- 26 - Đố kỵ, Tiểu Tam phá chuồng lợn,-Kế hay, Kim Long giải cơ hàn.-
Mùa đông năm một nghìn chín trăm bảy hai là thời gian khảo nghiệm cơ cực nhất của bầy lợn trại Hạnh Viên. Cho dù sau đại hội nuôi lợn, huyện đã có lệnh ban thưởng cho trại gần hai mươi tấn thức ăn nhưng đó chỉ là những con số trên miệng mọi người. Cuối cùng, dưới sự đốc thúc của ủy ban cách mạng công xã, người ta mới sai lão Kim - tay này rất mê thịt chuột nên có biệt hiệu là Kim Hao tử - kho trưởng kho lương thực của công xã đưa về một ít thức ăn để lâu năm đến độ mốc meo, trong đó chủ yếu là cao lương. Không đủ về số lượng đã đành, chất lượng kém một tí không sao, nhưng trong số đó ít nhất phải có cả tấn cứt chuột khiến cả trại Hạnh Viên suốt mùa đông phải ngửi mùi cứt chuột. Đúng thế! Trước và sau đại hội nuôi lợn, chúng tôi được ăn ngon uống tốt một thời gian, tôi cảm thấy như mình đã được trở lại thời còn là địa chủ Tây Môn Náo. Nhưng sau đại hội chừng một tháng, kho thức ăn của đại đội đã cạn veo, thời tiết cũng bắt đầu chớm lạnh. Tuyết bay đầy trời trông rất lãng mạn nhưng lại kèm theo những đợt rét đậm làm tím tái da thịt. Chúng tôi biến thành một bầy lợn vừa đói vừa rét.
Mùa đông năm ấy, tuyết rơi sao mà dày. Tôi không hề có ý nói thêm tí nào cả. Cục khí tượng của huyện có ghi chép việc này, địa chí của huyện và ngay cả tiểu thuyết “Ghi chép về chuyện nuôi lợn” của Mạc Ngôn cũng miêu tả rất tận tường.
Từ nhỏ Mạc Ngôn đã biết dùng lời lẽ mê hoặc con người. Trong cuốn tiểu thuyết này, việc nó tả vừa thật vừa giả, không thể không tin, nhưng cũng không thể tin hoàn toàn. Thời gian, địa điểm trong đó là đúng, cảnh tuyết rơi cũng được miêu tả thật đúng, thật hay, nhưng số lượng đầu lợn và lai lịch của bọn chúng đều bị nó biến đổi. Rõ ràng ở đây toàn là lợn Nghi Mông nhưng nó lại đổi thành lợn Ngũ Liên Sơn, một ngàn không trăm năm bảy con nhưng nó chép chỉ có hơn chín trăm. Nhưng đó chỉ là tiểu tiết. Với người viết tiểu thuyết thì chẳng hơi sức đâu mà cải chính, mà có cãi cũng chẳng được với cái miệng hàm hồ của nó đâu.
Cho dù tôi có chút khinh bỉ với bầy lợn Nghi Mông này, thậm chí cảm thấy sỉ nhục khi là đồng loại với chúng, song suy cho cùng thì chúng vẫn là đồng loại của tôi. Cổ nhân có nói “Thỏ chết chồn thương”, đúng không? Bọn chúng thay nhau chết làm cho không khí của trại lợn thêm nặng nề, bi thương. Để giữ sức, những ngày ấy tôi đã giảm đi chơi đêm. Tôi dùng móng chân xua tất cả những cọng cỏ đã nát bươm vì dùng lâu ngày về phía một góc chuồng rồi nằm lên đó, hai chân trước bợ lấy má nhìn tuyết rơi, hít hít cái khí lạnh đặc biệt của tuyết, trong lòng không thể kiềm chế được nỗi bi thương. Nói thực lòng, tôi không phải là một con lợn đa sầu đa cảm như những kẻ tiểu tư sản yếu đuối mà ẩn chứa trong tôi là một dục vọng về sự hoan lạc, một ý chí đấu tranh không bao giờ biết mệt mỏi.
