- 2 - Địa chủ thiện lương cứu người đói,-Nghinh Xuân đa tình dưỡng lừa con.
Gã đàn ông có khuôn mặt tươi cười đứng sau con lừa cái là Mặt Xanh - kẻ làm công trong nhà tôi. Trong trí nhớ của tôi, hắn vốn còm nhom và xấu xí, không ngờ sau khi tôi chết đi, trong vòng hai năm, hắn lại biến thành một kẻ khôi ngô tuấn tú đến như thế!
Lúc được tôi nhặt về trong tuyết trước miếu Quan Đế, trên người hắn chỉ khoác một chiếc bao tải, chân không giày dép, toàn thân tê cứng, mặt tím ngắt, tóc dính bết lại thành từng lọn. Bố tôi vừa mới mất, mẹ tôi vẫn còn khỏe lắm. Bố để lại cho tôi một cái hòm bằng thân cây long não có ổ khóa bằng đồng. Bên trong hòm chứa văn khế của tám mươi mẫu ruộng và toàn bộ bạc vàng châu báu của cả đời ông tích cóp. Tôi vừa tròn hai mươi tuổi, mới cưới cô con gái thứ hai của đại phú hộ Bạch Liên Nguyên ở thị trấn Bạch Mã. Mọi người gọi cô ta là Hạnh Nhi, không có tên chính thức. Về làm vợ tôi, cô ta trở thành bà Tây Môn họ Bạch. Là con gái nhà giàu, cô ta đã từng học chữ, hiểu biết lý lẽ, tuy hơi gầy song đôi vú trông ngon lành như đôi quả lê mọng nước, thân thể vô cùng hấp dẫn, khi cùng lên giường tôi luôn luôn thỏa mãn. Chỉ có điều, đã mấy năm rồi mà cô ta chẳng chịu sinh nở gì cả.
Có thể tôi là một thanh niên sớm thành đạt. Nhiều năm liên tiếp được mùa, các hộ tá điền nộp thóc ngày càng tăng, trong kho thóc lúa đầy bồ, gia súc đầy vườn. Con ngựa đen nhà tôi lập nên một kỳ tích chỉ có trong truyền thuyết là sinh cho tôi hai chú ngựa con xinh xắn. Bà con kéo đến nhà tôi để xem, mặc sức tán tụng, tôi hào phóng chiêu đãi thuốc lá và trà hoa nhài. Hoàng Đồng ăn trộm một bao thuốc lá, bị người ta véo tai dẫn đến trước mặt tôi. Thằng bé này đầu tóc, da mặt, con ngươi đều có màu vàng. Chẳng những thả nó ra, tôi còn cho nó một gói trà bảo nó đem về cho bố nó dùng. Bố nó, ông Hoàng Thiên Phát là người trung thực, thẳng thắn, rất nổi tiếng về nghề làm đậu phụ, còn là hộ tá điền đang thuê năm mẫu đất màu mỡ cạnh bờ sông của nhà tôi, không ngờ lại sinh ra thằng con phá gia chi tử như thế. Bẵng đi một thời gian, Hoàng Thiên Phát khệ nệ bưng đến nhà tôi một thùng đậu phụ và tỏ ý xin lỗi, tôi bảo vợ tặng cho ông ta hai thước da thuộc để làm đôi giày mang đón tết. Hoàng Đồng ơi là Hoàng Đồng, tao và bố mày tình thâm nghĩa trọng như thế, mày không nên dùng súng bắn vỡ sọ tao mới phải. Tao biết mày chỉ làm theo mệnh lệnh, nhưng mày có thể đường hoàng bắn vào chỗ khác để tao còn được tí hình hài chứ. Đồ tạp chủng, mày là một kẻ vong ân bội nghĩa nhất thế gian này!
