PHỎNG VẤN MÁRQUEZ
Bạn đọc hỏi: Ai cũng biết các tác phẩm văn học của ông đầy chất báo chí. Bản thân ông cũng đã từng khẳng định như vậy. Vì vậy, tôi đoán rằng đó chính là lý do tại sao từ một chuyện có thật ông đã cho ra đời cuốn tiểu thuyết “Nhật ký người chìm tàu” , từ một ký sự báo chí ông viết cuốn “Ký sự về một cái chết đã được báo trước” , và với một mẩu tin ông cho xuất bản cuốn “Tin tức về một cuộc bắt cóc” . Và cứ theo đà này, chúng tôi có thể chờ đợi một cuốn tiểu thuyết từ một cuộc phỏng vấn được không? Và phỏng vấn ai đây?
Márquez trả lời: Nói tóm lại, câu hỏi cụ thể của bạn là liệu bạn đọc có thể chờ tôi cho xuất bản một cuốn sách từ cuộc phỏng vấn nào đó - như tôi đã làm với một thiên ký sự, một câu chuyện, một mẩu tin?... Câu trả lời cụ thể của tôi là không thể có được.
Tuy vậy, tinh thần câu hỏi này gợi cho tôi những câu hỏi khác mà tôi không biết tại sao bạn đọc lại không đề cập đến. Thế thì tôi sẽ làm thay cho bạn đây. Nhưng để mọi việc tuân theo trật tự ngay từ đầu, tôi cũng xin nói thêm là mình đã viết và xuất bản chín cuốn tiểu thuyết, ba mươi tám truyện ngắn, hơn hai ngàn bài báo và vô vàn phóng sự, ký sự và kịch bản điện ảnh. Tất cả các tác phẩm đó tôi đã phải cắm cúi viết bằng những đầu ngón tay cần mẫn của mình hết ngày này qua ngày khác, qua hơn sáu mươi năm cô đơn và chỉ với một niềm đam mê thật trong sáng, giản dị và vô tư là được kể lại mọi chuyện theo cách của tôi.
Nói tóm lại, ước vọng và khả năng của tôi chỉ là của một người thuần túy ham thích kể chuyện. Và tôi, cũng giống như những tác giả của nhiều chuyện kể dân gian sẽ cảm thấy thật buồn nếu không được kể một câu chuyện gì đó hàng ngày. Chuyện thật hay chuyện bịa, điều đó không có gì quan trọng. Tuy vậy, càng viết tôi càng thấy khó phân biệt rạch ròi các thể loại báo chí.
Tôi đã nhớ và thống kê ra các tác phẩm của mình - và tất nhiên không thể kể hết các tác phẩm báo chí vì quá nhiều - và tôi cũng cố tình không nhắc đến các bài phỏng vấn như là một thể loại báo chí, vì tôi thường xếp chúng riêng, tựa như các lọ hoa của các bà tuy là vật quý giá và sang trọng bậc nhất ở trong nhà nhưng thường lại không biết để nó ở đâu cho phù hợp.
Một điều khác mà tôi rất quan tâm lo lắng là phỏng vấn vốn là một công việc rất dễ gây tai tiếng, nó giống như tính cách của một người đàn bà dễ dãi vậy. Ai cũng nghĩ mình có thể làm được một cuộc phỏng vấn, và thế là thể loại này trở thành một lò sát sinh công khai, nơi người ta có thể phù phép biến những người mới vào nghề non nớt với bốn năm câu hỏi chuẩn bị sẵn cùng một máy ghi âm trở thành nhà báo. Còn người được phỏng vấn thì lợi dụng cơ hội để nói bất cứ những gì mình muốn và - điều tệ hại nhất là mọi trách nhiệm của việc này lại thuộc về các nhà báo - những người đi phỏng vấn. Nhà báo phải khôn ngoan lắm mới biết được khi nào người đối thoại với mình nói đúng sự thật.
Trò chơi mèo vờn chuột này bước đầu đã được tôn vinh bằng các cuộc phỏng vấn trực tiếp, nơi người ta có thể nói văng mạng và cũng là nơi để thử sức những ai mới chập chững bước vào nghề - những kẻ chưa đỗ ông nghè đã muốn đe hàng tổng. Họ không biết sợ bất cứ cái gì và sẵn sàng lao vào cuộc chiến bằng những chiếc máy ghi âm và những câu hỏi ngớ ngẩn.
Câu hỏi đầu tiên khi tôi bước vào nghề văn chương này là: mình ưa thích thể loại nào nhất. Và cuối cùng tôi đã chọn phóng sự mà theo tôi là thể loại báo chí tự nhiên và hữu ích nhất. Nó không chỉ gần đời sống mà còn thực hơn cả đời sống nữa. Nó cũng có thể giống như một truyện ngắn hoặc một cuốn tiểu thuyết với một khác biệt duy nhất - và cũng là thiêng liêng mà những người làm báo chân chính không thể vi phạm - đó là truyện ngắn và tiểu thuyết chấp nhận mọi sự hư cấu, còn phóng sự phải trung thành với sự thực đến dấu chấm cuối cùng, dù không ai biết và tin vào điều đó.
