị tứ khác nhau cùng đến chúc mừng sinh nhật của ông ngoại dù có khi đã bị chậm đến một tháng. Trước khi đến nhà, họ đã vào nhà thờ dự lễ Misa Ngày thứ Tư lễ Tro. Chữ thập ngoặc bằng tro mà cha xứ Angarita vẽ cho họ cứ ám ảnh tôi mãi như biểu tượng siêu nhiên đầy bí hiểm, dù sau này tôi đã quen với nó trong nghi thức Tuần lễ Thánh.
Phần lớn họ được sinh ra sau khi ông bà ngoại đã làm đám cưới. Mỗi khi được tin ai đó ra đời, bà ngoại lại cẩn thận ghi tên, họ của người đó vào một cuốn sổ. Khó khăn lắm bà mới tha thứ cho lỗi lầm này của ông ngoại để hết lòng theo dõi và ghi chép đầy đủ vào cuốn gia phả gia đình. Nhưng không có ai, kể cả bà ngoại, có thể phân biệt được sự khác nhau giữa những người con rơi đó của ông ngoại. Mãi đến hôm họ ồn ào đến mừng thọ ông trong ngày sinh nhật, gia đình mới biết rõ tính cách của từng người. Các bác, các cậu đều nghiêm túc, chăm chỉ, lo lắng cho gia đình, sống hòa thuận với những người xung quanh, nhưng cũng không ngại lên cơn bốc đồng trong những cuộc vui, trong các dịp lễ hội: Đập vỡ cốc, chén, giẫm nát vườn hoa hồng chỉ để đuổi bắt con nghé, bắn chết con gà làm món nhậu, thả con lợn động đực chạy rông lao cả vào người các bà, các cô thợ thêu ngồi ở hành lang. Nhưng không ai than phiền vì những chuyện đó vì thấy các bác, các cậu ấy tỏ ra rất vui vẻ, hạnh phúc.
Tôi vẫn thường xuyên gặp lại cậu Esteban Carrillo, người anh song sinh với dì Elvira. Cậu ấy rất khéo tay, đi đâu cũng mang theo một hộp đồ nghề, sẵn sàng sửa chữa bất cứ hỏng hóc nào ở những nhà mà cậu đến thăm. Cậu còn là người vui tính và có trí nhớ rất tốt, thường kể tôi nghe nhiều chuyện về gia đình mà trước đó tôi chưa hề được biết.
Hồi nhỏ, tôi cũng thường đến chơi nhà cậu Nicolas Gomez, người có mái tóc vàng óng và nhiều nốt ruồi son và là doanh nhân có tiếng trong khu vực nhà tù cũ của thị trấn Fundación. Yêu mến tôi vì cho tôi là đứa trẻ ngoan ngoãn, cậu thường cho tôi một bọc hàng thật to trước khi chia tay ra về. Cậu Rafael Arias luôn luôn cưỡi lừa tạt qua nhà, lúc nào cũng vội vội vàng vàng chỉ đủ thời gian uống ly cà phê trong nhà bếp. Còn những ông cậu, ông bác khác thì mãi sau này tôi thỉnh thoảng mới được gặp, vào những dịp đi về các thị trấn trong tỉnh để tìm ý cho những cuốn tiểu thuyết đầu tiên, và bao giờ tôi cũng nhớ lại những dấu thập ngoặc bằng tro trên trán họ như một biểu tượng của gia đình.
Mấy năm sau khi ông bà ngoại mất và gia đình đã không còn ở nhà cũ nữa, tôi mới có dịp trở lại Fundación trên chuyến tàu đêm. Tôi ngồi ở quán ăn duy nhất còn mở cửa ngay trong sân ga. Không còn nhiều thức ăn, nhưng bà chủ quán cũng dọn cho tôi một bữa ăn đêm khá thịnh soạn. Qua cách nói vồn vã và cung cách phục vụ nhiệt tình của bà chủ, tôi linh cảm thấy bà có những phẩm chất của những người phụ nữ trong gia đình mình. Mấy năm sau tôi mới biết là mình đoán đúng: bà chủ quán đó tên là Sara Noriega, một trong những bà dì mà trước đó tôi chưa hề biết.
Apolinar vốn là một người hầu cũ có thân hình nhỏ bé nhưng rắn chắc, người mà tôi thường nhớ như một ông cậu, sau nhiều năm vắng bóng bỗng quay về mà không báo trước. Ông ta mặc đồ tang màu đen, đội mũ rộng vành cũng màu đen, kéo sụp xuống che gần hết cặp mắt buồn lặng lẽ. Khi đi ngang qua nhà bếp, ông nói là về nhà để dự lễ tang, nhưng mãi ngày hôm sau mọi người mới hiểu ý ông; đó là lúc nhận được tin ông ngoại vừa mất ở thị trấn Santa Marta. Trước đó, ông ngoại đã được bí mật đưa đến đó để cấp cứu.
Trong số các ông bác, ông cậu, chỉ có bác José María Valdeblánquez, người lớn tuổi nhất và cũng là người duy nhất theo phái Bảo thủ là có ảnh hưởng đối với đời sống xã hội. Ông là Thượng nghị sĩ nước Cộng hòa trong thời gian xảy ra cuộc chiến tranh Một ngàn ngày và tham dự lễ ký hiệp ước đầu hàng của phái Tự do trong một trang trại gần Neerlandia. Đứng đối diện với ông, trong hàng ngũ những người bại trận là cha ông, tức ông ngoại tôi.
Tôi tin là cách sống và suy nghĩ của tôi về cơ bản là do ảnh hưởng của những người phụ nữ trong gia đình và những người làm công đã chăm sóc tôi lúc bé. Họ có cá tính mạnh mẽ, trái tim dịu dàng và đã đối xử với tôi một cách tự nhiên ngay trong thiên đường hạ giới. Trong số rất nhiều người mà tôi còn nhớ, Lucia là người duy nhất làm tôi kinh ngạc trước sự tinh quái rất trẻ con, khi cô dẫn tôi đến một góc phố cụt đầy cóc nhái, rồi vén áo choàng đến ngang thắt lưng, chỉ cho tôi xem đám lông màu râu ngô xoăn tít. Tuy vậy, cái mà tôi thực sự chú ý lại là những vết ghẻ lở lan khắp bụng, như một tấm bản đồ thế giới thu nhỏ, với những cồn cát màu tím và đại dương màu vàng. Còn những người khác thì trong sạch như các Đại Thiên sứ: họ thay quần áo trước mặt tôi, họ tắm cho tôi cùng lúc với họ, họ đặt tôi ngồi trên cái bô của tôi còn họ ngồi trên cái bô của mình trước mặt tôi để giải tỏa những bí mật, những đau khổ, giận hờn của mình, làm như tôi chẳng hiểu gì cả và chính họ cũng không thèm để ý rằng tôi cũng biết tất cả, hiểu hết những chuyện mà họ vung vít cả ra cho tôi xem và nghe.