Tây Môn Náo tôi là một kẻ đường đường chính chính, sống khoáng đạt, độ lượng ai ai cũng phải kính trọng. Tuy kế thừa sản nghiệp trong lúc loạn lạc, vừa phải lo đối phó với trộm cướp, vừa phải lo đối phó với bao nhiêu là thiên tai dịch bệnh nhưng cơ nghiệp gia đình chỉ có mấy năm mà không ngừng phát triển, tậu thêm ruộng tốt hàng trăm mẫu, bò ngựa từ bốn con tăng lên tám con, mua một chiếc xe ngựa bọc da mới toanh, người làm công từ hai thành bốn, a hoàn từ một thành hai, lại còn nhận thêm hai bà già giúp việc bếp núc... Trong khi đang sung túc như vậy, tôi lượm Mặt Xanh đang thoi thóp sắp biến thành băng từ miếu Quan Đế về... Nói ra thật khó tin, mặc dù là một đại phú ông ở Đông Bắc Cao Mật, tôi vẫn giữ được thói quen lao động. Tháng ba cày ruộng, tháng tư gieo hạt, tháng năm gặt lúa mạch, tháng sáu hái dưa, tháng bảy tỉa đậu, tháng tám thu đay, tháng chín thu hoạch ngũ cốc, tháng mười cày trở, tháng chạp lạnh lẽo tôi cũng chẳng quan tâm đến cái lò sưởi ấm áp trong nhà, gà vừa cất tiếng gáy là tôi đã quảy gánh đi nhặt phân chó. Mọi người trong làng kháo vui với nhau rằng, có một lần vì trời còn quá tối nên tôi lượm rất nhiều đá mà cứ tưởng là phân chó và cứ thế gánh về nhà. Đó chẳng qua là chuyện đùa, mũi tôi thính lắm, từ rất xa tôi đã ngửi ra được mùi phân chó. Ở Đông Bắc Cao Mật quê tôi, một địa chủ mà không phân biệt được mùi phân chó thì không phải là một địa chủ tốt.
Ngày ấy tuyết dày, che lấp cả nhà cửa, cây cối, đường sá... Tất cả khoác một màu trắng xóa, không còn phân để lượm nữa vì chó đã trốn lạnh ở đâu đó cả, nhưng tôi vẫn đạp tuyết ra đường. Gió lạnh táp vào mặt. Bao nhiêu điều thần mật, kỳ dị sẽ xảy ra vào buổi bình minh này? Đi vòng sang con đường nhỏ phía sau, dạo một lượt quanh đất đai của mình, tôi nhìn thấy chân trời phía đông màu trắng chuyển hồng, mặt trời mới lên đỏ rực như lửa. Trời đất mênh mông vô cùng, tuyết trắng lấp lánh, trong suốt như pha lê. Trước miếu Quan Đế, tôi nhìn thấy thằng bé ấy đang bị tuyết vùi đến nửa người. Tưởng nó đã chết, tôi đang tính chuyện bỏ một ít tiền mua cho nó một cái quan tài để thân thể nó khỏi bị lũ chó hoang xâu xé. Trước đó một năm, đã có người đàn ông chết gần miếu Thổ Địa, rất lạ là thân thể anh ta đỏ hồng, cái của quý lại giống như một khẩu súng cứ dựng đứng dậy làm những người hiếu kỳ đứng xem đều cười rộ lên. Chuyện này đã được ông bạn quý hóa Mạc Ngôn kể trong cuốn tiểu thuyết “Người chết dương vật không chết”. Tôi đã bỏ tiền ra chôn cất con người có cái của quý lạ lùng ấy ngay trong nghĩa địa của làng. Nghĩa cử ấy còn có sức nặng hơn xây bia lập tượng ấy chứ...