Gió bấc gào thét, băng vỡ trên sông ầm ầm. Tuyết đọng dày cả thước trên đất, những cành hạnh bị tuyết phủ đầy rũ xuống tận mặt đất trông như những ngọn núi tuyết nho nhỏ nhấp nhô, thi thoảng có những cành bị tuyết đọng quá nặng nên gãy lìa, phát ra những âm thanh khô giòn, liền theo âm thanh ấy là tuyết từ trên cây đổ xuống nghe rào rào. Trước mắt tôi, một màu trắng xóa lấp lóa trong đêm. Dầu đã hết, máy phát điện không hoạt động. Tôi lay hoay với những sợi dây điện, cắn đứt nó ra mà không tìm thấy một chút điện nào. Công bằng mà nói, cảnh tuyết về đêm thật đẹp, nếu cuộc sống no ấm hơn một tí, có lẽ đó sẽ là cảm hứng của thơ ca nhạc họa. Nhưng lúc này, cái đói cái rét khiến người ta chẳng hơi sức đâu mà nghĩ đến những chuyện lãng mạn ấy. Tôi nói những điều tự đáy lòng là, trong những ngày đói rét ấy, khi những con lợn Nghi Mông phải cúi đầu nhai những lá đậu đắng chát và uống những chậu nước nấu từ hạt bông phế thải của xưởng dệt để cầm hơi thì Kim Long ngày nào cũng đảm bảo cho tôi một phần thức ăn tươm tất, tuy không bằng trước song cũng đã là một sự ưu ái tột cùng. Tôi nằm đây, cô đơn và khổ sở qua từng đêm, lúc mơ, lúc ngủ. Trên trời, thi thoảng cũng có vài ngôi sao lóe sáng. Tôi không thể ngủ yên vì bầy lợn Nghi Mông đang rên rỉ giãy giụa trước cái chết gần kề. Tình đồng loại khiến tôi cảm thương cho bọn chúng, nước mắt tôi ứa ra nhưng chỉ kịp chảy đến má, nó đã nhanh chóng thành băng và rơi xuống đất. Bên kia tường, Điêu Tiểu Tam cũng đang rên rỉ. Bây giờ nó mới thấy hiệu quả của việc không giữ vệ sinh. Trong ổ của nó chẳng có chỗ nào khô, khắp nơi toàn là phân và cứt đã biến thành băng. Nó rên rỉ, gào rú như sói, chửi bới sự bất công của con người, của cuộc đời. Mỗi lần người ta đưa thức ăn đến là nó chửi, chửi cả Hồng Thái Nhạc, cả Kim Long, Lam Giải Phóng, chửi bà Bạch, người đàn bà còn sót lại của đại ác bá Tây Môn Náo. Bà Bạch ngày nào cũng xách hai chiếc thùng đến cho chúng tôi ăn. Đôi chân nhỏ nhắn yếu ớt của bà bước đi xiêu vẹo trên tuyết, chiếc áo rách phất phơ trong gió bấc và tuyết trắng. Từ đầu tóc đến lông mày, lông mi, vai bà đều có tuyết. Đôi tay đen đúa, nhăn nheo giống như cành cây khô đã cháy. Từ hai chiếc thùng, mùi thức ăn bay ra, theo đó mà tôi nhận ra thùng nào là thức ăn của tôi, thùng nào là thức ăn của Điêu Tiểu Tam. Bà Bạch đặt hai chiếc thùng xuống đất, lấy thìa cạo cạo lớp tuyết bám trên tường và trong máng ăn của tôi rồi đổ thức ăn vào. Lúc nào cũng thế, tôi chúi mõm ăn một cách vội vã, thức ăn vấy cả lên đầu và tai. Bà Bạch sẽ lau sạch những thức ăn vấy trên người sau khi tôi đã ăn xong. Thức ăn không ngon lắm, không thể nhai nhỏ được vì nếu nhai kỹ, mùi thiu thối sẽ xộc lên mũi. Tôi không bằng lòng kêu lên mấy tiếng nhưng vẫn ăn hết, bà Bạch xoa đầu tôi cảm khái:
- Lợn mười sáu! Mày đúng là một con lợn tốt, chẳng bao giờ bỏ ăn.