Nếu nhìn vẻ ngoài thì người ta khó phân biệt được sự khác nhau giữa phóng sự, ký sự, truyện ngắn và tiểu thuyết. Bạn hãy thử tra cứu các cuốn tự điển để thấy rằng không hề dễ dàng gì khi phân biệt chúng. Tuy nhiên, có một vấn đề chung về phương pháp: tất cả các thể loại trên đều có cùng một nguồn cung cấp nguyên liệu cho mình - đó là các tài liệu nghiên cứu, điều tra, các chứng cứ, hồi ức, lời kể được ghi lại trong những cuốn sách và tư liệu, qua các cuộc thẩm vấn, thăm dò dư luận và trên hết là qua sức sáng tạo của người cầm bút. Nhất là những cuộc phỏng vấn được làm ra không phải để in trên các phương tiện thông tin thông thường mà để làm vườn ươm cho sáng tác và cho cuộc sống của những người xung quanh. Nói thế để thấy rằng phỏng vấn là một thể loại bậc thầy vì nó chính là nguồn nuôi sống các thể loại khác.
Điều đó cũng chứng tỏ rằng mọi định nghĩa về các thể loại báo chí đều chỉ là tương đối và có khi còn lộn xộn, tuy vậy mục tiêu hàng đầu của các thể loại báo chí là làm cho độc giả hiểu cặn kẽ những gì đang xảy ra trong thực tế. Nhưng nhiệm vụ của những người cầm bút là làm sao cho tất cả mọi người tin vào sự thực đó.
Tôi xin điểm lại những cuốn tiểu thuyết mà bạn đọc đã hỏi ở trên, tối thiểu cũng là để làm sáng tỏ một vài hiểu nhầm về từ ngữ hoặc kỹ thuật. Điều đầu tiên tôi muốn nói là cuốn Ký sự về một cái chết đã được báo trước thực ra phải là một phóng sự thì phù hợp hơn. Đó là sự tái hiện lại một cách thảm khốc vụ giết hại người bạn thời niên thiếu của tôi ngay trước đám đông do chính hai người anh của cô bạn gái cũ thực hiện, vì trong đêm tân hôn, người chồng của người yêu cũ của bạn tôi đã phát hiện vợ mình không còn trong trắng và ngay sau đó đã trả cô về nhà bố mẹ đẻ. Cô gái tố cáo bạn cũ của tôi là kẻ đã gây nên sự nhục nhã cho mình và thế là hai người anh của cô ta đã dùng dao đâm chết bạn tôi giữa ban ngày ban mặt ngay trước quảng trường thành phố. Tôi đã phải chờ đợi ròng rã suốt ba mươi năm để có thể dựng lại tấn thảm kịch này, dù tôi không phải là người chứng kiến trực tiếp vì mẹ tôi hết sức ngăn cản và năn nỉ tôi đừng làm việc này để khỏi ảnh hưởng đến mối quan hệ với cả hai gia đình thù nghịch nhau đó. Khi mẹ tôi cho phép thì đề tài này đã hằn sâu vào trí nhớ của tôi đến mức tôi có thể viết ra ngay mà không cần phải hồi tưởng và cũng không cần phải hỏi bất cứ ai trong số vô vàn những nhân chứng của vụ việc. Tác phẩm này thực chất không phải là một ký sự, như tên cố tình đặt sai của nó. Đó là một câu chuyện đã xảy ra trong quá khứ nhưng vẫn còn khêu gợi sự tò mò của công chúng và dù địa điểm, tên gọi nhân vật đều phải thay đổi nhưng nó hoàn toàn trung thành với hoàn cảnh và sự việc thực. Như vậy, về hình thức nó không phải là một thiên phóng sự nhưng về nội dung nó đúng với bản chất của thể loại này.
Còn cuốn Tin tức về một vụ bắt cóc đúng là tác phẩm đã dựng lại toàn bộ sự việc gây chấn động ở Colombia trong suốt hai trăm sáu mươi hai ngày về các vụ bắt cóc liên tục mười nhân vật quan trọng với mục đích ngăn không cho Quốc hội nước này thông qua dự luật dẫn độ người Colombia sang Mỹ.
Phân loại theo cấu trúc thì tác phẩm này đúng là một thiên phóng sự vì tất cả tư liệu, sự kiện đều đúng sự thật và đã được kiểm chứng. Ngay tên của cuốn sách cũng phù hợp vì nó miêu tả lại một sự việc phức tạp từ nguồn gốc ban đầu cho đến hậu quả cuối cùng.
Nhật ký người chìm tàu thì gần với thể ký sự hơn vì đó là bản ghi chép lại lời kể trực tiếp ở ngôi thứ nhất của người duy nhất đã sống sót trong tai nạn đắm tàu đó. Trên thực tế đó là một cuộc phỏng vấn dài, tỉ mỉ và đầy đủ chi tiết mà tôi đã tiến hành không phải với ý định sẽ công bố theo dạng hỏi đáp thô thiển mà sẽ được xào nấu lại theo thể loại phóng sự.
Tôi không phải cố công gì nhiều, chẳng qua tôi là kẻ như được đi cạnh luống hoa tươi và có toàn quyền được ngắt những bông đẹp nhất. Tôi cần nói rõ điều đó để tôn vinh trí thông minh, lòng quả cảm và sức chịu đựng phi thường của nhân vật chính, chính là người bị đắm tàu đáng yêu nhất đất nước tôi.