Chon là người làm công và là người của đường phố. Người vùng Barrancas, từ khi còn bé, bà đã được ông bà tôi đưa về nhà nuôi và lớn lên ở trong nhà bếp. Bà nhanh chóng hòa nhập với gia đình, rồi trở thành người hầu thân cận nhất trong chuyến hành hương về tỉnh để thử thách tình yêu của mẹ tôi. Những năm cuối đời, bà dọn đến ở một phòng riêng trong khu nghèo nhất của thị trấn, đúng như ý thích thực sự pha chút hài hước của mình, và sống bằng nghề bán rong những nắm bột ngô làm bánh vào lúc sáng sớm mỗi ngày. Tiếng rao trong bầu không khí im ắng của bà đã trở nên quen thuộc với mọi người: “Bột ngô lạnh của già Chon đây...”
Bà có màu da đẹp của thổ dân, dáng người xương xương, bao giờ cũng đi chân đất, khăn bịt đầu màu trắng và khoác trên mình tấm ga bằng vải bông. Bà thường đi chầm chậm giữa lòng đường phố, đàn chó hiền lành và im tiếng chạy xung quanh. Hình ảnh của bà đã đi vào trong văn nghệ dân gian. Trong các ngày hội hóa trang, bao giờ cũng có người mang mặt nạ giống y như bà, cũng khoác vải ga và bắt chước lời rao của bà, nhưng lại không huấn luyện được một đàn chó bảo vệ như bà. Tiếng rao bột ngô lạnh của bà trở nên quen thuộc đến mức được đưa vào một bài hát của nhóm nhạc công đàn phong cầm (accordeon).
Một buổi sáng bất hạnh, hai con chó dại tấn công vào đàn chó của bà, lũ chó quay chống lại hết sức quyết liệt làm bà ngã vật xuống đất, gãy sống lưng. Bà đã không gượng dậy được, mặc dù ông ngoại tôi đã tìm hết cách chữa chạy.
Một kỷ niệm khó quên khác về thời đó là ca sinh đẻ của Matilde Armenta, một thợ giặt bắt đầu làm công trong nhà, năm tôi lên sáu. Lần ấy tôi vào nhầm phòng và thấy bà ta trần truồng đang nằm bất động trên giường, gào khóc thảm thiết vì đau đớn. Vây xung quanh là các bà mụ đang tìm mọi cách giúp bà ta đẻ. Người thì dùng khăn ướt lau mặt cho bà, những người khác thì giữ chặt tay, chân và xoa bóp bụng cho đứa con mau ra đời. Santos Villeros, bình thản đứng giữa cảnh hỗn độn, mắt nhắm nghiền, miệng tụng những câu kinh về biển, trong khi người ta làm như đang đào bới tìm cái gì giữa hai bắp đùi sản phụ. Cái nóng khủng khiếp trong căn phòng đầy hơi nước bốc lên từ những chiếc nồi được đun sôi từ nhà bếp đưa vào. Tôi đứng lặng im ở một góc buồng, vừa sợ vừa tò mò, cho đến khi bà mụ kéo ra từ giữa hai đầu gối sản phụ một đứa bé bê bết máu, còn lòng thòng cuống nhau. Một người đàn bà nhìn thấy tôi đứng trong góc, liền kéo ra khỏi buồng.
- Cháu mắc tội chết rồi đấy - bà ta nói và giơ ngón tay dọa tôi. Cháu phải quên ngay mọi chuyện mới vừa thấy!
Nhưng người phụ nữ đã thực sự làm tôi mất đi sự ngây thơ trong trắng lại không hề biết việc cô ta đã làm. Đó chính là Trinidad, con gái của một trong những người làm công ở nhà và vừa vào tuổi xuân non. Lúc đó, cô ta mười ba tuổi nhưng vẫn mặc bộ váy lúc lên chín nên cứ khít khìn khịt vào người như thể không mặc thứ gì. Một buổi tối, hai chúng tôi đang đứng trong vườn, từ nhà hàng xóm bỗng vọng đến tiếng nhạc rộn rã, Trinidad liền ôm lấy tôi cùng nhảy múa, vòng tay của cô chặt đến mức làm tôi suýt ngạt thở. Tôi không biết hôm ấy cô ta cảm thấy ra sao, chứ riêng tôi, đến tận bây giờ vẫn còn nguyên vẹn niềm kích động mà ngay nửa đêm hôm đó đã làm tôi tỉnh giấc. Trong bóng đêm hôm ấy, toàn bộ xúc giác của tôi đã tìm gặp làn da của cô ta trên từng phân một và mũi thì nồng nặc mùi muông thú. Trong giây lát, thân thể tôi rần rần cái cảm giác bản năng của đàn ông mà sau này không còn thấy lặp lại mạnh mẽ như vậy nữa. Đến tận bây giờ, tôi vẫn nhớ đến thời khắc ấy như cái chết tuyệt vời. Từ hôm ấy, tôi nhận thấy, tuy rất mù mờ và hư hư thật thật, rằng trên đời này có một điều bí ẩn sâu thẳm mà trước đây ta chưa từng biết, nhưng nó lại thường xuyên dằn vặt ta cứ như thể ta đã biết rồi. Trong khi đó, những người phụ nữ trong gia đình lại luôn dẫn dắt tôi đi trên con đường khô khan của sự trong trắng.
Khi đánh mất sự ngây thơ trong trắng cũng là lúc tôi biết được rằng không phải Chúa Hài Đồng đã đem đồ chơi đến cho chúng tôi vào dịp lễ Giáng sinh, nhưng tôi cũng cẩn thận không dám nói ra điều này. Lúc lên mười tuổi, tôi được bố cho biết điều bí mật của người lớn vì ông cho là tôi đã biết cả rồi và ông dẫn tôi đi cửa hàng bán quà Noel chọn mua đồ chơi cho các em. Ở cửa hàng, người ta lại nói với tôi cái điều bí ẩn mà tôi thường nghe trước khi nhìn thấy Matilde Armanta đẻ con, là trẻ em được những con cò mang từ Paris sang; nhưng lần này thì tôi cố nhịn cười. Tôi cũng cần thú nhận rằng ngay từ lúc đó cho đến nay, tôi không bao giờ gắn việc sinh sản với tình dục. Dù sao thì tôi vẫn cho rằng: mối quan hệ thân mật của mình với những người làm công trong nhà có thể là nguồn gốc của sợi chỉ thông tin bí ẩn mà tôi có được với những người phụ nữ và nhờ vậy, trong suốt những năm dài trong đời, tôi luôn cảm thấy ở bên phụ nữ dễ chịu và an toàn hơn so với ở bên cạnh đàn ông. Cũng từ đó, tôi tin tưởng rằng chính đàn bà đã giữ gìn thế giới này, còn đàn ông chúng ta với tính khí hung bạo từ bao đời nay chỉ làm nó rối tinh lên.