Tôi quẳng gánh, lay lay cái thân hình bất động của thằng bé. Nó vẫn chưa chết, người vẫn còn âm ấm. Cởi áo khoác trùm lên người nó, men theo con đường nhỏ hướng đông, tôi ôm nó về nhà. Lúc này trời đã sáng, hai bên đường mọi người đều đã mở cửa quét tuyết. Nhiều người quen biết mục kích rõ ràng việc làm đẹp đẽ của tôi. Chỉ cần một việc này cũng đủ để các ông không thể dùng súng bắn vỡ óc tôi, Diêm Vương cũng không thể bắt tôi hóa kiếp thành lừa. Người ta thường nói, cứu sống một mạng người hơn xây bảy cấp phù đồ cơ mà. Tôi, Tây Môn Náo rõ ràng đã cứu sống một sinh mệnh, mà đâu phải chỉ có một. Có một năm mất mùa lớn tôi đã bỏ ra hàng tấn cao lương để cứu đói, miễn tô cho tất cả các hộ tá điền, nhờ vậy mà bao nhiêu người đã được cứu sống... Nhưng tại sao tôi lại gặp phải tình cảnh thê thảm đến nhường này? Trời đất, thần thánh ơi! Lẽ nào lại có cái đạo lý này? Các vị còn lương tâm không? Tôi bất phục, tôi nghĩ không ra nữa rồi!
Đặt thằng bé lên lò sưởi trong căn nhà dành cho người làm công, tôi định đốt lửa lên để sưởi ấm cho nó, nhưng ông Trương, một người làm công rất nhiều kinh nghiệm đã ngăn tôi lại. Cây cải trắng đang ở ngoài băng giá, chỉ cần mang đặt cạnh lửa ấm thì sẽ héo úa ngay. Lời ông Trương rất có lý. Tôi bèn đặt nó bên cạnh lò sưởi, giây lâu thân thể nó ấm dần lên. Tôi bảo người nhà nấu một bát cháo lúa mạch, dùng đũa cạy răng đổ vào miệng nó. Nước cháo vừa đến bụng, tôi đã nghe tiếng nó rên rỉ... Sống rồi!
Ông Trương dùng kéo cắt gọn cái đầu tóc bê bết bùn đất và tắm rửa cho nó, mặc cho nó một bộ quần áo tươm tất rồi dẫn nó đi gặp mẹ tôi. Thằng bé rất linh lợi, vừa trông thấy bà nó đã quỳ xuống và gọi bà nội làm bà rất vui lòng, luôn miệng niệm “A di đà phật”, cứ tưởng đứng trước bà là một tiểu hòa thượng vậy. Hỏi tuổi, lắc đầu không biết; hỏi quê quán, nói không nhớ; hỏi gia đình còn ai, nói không có... Đành phải để cho nó ở lại vậy, xem như nuôi thêm một đứa giúp việc trong nhà. Thằng bé thông minh như một con khỉ, nhìn thấy tôi gọi bố; gặp bà Bạch gọi mẹ, vợ chồng tôi rất thích thú.
Tuy nó là đứa giúp việc nhưng cũng mang lại cho tôi một sinh lực mới để tiếp tục làm việc kiếm sống. “Không làm thì không ăn” tuy là cách nói sau này nhưng ý nghĩa của nó lúc nào cũng đúng. Thằng bé không tên không họ, mặt bên trái của nó có một cái bớt to tướng màu xanh lam, tôi liền buột miệng: Mày là Mặt Xanh, họ Lam, tên Liễm. Nó không chịu, kêu lên: Bố, con muốn lấy theo họ của bố, họ Tây Môn, họ Tây Môn, tên Lam Liễm! Tôi nói không được. Họ Tây Môn không thể tùy tiện đặt cho ai, cứ lo làm việc, sau hai mươi năm nữa hãy tính.
Ban đầu, thằng bé theo chân những người làm công làm một số việc lặt vặt như chăn ngựa, chăn lừa. Diêm Vương ơi! Sao ngài nỡ nhẫn tâm bắt tôi làm con lừa? Sau đó, nó bắt đầu làm quen với những công việc quan trọng hơn. Đừng vội coi thường thằng bé, tuy gầy nhưng đôi chân của nó rất linh lợi, cái nhìn rất sắc sảo, lại dai sức... Lúc này, tôi đang chú mục vào cái lưng to bè và cái lồng ngực vạm vỡ của hắn, nhận ra rằng hắn đã trở thành một người đàn ông thực thụ.