Chúng tôi đã không dùng máy ghi âm, vì thuở đó nó to và nặng như một chiếc máy khâu và băng thì luôn hỏng vì bị rối. Ngày nay, chúng ta đều biết những máy móc này rất có lợi có thể hỗ trợ nhiều cho trí nhớ, nhưng chúng ta đừng bao giờ coi thường sức biểu đạt của vẻ mặt của người mà ta phỏng vấn vì nhiều khi nó nói lên được rất nhiều điều hơn chính giọng nói của người đó nữa, và cũng có khi thì ngược lại. Thời đó, tôi phải ghi chép vào quyển vở học trò và chính việc đó đã buộc tôi không được bỏ sót bất kỳ một từ nào cũng như mọi khía cạnh khác của cuộc phỏng vấn và tìm mọi cách để càng đi sâu vào vấn đề càng tốt.
Nhờ tính tỉ mỉ đó mà tôi đã phát hiện được nguyên nhân của tấn thảm họa mà cho đến lúc đó không thấy ai đề cập đến: đó là việc chở quá tải các dụng cụ điện gia dụng ở trên boong tàu chiến. Phải chăng cuộc phỏng vấn tỉ mỉ suốt hơn hai mươi giờ đồng hồ này đã tìm ra được sự thật? Như vậy, ngay trong câu chuyện được kể lại ngắt quãng hết ngày này đến ngày khác, tôi đã phải biết rõ sự thật hơn độc giả thì mới viết nên cuốn truyện hấp dẫn đến vậy.
Tóm lại, tôi tin rằng nghề viết báo cần có không chỉ một cách viết mới, một phong cách sư phạm mới mà cả đạo đức nghề nghiệp mới, và phải được nhìn nhận - dù chưa được chính thức công nhận - ngang tầm với các thể loại văn học có tuổi thọ lâu nhất như thơ ca, sân khấu... Để xem, với sự công nhận công minh như vậy, những nhà báo Colombia chúng tôi có làm gì nên chuyện với thiên phóng sự dài vô tận mà người ta đang chờ đợi ở chúng tôi: phản ánh được quá trình biến đất nước Colombia mộng mơ của các nhà thơ thành một quốc gia “nguy hiểm nhất” trên thế giới.
Khi một nhân vật bỗng biến mất...
Bạn đọc hỏi: “Vì lý do gì mà nhà văn cho nhân vật Jeremiah de Saint-Amour, một trong những nhân vật ấn tượng nhất của tác phẩm Tình yêu thời thổ tả biến mất khỏi các trang sách vào đúng lúc gần như chắc chắn nhân vật này sẽ trở thành một trục quan trọng của tác phẩm, gây hụt hẫng không những cho tôi mà còn cho nhiều độc giả khác? Nhà văn bị hụt hơi rồi chăng? Hay ông sợ nó trở nên quá nổi bật để rồi làm lu mờ các nhân vật chính?”...
Đây là một câu hỏi mà độc giả thường đặt ra cho tôi về cuốn tiểu thuyết Tình yêu thời thổ tả. Vì sao nhân vật Jeremiah de Saint-Amour sớm biến mất? Và mỗi khi đụng đến vấn đề đó, tôi thường trả lời rất nhanh và cũng rất thích thú khi bịa ra từng câu trả lời mới. Lần này chắc tôi phải nỗ lực hết sức mình để đưa ra câu trả lời đúng nhất.
Trong số những nhân vật trong các tiểu thuyết của tôi, không có nhân vật nào giống với nguyên mẫu đời thường như Jeremiah de Saint-Amour. Ít nhất thì tôi cũng đã phải hết sức cố gắng vận dụng hết trí nhớ và cảm xúc để nhân vật này càng giống với người thực nhất mà tôi đã quen biết. Nhưng quý độc giả cũng quá biết trí nhớ trẻ con nguy hiểm đến mức độ nào khi chúng muốn nhớ lại chuyện cũ. Tôi không bao giờ biết được tên thật của ông ta và cũng không nhớ là có ai biết hay không. Người ta thường gọi ông là ngài Emilio hoặc ngắn gọn là “Người Bỉ”. Ông ta xuất hiện ở xứ Aracataca sau cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và tôi không nghi ngờ gì về việc ông ta là người Bỉ cả vì tôi vẫn nhớ giọng nói lơ lớ và nỗi buồn khôn tả lộ trên khuôn mặt của ông mỗi khi nhắc đến các chuyến đi biển. Cùng sống với ông còn có một người Đan Mạch to lớn, bị điếc có tên trùng với tên một vị Tổng thống Mỹ, Woodrow Wilson.
Lên bốn tuổi, tôi được ông nội đưa đến xưởng của ông ta để cùng chơi những ván cờ kéo dài bất tận. Hình như lúc đó ông ta đã bảy mươi tuổi rồi. Ngay từ đêm đầu tiên tôi đã vô cùng kinh ngạc vì trong phòng ở của ông ta không có vật dụng gì đáng giá. Đó là một nghệ sĩ chỉ biết sống với các tác phẩm của mình: tranh sơn dầu vẽ cảnh biển, những tấm ảnh chụp những đứa trẻ trong lễ sinh nhật, lễ thôi nôi, hay các mẫu đồ trang sức châu Á, các tượng làm bằng sừng bò và một đống bàn ghế cũ kỹ để chồng chất lên nhau.