Dù không tự biết nhưng chính bà chị họ Sara Emilia Márquez đã liên quan ít nhiều đến số phận của tôi. Từ hồi còn rất trẻ, chị đã được nhiều chàng trai theo đuổi, nhưng không có ai đáng để chị chú ý cả. Vì vậy, chị quyết định hễ gặp được người nào cảm thấy hợp là chọn ngay và không thay đổi nữa. Chàng trai được chọn có điểm giống bố tôi: cũng là người nước ngoài mà người ta không biết đến từ đâu và đến bằng cách nào, có nếp sống trong sạch nhưng tài sản thì ít ỏi. Anh ta tên là José del Carmen Uribe Vergel, nhưng thỉnh thoảng vẫn ký đơn giản là J. del C.
Mất một thời gian dài không rõ anh là ai và từ đâu đến, mãi sau chị mới biết anh là người soạn các bài diễn văn cho các vị công chức và cây bút làm thơ tình chính trên tạp chí văn hóa, có điều việc xuất bản có thường xuyên hay không phải nhờ vào ơn sủng của Chúa Trời. Anh vừa xuất hiện ở nhà tôi là tôi đã phục lăn danh tiếng thi sĩ của anh rồi. Anh là văn nhân đầu tiên mà tôi được làm quen trong đời. Tôi chỉ muốn được trở thành nhà văn như anh và tôi thật sự vui sướng khi bà bác Francisca Simodesea (Mama) học được cách chải tóc cho tôi làm sao cho giống hệt kiểu tóc anh.
Tôi là người đầu tiên trong gia đình biết được mối tình bí mật của họ. Một tối nọ, anh đến chỗ tôi đang chơi với bạn bè, gọi tôi ra một chỗ kín đáo và với vẻ trịnh trọng, nhờ tôi đưa một bức thư cho chị Sara Emilia. Tôi biết chị đang ngồi tiếp bạn gái ngay ở cửa ra vào. Tôi băng qua phố, nấp sau một cây bàng, rồi cẩn thận ném lá thư vào đúng ngay lòng chị Sara. Quá kinh ngạc, chị giơ hai tay lên trời, nhưng chưa kịp kêu lên thì đã phát hiện ra nét chữ ở ngoài bì thư. Sara Emilia và J. del C. trở thành bạn của tôi kể từ hôm đó.
Elvira Carrillo, em gái song sinh của cậu Esteban, dùng hai tay vặn khúc mía lấy nước, mạnh như máy ép làm mật. Dì nổi tiếng với tính thẳng ruột ngựa hơn là tính dịu dàng trong việc chăm sóc các cháu, nhất là đối với Luis Enrique, đứa em trai kém tôi một tuổi. Đối với nó, dì vừa là bà chúa vừa là kẻ tòng phạm, nó đặt cho dì cái tên quái quỷ là dì Pa. Nét đặc biệt của dì là thường làm những điều không thể. Elvira và Esteban là những người đầu tiên tìm đến nhà ở Cataca. Trong khi cậu Esteban nhanh chóng tìm được hướng đi trong nghề nghiệp và buôn bán phát đạt thì Elvira cứ luẩn quẩn mãi là bà dì trong nhà. Dì biến mất khi nhà không còn cần đến, nhưng khi nhà cần đến thì dì bỗng xuất hiện mà không ai biết dì đã đến từ đâu và bằng cách nào. Lúc nào thấy buồn bực trong lòng, dì vừa lắc chiếc nồi, vừa lẩm bẩm một mình và lên tiếng nói ra nơi có những đồ vật đã bị coi là mất. Sau khi an táng xong những người lớn tuổi đã mất, chỉ còn dì ở lại trong nhà giữa đám cỏ dại mọc lan hết khoảng trống trong vườn với đàn gia súc chuyên lang thang vào tận các buồng ngủ.
Francisca Simodosea hay bà bác Mama, chị họ ông ngoại, là nữ tướng trong gia đình, bà mất ở tuổi bảy mươi chín mà vẫn còn trinh tiết. Bà có thói quen và ngôn ngữ khác mọi người vì nền văn hóa mà bà hấp thụ không phải là của tỉnh mà từ thiên đường phong kiến ở bình nguyên Bolivar, nơi cha bà, ông Jose Maria Mejia Vidal, đã di cư từ Riohacha đến từ hồi trẻ cùng với nghề thợ kim hoàn.
Mái tóc của bà dài đến tận đầu gối, đen mãi cho đến khi bà quá già mới chịu ngả bạc. Mỗi tuần, bà gội đầu một lần với nước tinh dầu, rồi ngồi trước cửa phòng ngủ chải tóc theo một nghi lễ thiêng liêng suốt mấy tiếng đồng hồ và từ tốn thưởng thức vài điếu thuốc lá cuộn. Học cách hút của các chiến binh phái tự do dùng để tránh bị kẻ thù phát hiện trong đêm tối, bà hút thuốc ngược, nghĩa là cho đầu lửa vào trong mồm. Cách ăn mặc của bà cũng khác người: váy với áo cánh bằng sợi trơn và đi giày nhung sọc nổi.
Trái ngược với ngôn ngữ chuẩn mực của bà ngoại, cách nói năng của bà bác Mama luôn đầy ắp các từ lóng dân dã. Bà bác không cần giữ mồm giữ miệng trước bất cứ ai và trong bất cứ hoàn cảnh nào; với ai, bà cũng có thể nói sổ toẹt vào mặt. Ngay đối với nữ tu, cô giáo dạy mẹ tôi trong trường nội trú ở thị trấn Santa Marta, bà bác cũng làm cho chết đứng với câu nói tục tĩu: “Bà thuộc loại người chuyên lẫn lộn lỗ đít với tuần chay” . Tuy nhiên, bà bác cũng biết cách giữ gìn không nói năng thái quá để trở thành kẻ thô bỉ hoặc xúc phạm người khác.
Suốt nửa đời mình, bà bác giữ chìa khóa nghĩa địa gia đình, sắp xếp mồ mả cho người chết và chuẩn bị bánh thánh ở nhà cho lễ Misa. Trong gia đình, bà bác là người duy nhất, kể cả đàn ông và đàn bà, không hề vướng vào chuyện tình trắc trở làm tan nát trái tim. Chúng tôi biết được điều này vào một đêm khi thầy thuốc định đặt ống xăm nhưng bị bà từ chối. Bà đã nói câu này, nhưng vào lúc đó tôi không hiểu được hết ý nghĩa: “Thưa bác sĩ, tôi muốn cảnh báo với ngài rằng tôi chưa bao giờ quen biết bất cứ người đàn ông nào”.