- Ha ha, đẻ rồi! Hắn hét toáng lên, cúi gập người xuống, dùng đôi bàn tay to lớn đỡ tôi đứng dậy. Một nỗi tủi nhục và tức giận dâng lên, tôi ra sức kêu to:
- Tao không phải lừa! Tao là người, là Tây Môn Náo!
Nhưng họng tôi tắc nghẹn, giống như khi bị hai tên quỷ sứ siết cổ, tuy đã dùng hết sức lực nhưng chẳng có tí âm thanh nào phát ra. Tôi tuyệt vọng, sợ hãi, phẫn nộ. Mồm tôi đầy bọt mép, nước mắt dinh dính đọng đầy hốc mắt. Hắn vừa buông tay, tôi đã ngã lăn quay ra đất, ngã đúng vào cái chất nhờn nhờn vừa chảy từ bụng con lừa cái ra.
- Mau lên, lấy khăn đem lại đây!
Một người đàn bà với cái bụng to tướng từ trong nhà chạy ra. Ngay lập tức tôi nhận ra cái khuôn mặt lấm tấm tàn nhang, hơi bị phù và cặp mắt buồn buồn ấy. A! Là Nghinh Xuân, là vợ hai của Tây Môn Náo tôi đây mà! Cô ta vốn là người hầu của bà vợ họ Bạch của tôi, không rõ họ tên, nên theo chủ mà mang họ Bạch, đến mùa xuân năm Dân Quốc thứ ba mươi lăm thì trở thành vợ bé của tôi. Cô ta có sống mũi thật thẳng, trán cao, mồm rộng mà vuông, rõ ràng là có phúc tướng. Lại thêm đôi vú với hai đầu vú vểnh lên và bộ xương chậu nở nang biểu hiện của sự mắn đẻ. Vợ tôi lâu rồi không hề sinh nở, trong lòng rất phiền muộn, bèn đẩy Nghinh Xuân vào trong chăn của tôi. Bằng một giọng trầm đục, bà ấy nói cụt lủn:
- Này ông, ông thu nhận cô ta đi. Nước tốt không để chảy sang ruộng người dưng!
Quả nhiên đúng là một mảnh ruộng màu mỡ. Ngay trong đêm đầu tiên, cô ta đã có mang, không chỉ một mà có cả rồng lẫn phượng. Đầu xuân năm sau, Nghinh Xuân đẻ sinh đôi, con trai tên Tây Môn Kim Long, con gái tên Tây Môn Bảo Phượng. Theo lời bà mụ kể, bà ta từ trước chưa thấy người nào đẻ dễ như thế. Đơn giản giống như dưa từ trong bao đổ ra, cô ta cùng lúc đẻ cho tôi hai đứa trẻ hồng hào, mập mạp. Hầu như tất cả phụ nữ sinh nở lần đầu đều van trời kêu đất, nhưng Nghinh Xuân của tôi lúc lâm bồn, trong phòng sinh chẳng có lấy một tiếng kêu rên. Theo bà đỡ, trong lúc chuyển dạ, nét mặt của Nghinh Xuân luôn mang một nụ cười thần bí như đang chơi một trò chơi lý thú, đến nỗi làm cho bà đỡ hết sức căng thẳng, lo sợ rằng cô ta sẽ đẻ ra một loài yêu tinh nào đó. Sự ra đời của Kim Long và Bảo Phượng là một điều đại hỷ đối với dòng họ Tây Môn. Tôi bảo ông Trương và Mặt Xanh mua tám trăm viên pháo mang đến rìa làng phía Nam đốt vang rền. Tiếng pháo giòn tan vang lên làm tâm trí tôi sướng muốn phát cuồng. Tây Môn Náo tôi có một tật lạ là, mỗi khi gặp chuyện vui thì tay chân cảm thấy ngứa ngáy, nếu không làm một công việc gì đó thật nặng thì không thể chịu nổi. Trong tiếng pháo đùng đoàng, tôi xắn tay áo chạy ù ra chuồng gia súc, đào đống phân lưu trữ suốt mùa đông ra dồn vào bao chất lên xe. Trong làng có Mã Trí Bá là một tay rất tin vào chuyện ma quỷ, thấy tôi làm thế bèn lật đật chạy đến chuồng gia súc, bảo tôi:
- Môn Thị[1] - Một cách gọi khác của tên tôi - Môn Thị hiền đệ! Trong nhà có đàn bà sinh nở, không được động thổ, càng không được bón phân đào giếng, làm động đến Thần Đất sẽ không có lợi cho trẻ con đâu!