Cho tôi ăn xong, bà Bạch quay sang cho Điêu Tiểu Tam ăn. Bà ấy có lẽ rất hạnh phúc khi nhìn thấy tôi ăn một cách ngon lành như thế, nếu không vì Điêu Tiểu Tam kêu ré lên, tôi nghĩ bà ấy đã quên mất nó. Tôi không hề quên được ánh mắt trìu mến của bà ấy khi nhìn tôi ăn. Bà ấy tốt với tôi, tôi mơ hồ nhận ra nguyên nhân nhưng tôi chẳng muốn tìm hiểu sâu làm gì. Chuyện qua lâu rồi, động vật và con người vốn có hai vận mệnh khác nhau.
Điêu Tiểu Tam đang cắn cái muỗng của bà ấy rồi hai chân trước bám vào tường, vươn cái mặt ra khỏi tường kêu rống lên. Hai chiếc răng nanh như dài thêm ra, đôi mắt đỏ như máu. Bà Bạch dùng cái muỗng gõ vào mõm nó mấy cái, tiếng kêu lộc cộc như gõ vào bức tường gỗ. Đổ thức ăn của nó vào máng, bà chửi:
- Đồ lợn thối tha, bẩn thỉu. Sao cái rét không làm mày chết quách đi cho rồi!
Điêu Tiểu Tam chỉ ăn một vài miếng rồi ngoác mồm chửi:
- Vợ lão địa chủ Tây Môn Náo kia! Bà là kẻ không công bằng. Bà đem thức ăn ngon cho lợn mười sáu ăn hết, còn thức ăn của tôi toàn là lá đậu úa. Tôi ỉa vào mặt bà, kể cả người đã đẻ ra bà!...
Chửi xong thì khóc rống lên trông rất thê thảm. Bà Bạch hình như chẳng quan tâm gì đến lời chửi độc địa ấy, xách chiếc thùng bỏ đi. Nó ngoác mồm chửi vọng sang:
- Con lợn mười sáu kia! Thế này gọi là công bằng à? Vì sao họ lại đối xử phân biệt như vậy? Lẽ nào vì mày trắng tao đen à? Lẽ nào mày là lợn bản địa, còn tao là lợn nhập cư? Lẽ nào vì mày đẹp tao xấu? Thực ra, mày có đẹp gì hơn tao đâu...
Với đồ ngu này, tôi chẳng có gì để nói cả. Cả thế giới này vốn chẳng tìm đâu ra sự công bằng. Quan lớn cưỡi ngựa, lẽ nào binh lính cũng cưỡi ngựa à? À có đấy! Tôi có nghe nói trong đội kỵ binh của Hồng quân Liên Xô xưa, nguyên soái cưỡi ngựa, quân sĩ cũng cưỡi ngựa, song ngựa của nguyên soái là ngựa tốt, ngựa của quân sĩ là ngựa gầy, ngựa đói. Rõ ràng ở bên ấy mà cũng có phân biệt, huống chi là ở Trung Quốc thời này, làm gì có chuyện bình đẳng.
- Rồi sẽ có ngày tao cắn chết mày, tao sẽ moi tim gan mày ra! Điêu Tiểu Tam nghiến răng nói tiếp: Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh, mày có tin không? Mày có thể không tin, nhưng tao thì tin chắc!
- Mày nói rất đúng! Tôi nghĩ mình không làm gì nên tội nên đồng ý: Tao tin vào sự gan dạ của mày. Tao đang chờ mày sẽ làm nên chuyện kinh thiên động địa gì đó đấy!
- Thế thì mày hãy đem những thức ăn còn thừa trong máng mày để cho anh em ăn nhé! Nó nuốt nước bọt ừng ực, nói.
Tôi nhìn cái mồm bẩn thỉu và đôi mắt hèn hạ của nó, trong lòng cảm thấy ghê tởm. Vốn tôi đã xem nó chẳng ra gì, bây giờ lại càng thêm khinh bỉ. Để nó vục cái mồm bẩn thỉu kia vào cái máng của mình là điều tôi chưa bao giờ nghĩ tới, nhưng trước một yêu cầu nhỏ mọn và đáng thương ấy, tôi thật khó mà từ chối. Tôi tìm cách đưa đẩy:
- Lão Điêu à! Kỳ thực thức ăn của tao cũng chẳng khác gì của mày cả... Mày trẻ con quá, cứ tưởng cái bánh trong tay người khác là to hơn của mình...