Ông nội tôi giới thiệu ông rất đơn giản như giới thiệu bất cứ đứa trẻ hay người lớn nào. Ông chào tôi bằng một cái bắt tay cứng như gọng kìm và sau đó không bao giờ ông ấy còn nhìn thấy tôi lần thứ hai nữa trong đời. Tôi chú ý ngay đến thân hình da bọc xương và màu vàng óng của mái tóc có một nắm xõa xuống tận mặt và giọng nói hết sức khó nhọc của ông ta. Ông luôn ngậm một chiếc tẩu thuốc rất to mà sau này ông tôi nói đó là một chiếc bẫy để hun khói địch thủ trong các cuộc đấu cờ. Ông ấy có một mắt giả bằng thủy tinh thường hay hướng về phía người đối thoại hơn là chiếc mắt lành lặn. Ông bị liệt từ hông trở xuống, người hơi nghiêng ra phía trước và lệch về bên trái. Người ông như treo trên đôi nạng gỗ thế mà đi lại trong xưởng dễ dàng như cá bơi trong nước. Không bao giờ tôi nghe thấy ông nói chuyện về các chuyến đi biển mà chắc là phải hết sức vất vả và dũng cảm. Niềm đam mê duy nhất bên ngoài nhà ở của ông mà tôi biết chính là xem phim. Ông không bỏ buổi chiếu phim bất cứ loại nào vào thứ Bảy và Chủ nhật.
Tôi không biết ông đến Aracataca vào lúc nào, nhưng người ta thường lấy mốc là Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và đó cũng là nguồn cơn nỗi bất hạnh của ông. Nhưng tôi cũng không thể tưởng tượng được trận chiến cỡ nào mà đã tàn phá thân thể ông đến mức đó, có lẽ phải là một chiếc tàu hỏa đè lên cũng nên. Tôi đã không muốn biết điều đó nhất là trong những ván đấu cờ giữa ông nội và ông ta trong khi hai người suy tính hàng tiếng đồng hồ mới đi một nước còn tôi thì ngủ vạ vật trong góc phòng. Một tối nọ, tôi thấy mặt ông ta nhợt nhạt hẳn đi và tôi như linh cảm thấy cái chết đang cận kề bên ông và tôi vô cùng thương cảm. Nhưng ông vẫn điềm tĩnh phung phí thời gian để nghĩ một nước cờ đến nỗi tôi chỉ còn biết mong ông chết ngay tức thì.
Nhưng ông đã dũng cảm vượt qua ước vọng của tôi bằng một lọ nước thuốc của một tay lang vườn mà ông ta uống cùng chú chó sau khi xem xong Không có gì mới ở ngoài mặt trận, bộ phim của Louis Milestone dựa theo tiểu thuyết của Erich Maria Remarque. Người ta đã đồn rằng ông người Bỉ đã vượt qua cái chết trong trận đơn vị ông bị đánh tan tác ở khu đầm lầy xứ Normandie. Tôi không thể quên được cái ngày kỳ lạ đó khi ông nội đánh thức tôi dậy thay cho một lời trách mắng như mọi ngày bằng câu nói sau: “Ngài Emilio đáng thương không bao giờ chơi cờ được nữa rồi” . Dù ông tôi không có cách nào tốt hơn để thông báo một sự thật, nhưng thông tin này đã làm tôi nhẹ cả người.
Vậy thì, tại sao ngay từ đầu lại có một nhân vật rất lạc loài trong một cuốn tiểu thuyết về tình yêu hoàn toàn xa lạ với nhân vật ấy và được đưa vào sách sau khi đã chết lại được số đông bạn đọc nhớ mãi thậm chí có nhiều người còn muốn tiếp tục yêu thích nó hoặc yêu nó đến phát ghét?
Thật đơn giản, tôi luôn luôn tin rằng một cuốn tiểu thuyết phải thu hút được độc giả ngay từ những dòng đầu tiên, như Franz Kafka đã đạt được bằng dòng chữ rùng rợn này: “Buổi sáng hôm đó, sau một giấc mơ yên bình, Gregorio Samsa tỉnh dậy và biến thành một con bọ quái đản” . Vấn đề của tôi lúc đó là mối tình giữa Florentino Ariza và Fermina Danza - những nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết - phải là vĩnh hằng và vững như bàn thạch nhưng có nguy cơ là một số độc giả quá mong muốn cho mối tình này sẽ sốt ruột chịu không được khi đọc suốt một chục trang sách mà chưa thấy ai yêu ai cả. Mục đích thực sự của tôi là muốn viết về mối tình đầy trắc trở của bố mẹ tôi nhưng tôi cần phải có một sợi chỉ vô hình của một nhân vật nào đó dẫn dắt độc giả từ từ đi đến mục tiêu này.
Giải pháp mà tôi thấy cần lúc đó là tạo ra một tính cách mạnh mẽ và độc đáo để cuốn hút độc giả ngay từ những dòng đầu tiên và kéo dài sự hấp dẫn đó cho đến khi mối tình giữa hai nhân vật chính đủ độ chín. Nhưng chỉ đến giới hạn đó mà thôi, bởi vì các nhà thông thái nói rằng: tăng thêm sức mạnh cho một nhân vật có thể trở thành cách tốt nhất để giết nó đấy.