Lời nói của Mã Trí Bá làm tôi lạnh xương sống, nhưng cung đã giương thì không thể thu tên về; việc gì cũng thế, đã bắt đầu làm thì phải làm đến cùng, không thể bỏ dở giữa chừng, đã rời khỏi chuồng thì không thể quay lại, tôi nói:
- Người xưa có nói, người có mười năm thịnh đạt, quỷ thần không dám đến gần. Tây Môn Náo tôi lòng dạ ngay thẳng không sợ điều tà ác, hành vi chính trực không sợ ma quỷ, cho dù có gặp Thần Đất cũng chẳng ngại ngùng gì.
Cũng chính bị cái mồm xúi quẩy của Mã Trí Bá làm cho điên tiết, tôi đào như điên cuồng và bỗng dưng bắt gặp một vật quái dị hình quả bầu từ trong đống phân. Nó giống như keo dính, vừa giống như thịt đông lại vừa trong suốt, vừa giòn lại vừa mềm. Tôi lượm lên, đặt nó bên cạnh chuồng gia súc và chăm chú quan sát. Lẽ nào đây là Thần Đất trong truyền thuyết sao? Tôi thấy mặt Mã Trí Bá xám như tro, cái râu dê rung rung, hai tay chắp trước ngực, hướng về cái vật quái dị ấy mà lạy lạy vái vái, vừa lạy vừa lùi, lùi đến bờ tường thì co giò vụt chạy, tôi lẩm bẩm:
- Cho dù là Thần Đất đi nữa mà trông bộ dạng thế này thì chẳng có gì đáng kính nể. Nếu tôi gọi ông ba lần mà ông vẫn không cút đi thì đừng trách tôi không khách sáo. Nói xong, tôi nhắm mắt lại, gắng sức gào to ba tiếng: “Thần Đất, Thần Đất, Thần Đất”... Xong, tôi mở mắt ra nhìn. Té ra cái vật ấy vẫn nguyên dạng, nằm lù lù bên chuồng gia súc lẫn với phân ngựa. A! Mi hoàn toàn là một vật vô tri! Tôi vớ lấy cái xẻng nhắm và bổ xuống. Nó bị tách ra làm hai mảnh. Bên trong cũng là một chất dinh dính, nhầy nhầy giống như mủ chảy ra từ thân cây đào. Xúc lên, tôi dùng lực vất nó qua khỏi tường, hy vọng rằng nó có thể làm cho ngô tháng bảy của tôi nảy mầm to như cái gậy, lúa tháng tám trổ bông to như đuôi chó.
Trong cuốn tiểu thuyết “Thần Đất”, Mạc Ngôn từng viết: “Đổ nước pha lẫn với trà đỏ và đường đỏ vào một cái bình có miệng rộng trong suốt, đặt vào chỗ ấm áp phía sau ông táo, sau mười ngày, một vật quái dị hình quả bầu sẽ xuất hiện. Người trong làng nghe chuyện đều chạy đến xem. Con trai Mã Trí Bá là Mã Thông Minh kêu lên: “Chết rồi, đấy là Thần Đất. Địa chủ Tây Môn Náo năm ấy đào được Thần Đất cũng mang hình dáng này”. Tôi là một thanh niên thời hiện đại, chỉ tin vào khoa học, không tin quỷ thần, không tin lời Mã Thông Minh, lấy cái vật kỳ lạ ấy ra khỏi bình băm nhỏ, bỏ vào nồi xào chín. Một mùi hương lạ lạ bay lên khiến người ta cảm thấy thèm thuồng. Ăn mùi vị của nó giống như thịt đông, cực ngon, lại rất nhiều dinh dưỡng... Ăn hết một “cái” Thần Đất, trong vòng ba tháng thân hình tôi cao lên mười mi-li-mét.”