Sau đó, tôi còn được nghe bà bác thường xuyên nhắc lại điều này, nhưng không bao giờ bà tỏ ra tự hào hay ân hận mà chỉ với ý nghĩa đó là việc đã rồi và không hề để lại dấu vết gì trong cuộc đời bà. Trong khi đó, ở cương vị mai mối bắt buộc, bà bác Francisca đứng trước tình thế tiến thoái lưỡng nan: vừa phải chuẩn bị phòng tân hôn cho bố mẹ tôi, vừa không được trái ý bà ngoại của tôi.
Tôi cảm thấy bà hiểu bọn trẻ con hơn hiểu người lớn. Bà là người chăm sóc Sara Emilia, chị họ tôi cho đến khi chị ấy tự mình chuyển sang ở phòng có các bức tranh của Calleja. Bà bác lại quay sang chăm sóc em Margot và tôi, mặc dù bà ngoại vẫn lo mọi chuyện sinh hoạt hàng ngày cho tôi và ông ngoại thì lo giáo dục tôi thành người đàn ông.
Kỷ niệm âu lo nhất của tôi thời đó là về bà bác Petra, chị cả của ông ngoại. Mãi đến khi bị mù, bà mới từ Riohacha về sống với gia đình. Bà ngủ ở buồng bên cạnh văn phòng, nơi sau này sẽ là xưởng chế tác kim hoàn. Bà bác có đôi tay khéo léo đến kỳ lạ. Trong không gian tối mù, bà vẫn làm được mọi việc mà không cần ai giúp đỡ. Tôi vẫn còn như thấy bà tựa như mọi chuyện chỉ vừa xảy ra ngày hôm qua: bà đi lại không cần gậy, tuy hơi chậm, nhưng mạnh bạo như thể mắt còn sáng. Bà di chuyển theo mùi vị bà đánh hơi thấy. Bà nhận biết buồng mình nhờ mùi axít clohidric tại xưởng kim hoàn ở phòng bên cạnh, nhận biết hành lang nhờ hương hoa nhài ngoài vườn, buồng ngủ của ông bà ngoại nhờ mùi cồn hai người bôi vào người trước khi ngủ, buồng của bà bác Francisca nhờ mùi dầu thắp trên bàn thờ và đoạn cuối hành lang nhờ mùi thức ăn từ bếp bay ra.
Dáng bà thanh mảnh, nét mặt kín đáo, nước da như cánh hoa huệ héo và mái tóc đen nhánh như xà cừ để xõa đến ngang thắt lưng được bà tự chăm sóc, chải chuốt lấy. Ánh mắt xanh sáng trong của trẻ thơ thay đổi tùy theo trạng thái tâm lý của bà. Bà chỉ thỉnh thoảng ra ngoài đi dạo, còn thì suốt ngày ở trong buồng chốt chặt cửa và hầu như chỉ một mình. Thỉnh thoảng, bà cũng lẩm nhẩm hát một mình, và tiếng hát của bà có khi lẫn với tiếng hát của bà ngoại, nhưng ca từ thì khác hẳn, thường buồn bã hơn. Tôi có nghe ai đó nói rằng, bà thường hát các bài romanzas của vùng Riohacha, nhưng sau này khi đã lớn, tôi mới biết thực ra bà hát các bài do mình tự nghĩ ra, nghĩ đến đâu hát đến đó. Có một hai lần, do không thắng được sự tò mò, tôi đã vào trong buồng nhưng không bao giờ thấy bà bác. Mấy năm sau, khi đã học phổ thông trung học, trong một kỳ nghỉ hè, tôi kể những kỷ niệm này với mẹ và mẹ vội vàng nói ngay là tôi đã nhầm lẫn hoàn toàn. Lý lẽ của mẹ rất vững chắc và chính tôi đã kiểm chứng lại, không chút mảy may nghi ngờ nào: bà bác Petra đã chết khi tôi chưa được hai tuổi.
Dì Wenefrida, mà chúng tôi thường gọi Nana, là người vui tính và dễ thương nhất trong gia đình; tuy nhiên, chỉ khi đứng bên giường bệnh của bà, tôi mới nhớ đầy đủ về bà. Dì kết hôn với dượng Rafael Quintero Ortega - dượng Quinte - một luật sư con nhà nghèo ở Chía, cách thủ đô Bogota khoảng mười lăm dặm và ở cùng độ cao so với mực nước biển. Nhưng ông thích nghi tốt với điều kiện khí hậu vùng bờ biển Caribe đến mức phải cần một chai nước nóng để dưới chân mới ngủ được trong tiết trời mát mẻ tháng Mười hai. Gia đình vừa hồi phục sau vụ thảm họa Medardo Pacheco thì lại đến phiên dượng Quinte gặp rắc rối vì giết chết vị luật sư bào chữa cho phía đối nghịch trong một vụ kiện tụng ở tòa án. Dượng vốn là người hiền lành và tốt bụng, nhưng kẻ địch lại khiêu khích liên tục nên ông buộc lòng phải chuẩn bị vũ khí. Dượng là người gầy gò ốm yếu toàn đi giày trẻ con nên bạn bè trêu là khẩu súng ngắn mà dượng giấu trong áo sơ mi trông chả khác gì khẩu đại bác. Ông ngoại đã cảnh báo cậu bằng câu nói nổi tiếng: “Con chưa biết một xác chết nặng như thế nào đâu”. Nhưng dượng Quinte chưa kịp suy xét việc này thì đã bị kẻ địch chặn bước ở phòng chờ của tòa án và sủa vào mặt là đồ điên rồ, đồ bị quỷ ám. Tấm thân bồ tượng của hắn như muốn đổ sụp lên người dượng. “Thậm chí dượng cũng chẳng hiểu bằng cách nào mình đã rút súng ra và nhắm mắt, dùng cả hai tay bóp cò bắn chỉ thiên” . - Dượng nói với tôi như vậy trước khi mất, sau gần một trăm năm hiện diện trên cõi đời. “Khi mở mắt - dượng kể tiếp - dượng còn thấy hắn đứng đấy sừng sững, to lớn phát khiếp da xanh tái nhợt nhạt rồi cứ thế mềm nhũn đi và đổ sụp xuống sàn”. Đến lúc ấy mà dượng Quinte vẫn chưa biết là mình đã bắn trúng vào giữa trán kẻ địch. Tôi hỏi dượng cảm thấy thế nào khi nhìn thấy ông ta đổ sụp xuống và dượng đã khiến tôi kinh ngạc bằng câu trả lời thẳng thắn:
- Nhẹ cả người!