Đấy là lý do vì sao tôi đã phải tạm thời cầu cứu đến Jeremiah de Saint-Amour, trói buộc ông vào khung cảnh của xứ Aracata và không hề thay đổi hay thêm một tí ti nào vào trí nhớ của tôi về ông. Ngay cái tên nhân vật này cũng từ trên trời rơi xuống tay tôi vào đúng lúc tôi đang nhâm nhi những chai rượu vang đầy huyền bí đầu tiên được mang tên Saint-Amour, trong quán rượu Saint Germain des Pres ở thành phố Paris, cùng với một người bạn có tên là Jeremiah. Vì vậy, công lao duy nhất của tôi là thêm vào một chút trí tưởng tượng hơi phiêu lưu của mình và một ít ảo tưởng đã từng chôn chặt trong trái tim của bạn đọc, cũng như trong trái tim của tôi trong suốt bảy mươi năm trước đó. Ngoài ra, không còn chi tiết nào thêm cho câu trả lời này nữa.
Ngược lại, một trong những điểm yếu không phương cứu chữa của cuốn sách chính là người tình giấu mặt của Saint-Amour, một cô gái da đen mập mạp và nhút nhát đến mức không có cả tên riêng và chỉ xuất hiện vẻn vẹn trong năm trang ở chương đầu tiên. Trong một giây phút dở hơi, tôi cảm thấy sự có mặt của cô ta là cần thiết, không chỉ trong cuộc đời của Saint-Amour mà còn để dẫn dắt độc giả đến mối tình thực sự của cuốn tiểu thuyết sau khá nhiều mối tình giả. Và cuối cùng, thì tác dụng của cô nhân vật này là để kể lại đêm cuối cùng của người tình.
Ngoài ra, còn có đến nửa tá phụ nữ khác có cuộc sống ngắn ngủi được tác giả tạo ra chỉ như lớp đệm dành để giải trí cho nhân vật chính là Florentino Ariza mà thôi. Như trường hợp America Vicuna, cô thanh nữ xinh đẹp đã bỏ trốn với một nắm thuốc phiện ở cuối cuốn tiểu thuyết bởi chẳng qua lúc đó người ta không còn biết phải làm gì với nhân vật này nữa. Ngược lại, cô gái da nâu Leona Cassiani, nhân tình thực sự của Florentino Ariza, đã bằng sự phục vụ tận tâm của mình đã leo lên đến nấc thang cao nhất trong công ty mà cũng chẳng cần phải ban ơn cho ông ta một nụ hôn nào. Cô gái da nâu đó sẵn sàng ngủ với bất cứ người đàn ông nào trừ Florentino ra và sau hai mươi năm vờn nhau, đến phút cuối cùng đã đạt được cực khoái rồi từ chối thẳng thừng người đàn ông tội nghiệp ở ngay mép giường. Không ai hỏi tôi xem có phải tôi tạo ra Leona Cassiani như là một nhân vật dự bị để một lúc nào đó phế truất Fermina Daza khỏi cuộc đời của Florentino Ariza hay không?
Dù sao đi nữa thì tôi cũng tin rằng mấy thắc mắc này chỉ là để mua vui trong giây lát rỗi rãi mà thôi, vì có quá nhiều yếu tố chủ quan trong những cuộc tranh luận bất tận về công việc lắp ghép cốt truyện chứ không phải trên lĩnh vực sáng tạo thơ mộng. Tôi hiểu điều này, vì tôi cũng là một độc giả mê say và tò mò, và chính tôi cũng không sao kìm được những cơn điên dại của mình khi - vào giữa đêm và cô đơn không có ai để hỏi - phát hiện ra rằng tác giả cuốn sách mà tôi đang đọc đã trắng trợn móc túi mình. Nhưng tôi cũng lại là một nhà văn nên đến đây tôi cũng bắt đầu phải tự hỏi - trong khi viết những dòng này - là liệu Jeremiah de Saint-Amour đã ra đi có quá sớm hay không?
GABRIEL GARCÍA MÁRQUEZ
Niềm đam mê sống và viết
- G.G. Marquez sinh ngày 6 tháng 3 năm 1927 tại Aracataca - một thị trấn bên bờ biển Caribê thuộc Colombia.
- Là con cả trong một gia đình có 11 anh em.
- Năm 1936, sau một thời gian ngắn sống với bố mẹ ở Sucre - nơi ông bố Gabriel Eligio có một hiệu thuốc, Marquez được bố mẹ gửi đi học phổ thông ở Barranquilla và Zipaquirá.
- Năm 1947, Garcia Marquez sinh sống ở Bogota, thủ đô của Colombia và bắt đầu theo học khoa luật trường đại học.
- Tham gia viết báo, đầu tiên cho tờ El Espectador và viết những tác phẩm văn học đầu tiên gồm mười truyện ngắn nổi tiếng. Tham gia cùng với phần đông sinh viên thủ đô biểu tình phản đối chống lại vụ sát hại Jorge Eliecer Gaitan, một chính khách tiến bộ, ứng cử viên tổng thống vào năm 1948.
- Sau khi đã học được năm học kỳ ở khoa luật, Márquez đã quyết định bỏ học. Ông chuyển về sống ở Barranquilla và thực sự bước vào nghề báo và bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên La hojarasca (Bão lá úa).