Tiếng pháo xua đi tiếng đồn đại lâu nay rằng Tây Môn Náo tôi không có khả năng sinh sản, nhiều người sắm sửa lễ vật chờ đến ngày thứ chín thì đến nhà tôi chúc mừng. Khổ nỗi, lời đồn cũ chưa tan thì tiếng thị phi mới lại đến. Chuyện Tây Môn Náo làm động đến Thần Đất chỉ trong vòng một đêm đã vang đi khắp mười tám thôn vùng Đông Bắc Cao Mật. Nó còn được thêm mắm dặm muối rằng, vị Thần Đất này là một quả trứng thịt to tướng vô cùng linh thiêng cứ lăn quẩn quanh chuồng gia súc, sau khi bị tôi xúc vất thì biến thành một luồng ánh sáng bay thẳng lên trời. Làm động đến Thần Đất chỉ trong vòng một trăm ngày ắt hẳn sẽ mang đại họa. Ôi dào, cây cao ắt phải đương với gió lớn, nhà tôi giàu to phúc lớn sẽ có người ghen ghét và thầm cầu mong cho nó suy sụp. Lòng tôi thấp thỏm, bất an nhưng vẫn cứ khăng khăng rằng, nếu ông trời có trừng phạt tôi sao lại cho tôi hai bảo bối Kim Long và Bảo Phượng tuyệt vời đến thế...
Nhìn thấy con lừa - tôi, khuôn mặt Nghinh Xuân tỏ ra hoan hỷ vô cùng. Rất khó khăn, cô ta cúi người xuống bên tôi. Trong chớp mắt, tôi nhìn thấy đứa bé trong bụng cô ta. Là một đứa con trai, mặt bên trái cũng có một cái bớt màu xanh, rõ ràng là con của Mặt Xanh rồi. Một nỗi sỉ nhục trào dâng, một suy nghĩ độc ác thoáng hiện trong lòng tôi. Tôi muốn chửi bới, tôi muốn giết người, tôi muốn đem Mặt Xanh nghiền nát như tương. Mặt Xanh, mày là thằng vong ân bội nghĩa, là đồ táng tận lương tâm. Miệng mày lúc nào cũng gọi tao là bố, tức Nghinh Xuân là mẹ mày. Mày nhận mẹ làm vợ, bắt mẹ đẻ con cho mày sao? Đúng là đồ làm bại hoại nhân luân, đáng để cho thiên lôi đánh chết tươi mày. Xuống âm phủ mày sẽ bị quỷ sứ lột da, sẽ bị đầu thai thành súc vật! Nhưng... trời xanh vô đạo, địa ngục vô tình, đầu thai thành súc vật vẫn cứ là tôi, Tây Môn Náo cả đời chưa hề làm điều thất đức. Còn cô nữa, Nghinh Xuân! Trong vòng tay tôi, cô đã từng thốt ra bao lời nói ngọt ngào, bao lời thề ước sắt son. Nhưng thi thể tôi chưa kịp lạnh, cô lại lên giường với thằng làm công! Đồ dâm phụ! Cô còn mặt mũi nào mà đứng trong thế gian này nữa chứ? Cô chết quách đi cho rồi! Cho cô một đoạn vải trắng đây, à, mà chẳng cần phải phung phí thế, chỉ cần đoạn dây trói lợn, treo cô lên cái xà nhà chuột ỉa, dơi bám hay uống thạch tín mà chết đi cho khuất mắt. Cô chỉ xứng đáng nhảy xuống giếng, đáng để vứt xác cho chó hoang ngoài đầu làng thôi. Ở dương gian cô đáng bị cưỡi lừa gỗ đi khắp xóm để cho mọi người biết, xuống âm phủ thì chỉ có hang rắn độc chuyên dùng để trừng trị những kẻ dâm phụ là xứng đáng với cô, sau đó thì hóa kiếp cho cô thành súc vật hàng vạn kiếp mà không được siêu thoát... Nhưng chao ôi! Kẻ bị hóa kiếp thành đồ súc vật lại là tôi, một Tây Môn Náo chính nhân quân tử mà không phải là cô, vợ bé của tôi.