Kỷ niệm cuối cùng của tôi về dì Wenefrida, vợ của dượng, là một đêm mưa to khi bà phù thủy làm lễ trừ tà cho dì. Đó không phải là một bà phù thủy thông thường, mà là một người phụ nữ dễ thương mặc đúng mốt thời thượng, vừa dùng bó lá cây trừ ma để xua tà khí ra khỏi thân thể người bệnh, vừa tụng bài cầu xin bằng các bài hát ru. Wenefrida bỗng vặn mình quằn quại và một con chim to bằng con gà trống, lông sáng lấp lánh bay ra khỏi những tấm khăn trải giường trắng. Bà phù thủy dùng bộ móng gà chộp được nó trên không và cho vào trong một tấm vải đen đã được chuẩn bị sẵn. Bà ta ra lệnh đốt một đống lửa ở sân sau và vứt túi bọc con chim vào lửa. Nhưng dì Wenefrida vẫn không khỏi bệnh.
Sau đó ít lâu, đống lửa lại được đốt lên ngoài vườn khi một con gà mái đẻ ra một quả trứng kỳ lạ, giống quả bóng bàn nhưng có một cái đuôi trông như mũ bonnet phrygien (Mũ nhỏ không vành màu đỏ thời cách mạng Pháp năm 1793, tượng trưng cho sự tự do, sau này có trên huy hiệu một số quân, binh chủng Mỹ - ND). Bà ngoại xác định ngay: “Đây là trứng con nhông” . Bà vứt ngay vào lửa và lầm rầm đọc lời cầu nguyện.
Hình ảnh ông bà ngoại không bao giờ thay đổi về tuổi tác trong ký ức của tôi. Vẫn giống hệt như trong những bức ảnh chụp khi ông bà vừa bước vào tuổi già, mà các bản sao được truyền lại cho từng người trong bốn thế hệ con cháu đông đúc như một nghi lễ thiêng liêng của gia đình. Nhất là những bức ảnh của bà ngoại Tranquilina, người phụ nữ cả tin, nhẹ dạ và đa cảm nhất mà tôi từng gặp trên đời, người bao giờ cũng lo sợ trước những điều bí ẩn của cuộc sống thường ngày. Để làm dịu bớt nỗi cực nhọc của công việc, bà thường cất giọng khàn đục của người già, hát những khúc tình ca, nhưng thỉnh thoảng lại đệm vào một tiếng thét tuyên chiến chống lại định mệnh:
- Cầu Đức Mẹ Đồng Trinh!
Bà ngoại thấy những chiếc ghế đu có thể tự đu đưa, những bóng ma của bệnh hậu sản đã chui vào buồng các sản phụ, hương hoa nhài ngoài vườn như bóng ma vô hình, những chiếc dây thun bị vứt dưới sàn nhà có hình con số có thể là dấu hiệu của giải thưởng đặc biệt của kỳ xổ số, một con chim không có mắt đã bay lạc vào phòng ăn và chỉ có thể đuổi được nó bằng bài hát Tuyệt vời. Bà tin là có thể giải mã được tên người sáng tác và nơi ra đời của các bài hát từ tỉnh truyền đến. Bà cũng mường tượng ra những tai họa sớm hay muộn cũng sẽ xảy ra, linh cảm thấy ai sẽ đội mũ trắng từ Riohacha đến nhà, hoặc bệnh đau bụng của Manaure chỉ có thể chữa khỏi bằng mật gà. Ngoài nghề bói toán, bà còn là một thầy lang vườn.
Bà ngoại có cách thức rất riêng để đoán mộng của mình và của người khác. Bà tin là nó điều khiển hành vi hàng ngày của mọi người trong nhà và quyết định cuộc đời của tất cả các thành viên. Tuy vậy, bà cũng đã có lần suýt chết mà không kịp biết trước. Lần đó, bà vừa kéo tấm khăn trải giường ra thì đã nghe một tiếng nổ phát ra từ khẩu súng ngắn mà ông ngoại vẫn cất ở dưới gối để phòng thân trong lúc ngủ. Căn cứ vào lỗ thủng trên trần nhà, người ta tính rằng viên đạn đã đi xẹt qua rất gần mặt bà.
Từ khi có trí nhớ, tôi đã cảm thấy hình phạt của mỗi buổi sáng chỉ vì chuyện đánh răng: bà ngoại luôn đè tôi ra để cọ răng cho tôi trong khi bà lại hưởng đặc quyền kỳ lạ là được tháo hàm răng ra rửa, rồi ngâm trong cốc nước khi đi ngủ. Nghĩ hàm răng của bà là răng thật và nhờ cái mẹo nhà quê nào đó mà bà lấy ra được, tôi cứ bắt bà há mồm cho xem phía sau của đôi mắt, bộ não, mũi, tai có cái gì không. Tôi hoàn toàn thất vọng vì chỉ nhìn thấy vòm miệng. Không có ai lý giải cho tôi điều kỳ lạ trên, nên suốt một thời gian dài tôi cố thuyết phục ông nha sĩ làm cho tôi được như bà ngoại, để bà cọ răng cho tôi trong khi tôi vẫn được đi chơi ngoài phố.
Hai bà cháu chúng tôi có mật mã riêng để giao tiếp với vũ trụ vô hình. Ban ngày, thế giới kỳ lạ của bà ngoại làm tôi say mê, nhưng ban đêm lại gây cho tôi nỗi kinh hoàng: nỗi khiếp sợ bóng tối, có trước cả bản thân ta, cứ đeo đuổi suốt cuộc đời tôi trên những con đường cô đơn và cả ở những nơi nhảy múa của toàn thế giới. Ở nhà của ông bà ngoại, mỗi vị thánh lại có một phòng thờ và mỗi phòng lại có một người chết.
Nhưng căn nhà thực sự có tên gọi chính thức “Nhà người chết” chính là nhà hàng xóm của chúng tôi. Tên của người chết đó đã được tìm ra trong một lễ gọi hồn: Alfonso Mora. Một người gần gũi với ông ta đã đi xác minh trong các cuốn sổ theo dõi khai sinh và khai tử, và đã tìm thấy rất nhiều người có tên như vậy, nhưng không có dấu hiệu gì là người chết này thuộc gia đình chúng tôi. Trong nhiều năm, căn nhà này là nhà của cha đạo, người ta đồn rằng bóng ma chính là cha Angarita và chuyện này tung ra chỉ để xua đuổi những kẻ tò mò chuyên đi dò la các hoạt động về đêm của cha xứ.
Tôi chưa có dịp quen biết Meme, nữ nô lệ người địa phương mà gia đình mang theo từ Barrancas. Trong một đêm mưa bão, cô ta cùng em trai Alirio còn ở tuổi thiếu niên đã bỏ trốn. Nhưng tôi thường nghe nói, chính hai chị em cô này đã làm cho cách nói của mọi người trong gia đình pha tạp thêm nhiều từ thổ ngữ. Thứ ngôn ngữ Tây Ban Nha khó hiểu mà hai chị em họ sử dụng làm cho các nhà thơ cũng phải ngạc nhiên. Mọi chuyện bắt đầu từ một ngày đáng nhớ, khi cô ta tìm thấy hộp diêm mà bác Juan de Dios bị mất, liền đem đến trả lại với câu nói lai tạp đầy vẻ đắc thắng:
- Diêm con ở đây của ông.