- Cũng ở đây, Márquez tham gia vào “Nhóm Barranquilla” gồm các nhà báo có tầm hiểu biết sâu sắc về nghề nghiệp và nổi tiếng cả nước và thông qua những người bạn này, ông bắt đầu tiếp cận với các tác giả mà sau này trở thành hình mẫu văn học của ông: Kafka, Joyce và đặc biệt Faulkner, Virginia Woolf và Hemingway.
- Cũng ở Barranquilla, Márquez đã quen biết Mercedes Barcha, người sau này trở thành bạn đời của ông, người mà ông hết lời ca ngợi: “Tôi có thể viết lách được là nhờ Mercedes gánh vác cả thế giới trên lưng mình”.
- Năm 1954, người bạn lớn Mutis đã thuyết phục được Márquez trở lại Bogota. Sự hài hòa giữa văn học và báo chí được thể hiện rõ ràng trong các tác phẩm Nhật ký người chìm tàu (1970), Cái chết được báo trước (1981) và Tin tức về một cuộc bắt cóc (1996). Và từ đó, Garcia Márquez không bao giờ rời bỏ công việc làm báo.
- Năm 1955, lần đầu tiên Márquez đi châu Âu, lúc đầu là đặc phái viên của tờ báo El Espectador ở Thụy Sỹ, tham gia lớp học tại Trung tâm thực nghiệm điện ảnh ở Italia sau đó sang Paris, ở đây ông nhận được tin tờ El Espectador đã bị đình bản và cũng nhận được vé máy bay về nước, nhưng lúc này ông đã quyết tâm sống chết với nghề viết văn nên quyết định ở lại châu Âu, sống trong điều kiện vật chất vô cùng khó khăn, “lo ăn từng bữa” và “ hàng ngày làm việc quần quật từ chập tối đến khi trời sáng”. Ông hoàn thành tiểu thuyết Giờ xấu (1962) đồng thời tách một vài sự kiện từ cuốn này ra để viết một trong những cuốn tiểu thuyết hay nhất Ngài Đại tá chờ thư (1961).
- Cùng với người bạn thân Plinio Apuleyo Mendoza, Marquez đi thăm một loạt các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu (CHDC Đức, Ba Lan, Tiệp Khắc, Liên Xô…) và viết những thiên phóng sự rất khách quan về các nước này.
- Năm 1958, sau hai tháng ở Luân Đôn, Márquez quyết định trở về châu Mỹ bởi vì ông tự cảm thấy “những điều huyền thoại đang bị nguội lạnh dần” trong tâm trí ông. Đầu tiên ông ở Caracas, thủ đô của Venezuela, cùng làm việc với Plinio Apuleyo Mendoza tại báo Momentos. Chính ở đây ông đã chứng kiến cuộc đảo chính chống lại tên độc tài Perez Jimenez; gợi cho ông những ý tưởng viết về các chế độ chuyên chế, độc tài ở Mỹ La Tinh. Dự án này kéo dài trong mười bảy năm mới được thể hiện trong cuốn tiểu thuyết thứ năm của ông Mùa thu của trưởng lão (1975).
- Trong chuyến về thăm chớp nhoáng thành phố đầy ắp kỷ niệm thời thơ ấu và thanh niên Barranquilla, Márquez đã làm lễ thành hôn với người con gái vẫn đợi chờ ông suốt thời gian qua là Mercedes Barcha, và nhanh chóng có hai con trai Rodrigo (1959) và Gonzalo (1960).
- Mặc dù ở Caracas công việc báo chí rất bận rộn nhưng Marquez vẫn dành những ngày Chủ nhật để hoàn thành tập truyện ngắn Đám tang của Mẹ Vĩ đại (1962).
- Năm 1960 ngay sau khi Cách mạng Cuba thành công, ông sang Cuba làm phóng viên cho hãng thông tấn “Prensa Latina” của nhà nước Cuba cách mạng trong sáu tháng, bắt đầu một tình bạn vĩ đại với Chủ tịch Fidel Castro. Năm 1961, ông là phóng viên thường trú của “Prensa Latina” tại New York, và lần đầu tiên ông có lương ổn định để toàn tâm toàn ý làm báo với những quan điểm độc lập, không phụ thuộc vào các tập đoàn báo chí độc quyền tư bản, nhưng đó là một công việc căng thẳng và đầy hiểm nguy trước những hành động chống phá của các thế lực người Cuba lưu vong ở Mỹ và của Cục tình báo trung ương (CIA) Mỹ không chỉ riêng đối với bản thân mà cả gia đình ông nữa.