Cô ta rất khó khăn quỳ xuống bên cạnh tôi, dùng cái khăn bằng lông dê màu lam cẩn thận lau sạch những huyết dịch dính trên người tôi. Cái khăn lông khô sạch chà xát qua lớp lông ẩm ướt làm tôi cảm thấy dễ chịu vô cùng. Động tác của cô dịu dàng như một bà mẹ đang lau cho đứa con bé bỏng mới sinh... Ôi! Chú lừa con đáng yêu quá, xem này, đôi mắt to xanh biếc, đôi tai nhỏ nhắn đầy lông tơ. Mồm nói tới đâu, đôi tay của cô ta xoa xoa đến đấy. Tôi nhìn thấy rõ ràng sự vỗ về ấy xuất phát từ tận tấm lòng lương thiện của cô ta. Tôi bị cô ta làm cho cảm động suýt phát khóc, những suy nghĩ độc ác dần dần biến mất; những ký ức về đoạn đời làm người trở nên mơ hồ, lộn xộn mất rồi...
Cả người tôi đã sạch sẽ, không còn run lẩy bẩy nữa. Xương cốt của tôi cũng cứng rồi, chân đã có sức, nhưng tôi vẫn là một con lừa. Cô ta lại tiếp tục nắn bóp cái chim bé tẹo dưới háng tôi. Rõ ràng so với cảm giác khi còn là người, những cái vuốt ve này hoàn toàn không giống nhau. Tôi cảm thấy vô cùng xấu hổ. Tôi là con ai? Là con của lừa. Mẹ tôi đang đứng kia, toàn thân đang run rẩy. Mẹ lừa của tôi! Vừa buồn phiền, vừa tức giận, tôi đứng dậy. Trông tôi giống như cái ghế ngắn cũn cỡn.
- A! Đứng dậy được rồi! Mặt Xanh vỗ tay bồm bộp, kêu lên một cách thích thú. Hắn kéo Nghinh Xuân đang quỳ dưới đất dậy, đôi mắt trông có vẻ rất âu yếm, xem ra tình cảm giữa hai đứa rất thắm thiết. Tôi sực nhớ ra rằng, trước đây đã có ai đó nhắc nhở tôi hãy dè chừng tên làm công này, lẽ nào hai đứa đã có tình ý với nhau lúc tôi còn làm người?
Tôi đứng dưới ánh nắng chói chang của ngày đầu năm. Để khỏi ngã, bốn chân tôi liên tục xê dịch, bước những bước đầu tiên của loài lừa, bắt đầu một đoạn đời lạ lẫm, khổ ải và tủi nhục. Thân thể tôi lúc lắc theo từng bước chân, da bụng như bị kéo căng ra. Mặt trời to và tròn, bầu trời rất xanh và những con chim rất trắng đang chao liệng trên cao. Trước mắt tôi, Mặt Xanh đang dìu Nghinh Xuân vào nhà, hai đứa trẻ một trai một gái, mình mặc áo gấm mới, chân đeo giày da hổ, đầu đội mũ lông thỏ từ ngoài cổng đi vào. Đôi chân linh lợi đầy sức sống của chúng trèo qua ngạch cửa, gọi Mặt Xanh và Nghinh Xuân là bố mẹ. Chắc chắn chúng là con tôi, Kim Long và Bảo Phượng. Các con ơi! Bố nhớ các con lắm. Bố đã từng mong các con trở thành rồng phượng để làm rạng rỡ tổ tông, nhưng lúc này các con đã trở thành con của kẻ khác, còn bố thì đã biến thành một con lừa. Lòng đau như cắt, tâm trí rối loạn, bốn chân không đỡ nổi thân, tôi ngã lăn ra đất. Tôi không muốn làm lừa, tôi muốn trở lại hình hài khi xưa, làm Tây Môn Náo để thanh toán sòng phẳng với bọn chúng. Trong khi tôi ngã thì con lừa cái bỗng nhiên cũng ngã, giống như một bức tường mục nát đổ sụp xuống đất.