Khó mà tin được rằng bà ngoại Mina với những người đàn bà lơ ngơ lại là chỗ dựa kinh tế của cả nhà khi mà các nguồn thu nhập bắt đầu có sự trục trặc. Ông đại tá có một số mảnh đất rải rác nhiều nơi đã bị nông dân lấn chiếm và từ chối không chịu đuổi họ đi. Có lần để cứu thanh danh của một trong những đứa con mình, ngài đại tá đã phải cầm cố căn nhà ở Cataca và thế là mất thêm một món tài sản để đổi lấy danh dự. Khi không còn tài sản gì đáng giá để duy trì cuộc sống gia đình, bà ngoại Mina chỉ còn cách dựa vào nghề làm bánh mì, bánh ngọt, bán những con thú bằng kẹo bột ở tất cả các thị tứ, bán những con gà mái lông nhiều màu, giỏ trứng vịt hay mớ rau củ trồng ở vườn sau. Bà cắt giảm triệt để các loại dịch vụ chỉ để lại những gì thiết yếu nhất cho nhu cầu sử dụng của gia đình. Tiền mặt không còn được nhắc đến trong truyền thống ngôn từ ở nhà nữa. Ví như khi cần mua một chiếc đàn dương cầm cho mẹ tôi sau khi học ở trường về, bà bác Pa tính toán chính xác theo đơn vị tiền tệ của gia đình: “Một chiếc đàn dương cầm giá năm trăm quả trứng”.
Trong đội quân phụ nữ thánh thiện đó, ông ngoại trở thành chỗ dựa an toàn cho tôi. Chỉ có ở bên ông, tôi mới cảm thấy hết lo lắng, mới thấy chân mình còn đứng vững trên mặt đất và an tâm trong cuộc đời thực. Bây giờ nghĩ lại, tôi vẫn thấy lạ rằng, khi đó dù rất muốn giống ông ngoại, một người thực tiễn, dũng cảm, chắc chắn, nhưng không bao giờ tôi thắng nổi sự cám dỗ được tham gia vào thế giới của bà ngoại. Tôi vẫn nhớ về ông ngoại như một người thâm thấp, to béo, da đỏ au, tóc đen nhánh điểm vài sợi bạc, ria mép đậm được tỉa tót kỹ lưỡng và luôn đeo kính tròn gọng vàng. Trong thời bình, ông nói năng từ tốn, cẩn trọng và hòa nhã, nhưng những người bạn theo trường phái Bảo thủ của ông thì lại coi ông là một kẻ thù rất đáng sợ trong các cuộc đối đầu thời chiến.
Ông không bao giờ mặc quân phục vì các cấp quân hàm lần lượt giành được đều qua hoạt động cách mạng chứ không phải qua con đường kinh viện. Tuy vậy, nhiều năm sau khi chiến tranh kết thúc, ông vẫn mặc bộ liquilique (áo ngắn có túi), là trang phục của những cựu chiến binh vùng ven biển Caribe. Ngay khi luật về chi trả trợ cấp cho cựu chiến binh được ban hành, ông đã điền đầy đủ các chi tiết vào mẫu yêu cầu được hưởng phần trợ cấp của mình, của vợ và những người thừa kế gần gũi nhất, rồi chờ đợi mãi cho đến tận ngày nhắm mắt. Bà ngoại Tranquilina qua đời ở rất xa ngôi nhà cũ của ông bà, trong cảnh mù loà, già yếu và hơi lẩn thẩn, nhưng trong những giây phút tỉnh táo cuối cùng trước khi nhắm mắt đã nói với tôi: “Bà rất an lòng trước khi về với tổ tiên vì biết rằng các cháu sẽ được nhận trợ cấp của Nicolasito” (tên gọi thân mật của ông ngoại Nicolas - ND).
Đó là lần đầu tiên tôi được nghe lời nói huyền thoại đã gieo vào lòng mọi người trong gia đình mầm mống của ảo tưởng vĩnh hằng: trợ cấp hưu trí. Nỗi mong mỏi, khao khát này đã vào nhà trước khi tôi ra đời, ấy là lúc chính phủ ban hành chế độ trợ cấp cho các cựu chiến binh tham gia cuộc chiến tranh Một ngàn ngày. Ông ngoại trực tiếp điền vào các biểu mẫu, kèm theo lời xác nhận của rất nhiều nhân chứng và nhiều tài liệu bảo đảm khác, rồi tự mình đưa đi nộp ở Santa Marta và ký vào biên bản giao nhận hẳn hoi. Theo những tính toán không lấy gì làm phấn khởi lắm thì ông và người thân đến thế hệ thứ hai sẽ nhận được số tiền trợ cấp cũng kha khá. “Các cháu đừng lo” - bà ngoại nói với chúng tôi - “tiền trợ cấp hưu trí sẽ có đủ cho tất cả mọi người”. Thư tín vốn trước đây chẳng có gì cần thiết đối với gia đình, từ ngày đó trở đi bỗng trở thành đặc phái viên của Thần Hộ mạng.
Dù trong lòng nặng trĩu mối nghi ngờ nhưng bản thân tôi cũng không thể tránh khỏi nỗi ám ảnh về khoản trợ cấp này. Có những lúc, tâm tính của bà ngoại chẳng có gì ăn nhập với tên của mình (Tranquilina có nghĩa là bình tĩnh - ND). Hồi chiến tranh Một ngàn ngày ông ngoại bị một người anh họ của bà, sĩ quan của quân đội theo phái Bảo thủ, bắt giam ở Riohacha. Những người họ hàng theo phái Tự do và cả chính bà cũng coi đó là một lời tuyên chiến, mà để chống lại nó, quyền uy gia đình không hề có một giá trị gì. Nhưng khi nghe tin chồng mình bị cùm như một tên tù thường phạm, bà ngoại cầm roi đánh chó đến bắt ông anh họ phải trao người chồng lành lặn lại cho mình.
Thế giới của ông ngoại thì khác hẳn. Trong những năm cuối đời, ông vẫn tỏ ra nhanh nhẹn, thường ôm hòm đồ nghề đi khắp các nhà để sửa chữa các đồ vật bị hỏng hóc, chuyển nước đến các khu nhà vệ sinh khi thấy người bơm nước bằng tay ở sau vườn, hay leo cầu thang lên tận tháp nước xem nước còn bao nhiêu... Ấy vậy mà nhưng ông lại bắt tôi cúi xuống buộc dây giày vì cảm thấy mình không còn đủ sức để làm việc đó.