- Sau đó ông quyết định về cư trú ở Mexico và thử vận may trong nỗi đam mê thứ ba của mình: điện ảnh. Từ năm 1963, Márquez chuyên tâm hơn vào công việc viết kịch bản điện ảnh. Mặc dù ông nói là không hài lòng chút nào với các kịch bản của mình, nhưng ông coi kinh nghiệm đáng buồn này cũng rất có ích vì nó giúp ông hiểu rằng điện ảnh cũng có nhiều hạn chế, trái với quan niệm trước đây của mình (“Điện ảnh là một phương tiện hoàn mỹ”) và càng chứng tỏ “tiểu thuyết có khả năng vô tận”. Nếu không có niềm tin này, có lẽ Márquez đã không vượt qua nổi giai đoạn khô cằn nhất trong sự nghiệp sáng tác văn học (suốt từ năm 1961 đến 1965 ông không sáng tác được một dòng nào), hậu quả của “tâm lý thất bại” đối với các tác phẩm trước đây của mình. Márquez vượt qua thử thách này một cách kỳ lạ bằng tác phẩm quan trọng nhất của đời mình - Trăm năm cô đơn (1967). Đó là một ngày tháng Giêng năm 1965, khi đang lái xe Opel đi từ thành phố Mexico đến khu nghỉ mát Acapulco, Márquez bỗng dừng xe lại và nói với vợ, bà Mercedes Barcha : “Anh đã tìm được giọng điệu rồi! Anh sẽ kể lại câu chuyện này với gương mặt khô cứng như gỗ của bà ngoại khi kể cho anh nghe những câu chuyện kỳ lạ, bắt đầu từ cái buổi chiều nọ khi đứa bé được bố đưa đi xem nước đá”.
Márquez quyết định tự giam mình để viết cuốn tiểu thuyết về vùng Macondo và dòng họ Buendia và về cái thế giới bí ẩn của thời niên thiếu đã ám ảnh ông từ khi bắt đầu cầm bút. Ông gom được năm ngàn đô la gồm tiền tiết kiệm và tiền bạn bè giúp đỡ, đặc biệt là của Alvaro Mutis rồi đưa cho vợ lo mọi chuyện chi tiêu trong gia đình và cấm không được quấy rầy ông với bất cứ lý do gì. Sau mười tám tháng miệt mài làm việc ông đã hoàn thành Trăm năm cô đơn và bà Mecedes cũng báo cho ông biết là khoản nợ của gia đình đã lên đến mười ngàn đô la. Để có tiền gửi bản thảo cuốn tiểu thuyết này đến nhà xuất bản Nam Mỹ ở Arhentina, ông đành phải bán nốt ba thứ duy nhất còn chút giá trị ở trong nhà là: máy xay sinh tố, máy sấy tóc và lò sưởi. Trăm năm cô đơn được xuất bản vào năm 1967 và gây tiếng vang lớn, chỉ trong mấy ngày đã bán hết lượng sách in lần đầu tiên và trong ba năm bán hơn nửa triệu bản và từ đây Márquez có thể giành trọn sức lực cho nghề viết. Ngay sau thắng lợi này, ông viết tiếp một số truyện ngắn, một kịch bản phim, và từ một sự kiện tách ra từ Trăm năm cô đơn, ông phát triển thành tiểu thuyết ngắn Chuyện buồn không thể tin được của Erendira ngây thơ và người bà bất lương (1978).
- Từ năm 1974, Marquez sống luân phiên ở Mexico, Cuba, thành phố Cartagena (Colombia) và Paris. Đó là những năm khó khăn của phong trào dân chủ ở các nước Mỹ La Tinh, và Márquez hiểu rất rõ trách nhiệm xã hội của một người trí thức có uy tín lớn nên ông thường xuyên thắt chặt mối quan hệ thân hữu với các lãnh tụ và chính khách tiến bộ ở châu lục: như với Chủ tịch Fidel Castro của Cuba, tổng thống Omar Torrijos của Panama, Daniel Ortega của Nicaragoa, Hugo Sanchez của Venezuela…, và trở thành đại sứ danh dự của châu Mỹ La Tinh, đấu tranh không mệt mỏi vì nền dân chủ và nhân quyền.
- Năm 1975 tiểu thuyết Mùa thu của trưởng lão, được viết với kỹ thuật tự sự nhiều người kể đã ra đời, mà theo chính lời của Márquez “là cuốn sách mang tính thực nghiệm nhất của tôi và là cuốn làm tôi thích thú nhất như chuyến phiêu lưu thi ca. Đó cũng là cuốn làm cho tôi thấy hạnh phúc nhất”.
- Năm 1981 khi cuốn tiểu thuyết Ký sự về một cái chết đã được báo trước ra đời thì cũng là lúc Márquez bị chính phủ bảo thủ của Colombia vu cáo là bí mật cung cấp tài chính cho phong trào du kích cánh tả M-19 đang hoạt động trong vùng rừng núi và ông buộc phải lưu vong sang Mexico sống trong tình trạng thường xuyên bị đe dọa ám sát.
- Sau khi được chính phủ Pháp tặng huân chương Bắc đẩu bội tinh, năm 1982 García Márquez được Viện hàn lâm Thụy Điển trao giải Nobel văn chương. Ông dự định lấy một phần trong số tiền thưởng 175 ngàn đô la để “lập ra một tờ báo ở Colombia dành cho các nhà báo dưới ba mươi tuổi” . Nhưng “nghẹt thở vì việc viết văn”, Márquez đã chưa kịp thực hiện dự án báo chí này. Đấy là lúc con quỷ văn chương đã lại nhập vào tâm hồn Márquez một lần nữa và ông hiểu rằng không thể trốn chạy khỏi vòng tay của nó được. Ông lại mơ “thấy cuốn tiểu thuyết về một ông già tám mươi tuổi say sưa đời sống tình dục với một bà già bảy mươi” và ông nói với các bạn: “Tôi sẽ sống ở Bogota và bắt đầu làm việc. Tôi lại phải tự giam mình viết một cuốn tiểu thuyết về các ông bà già”, và đó chính là câu chuyện tình trắc trở của chính bố mẹ ông: Tình yêu thời thổ tả (1985).