Con lừa đẻ tôi ra đã chết, bốn vó ngay đơ như cây gậy gỗ, hai mắt trợn tròn. Chết không nhắm mắt, đúng là có chuyện gì oan khuất lắm đây. Nó chết, tôi chẳng có chút động lòng, chẳng qua là tôi mượn thân xác nó để quay về, mà đó cũng chỉ là sắp đặt của Diêm Vương mà thôi. Tôi chưa hề uống của nó giọt sữa nào nên nhìn thấy bầu vú dưới bụng nó, tôi cảm thấy kinh tởm. Tôi chỉ uống nước cháo bột cao lương mà lớn lên thành lừa, cháo loãng cao lương do chính tay Nghinh Xuân nấu. Cô ta có công nuôi nấng tôi. Cô ta thường dùng một cái muỗng to bằng gỗ đổ nước cháo loãng vào miệng tôi, khi tôi trở thành một con lừa thực thụ thì nó đã bị tôi cắn sứt mẻ lởm chởm. Khi Nghinh Xuân cho tôi ăn cháo, tôi cứ nhìn chăm chăm vào bầu vú nung núc của cô ta, tôi biết trong ấy tràn trề một bầu sữa có màu xanh nhàn nhạt. Tôi đã từng nếm qua mùi vị của loại sữa ấy, rất ngọt, rất thơm. Nó cũng rất nhiều, hai đứa con bú mãi không cạn. Cũng có những người đàn bà có loại sữa rất độc, con bú vào là chết ngay. Cô ta vừa cho tôi ăn, vừa vỗ về: “Tội nghiệp con lừa nhỏ của tôi, vừa mới sinh ra đã mất mẹ”. Cô ta nói câu này mà nước mắt rưng rưng. Tôi biết, cô ta thương tôi thật lòng. Hai đứa nhỏ Kim Long và Bảo Phượng hiếu kỳ hỏi: “Mẹ ơi, mẹ của lừa con vì sao mà chết vậy?”. Cô ta đáp: “Tuổi thọ đã hết, bị Diêm Vương bắt đi rồi”. Hai đứa nhỏ kêu lên: “Mẹ đừng bao giờ để Diêm Vương bắt đi nhé. Nếu mẹ bị bắt đi, các con sẽ cũng giống như con lừa nhỏ, không còn mẹ nữa, Giải Phóng cũng không còn mẹ nữa”. Cô ta nói: “Mẹ không bao giờ đi đâu, Diêm Vương còn đang mang nợ nhà ta, chẳng dám đến đâu”...
- Ông có biết ai là Lam Giải Phóng không?
Lam - Ngàn - Năm - Đầu - To, tuổi tuy bé song cặp mắt rất lão luyện, cao không đầy một thước song giọng nói phát ra như sông ngòi cuộn sóng, hỏi tôi.
- Tôi chính là Lam Giải Phóng! Mặt Xanh là bố tôi, Nghinh Xuân là mẹ tôi. Nói như thế có nghĩa cậu là con lừa đen chân trắng trong nhà tôi?
- Đúng rồi! Tôi đã từng là một con lừa trong nhà ông. Tôi sinh vào buổi sáng ngày một tháng một năm một ngàn chín trăm năm mươi, còn ông, Lam Giải Phóng, sinh vào chiều tối ngày một tháng một năm một ngàn chín trăm năm mươi, chúng ta đều là những đứa trẻ của thời đại mới.