Vào một buổi sáng, vì mải đuổi bắt con vẹt mắt kèm nhèm vụt bay lên đậu trên tháp nước, đến khi tóm được cổ nó thì ông ngoại bị trượt tay vịn cầu thang và ngã xuống đất từ độ cao bốn mét. Không ai lý giải được vì sao ông còn sống sót với tấm thân nặng đến chín mươi cân và ở cái tuổi ngoài năm mươi. Tôi nhớ, hôm đó, thầy thuốc khám từng ly từng tý trên tấm thân trần trụi của ông và hỏi vì sao có vết sẹo cũ to nửa phân vuông ở bẹn.
- Đó là vết đạn thời chiến tranh - ông ngoại đáp.
Đến bây giờ, tôi vẫn chưa hết xúc động. Tôi cũng chưa thể quên được cái ngày ông ló đầu ra khỏi cửa sổ văn phòng để nhìn con ngựa nổi tiếng mà người ta định mang đến bán cho ông, và rồi bỗng nhiên, ông cảm thấy mắt mình nhòa lệ. Ông dùng hai tay che mắt và thấy trong lòng bàn tay có một vài giọt nước trong vắt. Không những ông bị hỏng mắt phải mà còn bị bà cấm không được mua con ngựa bị quỷ ám ấy nữa. Trong một thời gian ngắn, ông phải dùng vải che mắt phải, giống như những tên cướp biển, cho đến khi bác sĩ nhãn khoa bán cho cặp kính đúng độ cùng với một chiếc gậy, để sau đó trở thành vật bất ly thân cùng với chiếc đồng hồ quả lắc có dây bằng vàng, mỗi khi mở nắp lại làm vang lên khúc nhạc. Mọi người đều biết, dù bị năm tháng phản bội và dù bắt đầu thấy lo lắng với tuổi già đang ập đến, ông ngoại không bao giờ từ bỏ những mánh lới quyến rũ bí ẩn và cái tư cách của một tình nhân tốt.
Vào những năm cuối đời, ông ngoại luôn chọn tôi cùng thực hiện buổi tắm nghi lễ thông thường, vào lúc sáu giờ sáng hàng ngày. Chúng tôi dùng vỏ quả bí khô múc nước từ bể để tắm, rồi cuối cùng xức lên người nước hoa Agua Florida de Lanman và Kemps. Đó là một loại mỹ phẩm do những kẻ buôn lậu ở Curazao đưa đến bán tận nhà, từng thùng một, cùng với rượu brandy và áo lụa Trung Hoa. Có lần, người ta nghe ông nói là chỉ dùng duy nhất loại nước hoa này vì chỉ có ông mới cảm thấy được ai là người xức nó, nhưng rồi ông không bao giờ tin điều đó nữa, sau khi phát hiện ra một lọ dưới gối một người khác. Suốt mấy năm trời, tôi còn được nghe kể đi kể lại một chuyện khác, rằng trong một đêm mất điện, ông ngoại đã đổ lọ mực lên đầu vì tưởng đó là lọ nước hoa Agua Florida.
Khi làm việc hàng ngày trong nhà, ông ngoại thường mặc quần vải bông thô có hai dây nịt bằng thun bắt chéo trước ngực, đi giày mỏng êm và đội mũ nhung. Đi dự lễ Misa Chủ nhật, một hoạt động mà ít khi ông vắng mặt, trừ khi có lý do gì thật đặc biệt, và vào các dịp kỷ niệm hoặc các ngày lễ khác, ông đều mặc bộ veston trắng cổ cồn thắt cà vạt đen. Trong những dịp hiếm hoi này, ông nổi tiếng là người sành điệu và chơi ngông. Ngày nay, tôi có cảm tưởng rằng căn nhà, với tất cả đồ vật và con người trong đó, đúng là của riêng ông vì đó là một cuộc hôn nhân mẫu mực của chế độ trọng nam khinh nữ trong xã hội mẫu hệ, trong đó người đàn ông là vua, còn người đàn bà lại là người điều hành, quản lý, quán xuyến tất tần tật. Nói thẳng ra là ông là người đàn ông, tức là một người rất dịu dàng tinh tế trong phạm vi riêng tư, nhưng sẽ rất ngượng ngùng nếu biểu hiện tính cách đó trước đám đông, trước công chúng, còn vợ ông phải cố hết sức để làm cho ông được hạnh phúc.
Tháng Mười hai năm 1930, trong những ngày kỷ niệm một trăm năm ngày mất của Simon Bolivar (Người Venezuela, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống Tây Ban Nha giành độc lập cho các nước Mỹ La tinh - ND), ông bà ngoại cùng đi Barranquilla để chào đón sự ra đời của em gái tôi Aida Rosa, thành viên thứ tư của gia đình. Khi trở về Cataca, ông bà mang theo em Margot, mới hơn một tuổi còn bố mẹ tôi tiếp tục nuôi dưỡng em trai Luis Enrique và em gái mới sinh. Tôi rất khó thích nghi với sự thay đổi này vì Margot về đây như một kẻ đến từ cuộc sống khác. Em gầy còm, quê mùa và âm thầm, không ai hiểu được thế giới của riêng em. Khi nhìn thấy em, bà Abigail - mẹ của Luis Carmelo Correa - không hiểu được tại sao ông bà ngoại lại nhận trách nhiệm nuôi nấng nó. “Đứa con gái này là đứa chết đói” , bà ta nói. Dù sao thì trước đây người ta cũng nói như vậy về tôi, vì tôi rất khảnh ăn, vì tôi hay chớp mắt, vì những điều tôi kể ai cũng cho là phóng đại và dối trá, mà không hiểu rằng phần lớn những điều đó đều đúng theo một cách khác. Mãi mấy năm sau, tôi mới biết rằng chính bác sĩ Barboza là người duy nhất bảo vệ tôi với luận điểm rất sâu sắc: “Những điều nói dối của trẻ em là dấu hiệu của một tài năng lớn”.
Cũng phải mất khá nhiều thời gian Margot mới chịu đầu hàng trước lối sống trong gia đình. Em ngồi trên ghế, mút ngón tay trong một góc ít ai ngờ nhất. Em chẳng chú ý đến bất cứ điều gì, ngoại trừ tiếng chuông đồng hồ mà cứ mỗi giờ em lại lắng tai nghe, với đôi mắt tròn xoe kinh ngạc. Cả nhà làm gì cũng không ép buộc được em ăn bất cứ miếng gì suốt mấy ngày liền. Em nhẹ nhàng từ chối các món ăn hoặc vứt vào góc nhà. Không ai hiểu nổi tại sao em không ăn mà vẫn sống được, cho đến một hôm, mọi người mới phát hiện ra là em chỉ thích ăn đất ẩm ở ngoài vườn và các lớp vôi mà em dùng móng tay cạy ra từ các bức tường. Khi phát hiện ra điều này, bà ngoại liền trộn mật bò vào những chỗ ngon nhất trong vườn và giấu ớt cay vào các chậu gốm trồng hoa. Cha xứ Angarita phải làm lễ thánh đặt tên bất thường cho em, cũng như đã làm cho tôi khi tôi mới chào đời. Khi nhận lễ thánh, tôi phải đứng trên chiếc ghế và dũng cảm chịu đựng vị mặn của những hạt muối mà cha xứ bỏ vào đầu lưỡi và một cốc nước dội xuống đầu. Nhưng Margot đã chống lại hai việc trên bằng tiếng rên khóc của con thú bị thương và tấm thân quằn quại rung lên bần bật đến mức cha và mẹ đỡ đầu phải cố lắm mới giữ em đứng im được.