- Câm cái mồm thối của mày lại đi! Mày tưởng tao đui tao điếc à? Điêu Tiểu Tam lại nổi cơn điên: Che sao nổi mắt tao! Nó cúi xuống chiếc máng của mình ngậm một miếng thức ăn rồi dùng móng trước hất thật mạnh. Miếng thức ăn rơi xuống cạnh máng của tôi. Rõ ràng nó quá khác biệt so với những thức ăn thừa của tôi: Mày cứ nhìn mà xem, mày ăn gì, tao ăn gì. Mẹ kiếp, đều là lợn giống, dựa vào đâu mà chế độ đãi ngộ lại khác nhau. Mày vì cách mạng mà cho giống, lẽ nào tao vì bọn phản cách mạng mà cho giống à? Con người đã bị họ chia làm cách mạng và phản cách mạng, lẽ nào lợn cũng phân giai cấp sao?
Tôi dùng móng chân nhón lấy cục thức ăn nó đã vất sang, dùng lực ném ra bên ngoài, nói một cách khinh miệt:
- Tao vốn đang tìm cách để đáp ứng lời thỉnh cầu của mày, nhưng mày đã dùng những lời nói như thế để nhiếc móc tao, xin lỗi, lão Điêu! Tao đành đem những thức ăn này ném vào đống cứt còn hơn cho mày.
Dùng một móng trước, tôi vón từng cục thức ăn và ném vào một góc chuồng, nơi tôi thường ỉa đái rồi khoan thai trở về nằm trong chiếc ổ tinh tươm của mình: Điêu tiên sinh, nếu ngài muốn ăn thì... xin mời!
Mắt Điêu Tiểu Tam phát ra những tia sáng xanh lè, răng nó va lập cập vào nhau:
- Con lợn mười sáu kia! Cổ nhân nói, lên khỏi mặt nước mới nhận ra chân mình đầy bùn! Mặt trời luân chuyển, không phải lúc nào cũng chiếu vào ổ của mày đâu!
Nói xong mấy câu này, nó tụt người xuống khỏi bức tường. Tôi nghe tiếng chân bực dọc đi đi lại lại bên kia, rồi thỉnh thoảng có tiếng húc vào cửa sắt hoặc vào tường. Sau đó tôi nghe thấy những âm thanh là lạ, té ra, để trút cơn giận và cũng là để làm ấm cái ổ của mình, nó đã vươn người lên dùng miệng rút những cây cao lương khô lợp mái nhà. Nó rút nhiều đến nỗi ngay mái lợp trên đầu tôi cũng bị thủng một khoảng to. Tôi thò người ra khỏi bức tường, phản đối hành vi phá hoại của nó:
- Điêu Tiểu Tam, tao không cho phép mày làm như thế!
Nó tiếp tục cắn một thân cây cao lương, rút xuống rồi dùng đôi hàm răng có hai chiếc răng nanh cắn ra từng đoạn, gằn từng tiếng:
- Mẹ nó chứ, muốn chết thì cùng nhau chết! Ông trời chẳng có mắt, để quỷ dữ vào miếu!
Rồi nó đứng thẳng dậy, ngoạm lấy một cây cao lương nữa. Tuyết trên mái rơi xuống ào ào trên người nó. Nó lắc lắc cái đầu, đôi mắt màu lục phát ra những tia sáng hung ác. Nó điên thật rồi! Tôi nhìn trên mái lá chuồng tôi, lòng nóng như lửa đốt, muốn nhảy qua để chế ngự nó, song nghĩ lại, với một thằng điên thế này mà vấy vào thì không chết cũng bị thương. Đang lúc nguy cấp, tôi bỗng cất lên tiếng kêu thất thanh. Tiếng kêu của tôi chẳng khác nào tiếng còi hú báo hiệu máy bay địch đã đến mà tôi vẫn thường nghe ngày xưa. Ngày ấy, để đề phòng bọn đế quốc phản động đột nhiên tập kích, toàn dân huyện Cao Mật đều diễn tập phòng không. Trong loa phóng thanh của mỗi làng, mỗi cơ quan thường có những âm thanh khác nhau nhằm báo hiệu tình hình cụ thể của máy bay địch. Đầu tiên là tiếng hú ùng ục trầm trầm như tiếng sấm xa xa. Đó là tiếng báo hiệu máy bay địch đang bay trên bầu trời. Tiếp theo là tiếng hú chói chang như tiếng sét đánh gần, đó là tiếng báo hiệu máy bay địch đang bổ nhào và ngay sau đó là lời cô phát thanh viên: “Mời tất cả cán bộ, bần nông, trung nông chú ý lắng nghe. Đây là hiệu lệnh báo hiệu phòng không thông dụng trên toàn thế giới. Lúc nào nghe được những âm thanh này, mọi người lập tức ngừng ngay công việc để nấp vào hầm. Nếu tìm không ra hầm thì hai tay ôm lấy đầu và nằm xuống”...