- Năm 1986 ông trả món nợ cũ với nỗi đam mê thứ ba của mình: vận động thành lập Quỹ Điện ảnh mới của Mỹ La Tinh và trực tiếp thành lập Trường điện ảnh San Antonio de los Banos ở Cuba, ở đấy hàng năm Márquez vẫn sang giảng dạy một khóa ngắn về viết kịch bản cho các nhà làm phim trẻ tài năng được lựa chọn từ các nước đến.
- Năm 1989 Márquez viết Tướng quân giữa mê hồn trận, cuốn tiểu thuyết lịch sử miêu tả con đường đi đến cái chết ở tuổi 47 của Simon Bolivar, người anh hùng giải phóng các nước Mỹ La Tinh. Dù về mặt kinh tế, không còn có nhu cầu phải viết nhưng Marquez vẫn giữ kỷ luật nghiêm ngặt viết không ngưng nghỉ để “duy trì cánh tay luôn luôn nóng”. Ngoài tiểu thuyết và truyện ngắn, hàng tuần ông vẫn viết ít nhất một bài gửi cho các báo. Ông đi rất nhiều, ở đâu có điểm nóng là ông đến và viết phóng sự chính trị, khi thì ở Angola với phóng sự Chiến dịch Mambi viết về sự giúp đỡ quốc tế của Cuba đối với nhân dân nước này, khi thì ở Nicaragoa phản ánh khí thế cách mạng của dân tộc này qua thiên phóng sự Sandino muôn năm! Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta, Márquez đã sang Việt Nam vài lần để bảy tỏ sự khâm phục và tình đoàn kết với nhân dân ta và viết nhiều bài về cuộc đấu tranh anh hùng của dân tộc “biểu trưng của lương tâm nhân loại”. Ông tự thấy “không một phút giây nào tôi từ bỏ trách nhiệm của một nhà báo” nên đã cùng nhà văn người Arhentina Tomas Eloy Martinez lập nên Quỹ báo chí mới của các nước nói tiếng Tây Ban Nha; đó là một trường luôn rộng mở cho các nhà báo trẻ đến nghiên cứu nghiệp vụ chuyên môn của “nghề tuyệt vời nhất thế giới”.
- Năm 1992 Marquez viết Mười hai truyện phiêu dạt, gồm “một tuyển tập các truyện ngắn, dựa trên những sự kiện báo chí, nhưng đã được sự khéo léo của thơ ca tước bớt những nét chết chóc”. Trước khi trở thành truyện ngắn, nhiều câu chuyện trong số đó đã được viết ra với mục đích khác: năm truyện vốn là các bài phóng sự báo chí, năm truyện vốn là kịch bản phim và một truyện là kịch bản phim truyền hình.
- Năm 1994 ông cho xuất bản cuốn tiểu thuyết Tình yêu và những con quỷ khác, lấy bối cảnh là thành phố Cartagena thế kỷ XVIII và kể lại câu chuyện tình yêu không thể xảy ra giữa một thầy tu ba mươi tuổi với một con chiên là nữ bá tước mới mười hai tuổi.
- Hơn mười năm nay phải kiên cường chống chọi với bệnh ung thư nhưng Márquez vẫn kiên trì, bền bỉ thực hiện các dự án văn chương không hề biết mệt mỏi. Năm 1996, sau ba năm vật lộn với ngòi bút, Márquez hòan thành cuốn Tin tức về một cuộc bắt cóc, đó là một thiên phóng sự tiểu thuyết hóa vụ bọn buôn ma túy bắt cóc mười người, trong đó có tám nhà báo. Theo ông đây là “một nhiệm vụ cuối mùa thu, một công việc khó nhọc và buồn nhất trong đời tôi”. Cuối năm 1995, khi ông vừa viết xong Tin tức về một cuộc bắt cóc thì cả nước Colombia đang hồi hộp theo dõi cuộc bắt cóc Juan Carlos Gaviria, em trai cựu tổng thống với một điều kiện rất kỳ quặc của bọn bắt cóc là Márquez phải lên làm tổng thống thì chúng mới thả nạn nhân. Márquez đã trả lời dứt khoát: “Đừng ai chờ đợi tôi vô trách nhiệm đảm đương chức vụ tổng thống tệ hại nhất từ trước đến nay….Hãy thả Gaviria ra, hãy tự lột mặt nạ và công khai tuyên truyền cho các ý tưởng đổi mới trong phạm vi hiến pháp”.
- Bất chấp bệnh hiểm nghèo và tuổi tác, Marquez vẫn ngày ngày cần mẫn thực hiện dự án viết hồi ký, mà cuốn đầu tiên Sống để kể lại đã xuất bản năm 2002 và ba cuốn tiểu thuyết, trong đó cuốn đầu tiên Hồi ký buồn về những cô gái làng chơi vừa ra đời tháng 10 năm 2004. Một cuốn khác kể chuyện về một người sẽ chết khi viết xong dòng cuối cùng của cuốn sách. Márquez có linh cảm kỳ lạ là chuyện về nhân vật này sẽ nghiệm vào chính mình nên ông đã cố gắng viết bất cứ lúc nào khi có thể, nhẫn nại như mong cho mọi thứ có thể kéo dài hơn…