Ngày nay, tôi nghĩ là em và tôi còn dễ hiểu nhau hơn là giữa cánh người lớn với nhau. Sự cảm thông giữa hai đứa kỳ lạ đến mức có lúc chúng tôi đoán được ý nghĩ của nhau. Một buổi sáng, khi em và tôi đang chơi ở ngoài vườn thì nghe tiếng còi tàu hỏa vào lúc mười một giờ như mọi ngày. Nhưng lần này, trong tiếng còi tàu, tôi như nghe thấy tín hiệu kỳ lạ cho biết người thầy thuốc của Công ty chế biến hoa quả - người mà mấy tháng trước đã cho tôi uống lá thuốc cây đại hoàng và cái mùi thuốc chết tiệt đó đã khiến tôi nôn thốc nôn tháo suốt mấy ngày - sẽ có mặt trên chuyến tàu này. Tôi vừa chạy khắp nhà, vừa gào lên báo tin dữ nhưng không ai tin. Chỉ duy nhất em Margot là tin và cùng tôi đi trốn cho đến khi ông thầy thuốc ăn cơm trưa xong trở ra ga cho kịp chuyến tàu ngược về. “Lạy Đức Mẹ Đồng Trinh - bà ngoại kêu lên khi thấy hai chúng tôi đang trốn dưới gầm giường - với những đứa trẻ này thì chả cần dùng điện tín làm gì”.
Khi ở một mình và nhất là trong bóng tối, tôi không bao giờ thắng được nỗi sợ hãi; tuy nhiên, tôi cho rằng nỗi sợ này có nguồn gốc rất cụ thể, bởi vì trong đêm tối sẽ hiện hình các bóng ma và những điềm báo trước mà bà ngoại vẫn nói. Ở tuổi bảy mươi, tôi vẫn thấy hiển hiện trong các giấc mơ của mình mùi hương nồng nàn của hoa nhài dọc hành lang và những bóng ma trong các buồng ngủ tối thăm thẳm. Thật thế nỗi kinh sợ bóng đêm luôn ám ảnh tôi suốt một thời trẻ dại. Nhiều lần trong những đêm mất ngủ khi đã đi khắp nơi trên thế giới, tôi vẫn có cái cảm giác dai dẳng mình sẽ kéo lê dây xích của căn nhà kỳ lạ đó, đi lang thang trong một thế giới hạnh phúc, nơi chúng ta cứ phải chết hàng đêm.
Điều kỳ lạ nhất là bà vẫn duy trì được nề nếp trong nhà với ý nghĩa phi hiện thực. Làm sao có thể giữ được nhịp sống với vốn liếng ít ỏi như vậy? Không đủ để trang trải các chi phí trong cuộc sống. Ngài đại tá đã học được nghề kim hoàn truyền lại từ đời ông cha mình. Mặc dù những con cá nhỏ bằng vàng bạc khá nổi tiếng và được bày khắp nơi, nhưng đó không phải là món hàng kinh doanh có lời. Thuở nhỏ, tôi đã có cảm tưởng là thỉnh thoảng ông ngoại mới làm ra chúng và cũng chỉ để tặng cho các đám cưới. Bà ngoại nói ông chỉ làm để tặng mà thôi. Tuy vậy, ông lại có tiếng là một viên chức mẫn cán. Khi đảng Tự do lên cầm quyền, ông ngoại được nhận vào làm trong Sở Tài chính nhiều năm và có vài lần được giữ chức quản lý điền trại.
Tôi không thể hình dung nổi là liệu còn có một môi trường gia đình nào thích hợp hơn cho năng khiếu văn chương của tôi so với môi trường điên rồ ấy không, nhất là cộng thêm cá tính của những phụ nữ đã nuôi dưỡng tôi nữa. Trong nhà, phái mạnh duy nhất chỉ là ông ngoại và tôi. Ông lại là người đầu tiên dẫn dắt tôi vào cái thực tế đáng buồn của người lớn với những câu chuyện đánh đấu đẫm máu, những lời giải thích theo kiểu giáo án giảng dạy trong trường học về sự bay nhảy của loài chim, tiếng sấm buổi chiều tà và rốt cuộc, ông khuyến khích tôi vào những đam mê hội họa. Lúc đầu tôi vẽ trên tường cho đến lúc cánh phụ nữ kêu ầm lên rằng tường nhà và tường rào là những trang giấy của lũ bỉ ổi! Ông tôi nổi giận lôi đình, gọi thợ đến sơn trắng các bức tường trong xưởng kim hoàn, rồi mua cho tôi bút chì màu, sau đó là hộp sơn dầu để tôi tha hồ mà vẽ lên đó, trong lúc ông cặm cụi làm các con thú nhỏ bằng vàng nổi tiếng của mình. Có đôi lần, khi nghe ai đó nói rằng, cháu ngoại ông sẽ thành họa sĩ, tôi lại tỏ ra hoàn toàn dửng dưng vì tin rằng họa sĩ chẳng qua chỉ là mấy anh thợ sơn cửa ra vào.
Những người quen tôi từ lúc lên bốn nói rằng tôi là một đứa trẻ xanh xao vàng vọt, trầm ngâm tư lự, chỉ nói rặt những điều ngớ ngẩn. Kì thực những chuyện tôi kể phần lớn lại chính là chuyện đời thường hàng ngày có thêm vài chi tiết huyễn hoặc chỉ để người lớn chú ý đến tôi mà thôi. Nguồn cảm hứng dồi dào nhất của tôi chính là những cuộc đàm thoại của người lớn diễn ra ngay trước mặt tôi, bởi người lớn ấy mà, ai cũng nghĩ là trẻ con thì chẳng hiểu cái gì hết, hoặc giả họ cố nói bóng nói gió để tôi không hiểu. Nhưng ngược lại, tôi đã tiếp thu nó dễ dàng như nuốt bọt biển, sau đó tháo tung nó ra từng mảnh, rồi sắp xếp lại, khéo léo che giấu nguồn gốc câu chuyện đi. Khi tôi kể lại cho chính những người đó nghe, ai nấỵ đều kinh ngạc khi thấy có nhiều điều trùng hợp giữa chuyện tôi kể với những suy nghĩ của họ.
Thỉnh thoảng trước việc này việc nọ, tôi lúng túng không biết xử lý thế nào với lương tâm