Trong lúc cấp thiết, không ngờ tiếng hú quen thuộc ngày xưa đột ngột thoát ra từ miệng tôi. Để cho tiếng hú báo động của mình vang xa, tôi bất chấp cái lạnh trèo lên cây hạnh. Tuyết trên cành rụng xuống đất rào rào, để lộ những cành cây màu đỏ bầm, trơn tuột giống như loài san hô dưới biển trong truyền thuyết. Tôi tiếp tục trèo lên đến đỉnh ngọn cây hạnh, tất cả quang cảnh của trại lợn và làng Tây Môn hiện ra trước mắt tôi. Những làn khói xanh mờ mờ bay lên từ phía xa, rừng cây hạnh chung quanh tôi bị tuyết phủ trông giống như những chiếc bánh bao to sụ. Rất nhiều người từ những mái nhà đầy tuyết như sẵn sàng đổ ụp xuống bất cứ lúc nào đang chạy ra. Tuyết trắng, người đen. Tuyết dày đến đầu gối, người đi sao mà khó khăn, lúc la lúc lắc, ngắn ngủn. Họ đều bị tiếng hú của tôi làm cho sợ hãi. Kim Long và Giải Phóng cùng vài người nữa từ năm gian nhà ấm áp xuất hiện sớm nhất. Trước tiên là họ ngước mắt lên trời xem xét. À, họ đang tìm máy bay oanh tạc của bọn đế quốc phản động đấy, rồi đột nhiên tất cả đều úp mặt xuống tuyết, hai tay ôm đầu. Một bầy quạ kêu quang quác bay trên đầu họ. Bọn quạ này làm tổ trong rừng dương liễu phía đông con sông đào. Tuyết che kín đất, việc kiếm ăn khó khăn nên chúng thường đến trại lợn để tranh ăn với chúng tôi. Cuối cùng họ cũng đã đứng dậy, ngẩng đầu nhìn lên trời một lần nữa, cúi người nhìn mặt đất phủ tuyết dày và phát hiện ra địa điểm phát ra tiếng hú kinh hồn này.
Bây giờ tôi sẽ nói về ông đây, Lam Giải Phóng. Ông cầm trên tay chiếc roi trúc dài ngoằng mà những người đánh xe ngựa thường sử dụng chạy dẫn đầu. Con đường nhỏ do những người đưa thức ăn đi lại nhiều nên tuyết vón lại thành từng cục trơn nhẫy khiến chân ông xiêu vẹo, vừa chạy vừa ngã. Mặt trời chiếu sáng rực trên tuyết, đẹp lạ lùng. Những con quạ bay trên cao cũng như được dát nhũ vàng, gương mặt một bên xanh của ông cũng rực rỡ. Người làng Tây Môn, trừ Mạc Ngôn thường lui tới, còn lại chưa ai để ý gì đến ông. Ngay cả một con lợn như tôi cũng chẳng xem ông - một đội trưởng nuôi lợn - ra gì cả. Lúc này nhìn thấy ông cầm roi xông tới, tôi mới kinh ngạc và nhận ra rằng, ông đã là một thanh niên. Sau khi sự việc diễn ra, nhẩm tính lại, té ra ông đã hai mươi hai tuổi.
Tôi ôm lấy cành cây, ngẩng mặt đón ánh mặt trời, ngoác mồm tiếp tục hú. Những người tụ tập dưới gốc cây hạnh biểu hiện nhiều cách nghĩ khác nhau về tôi. Lão già họ Vương thì lẩm bẩm một câu mà tôi đã nghe đâu đó trong sách vở:
- Quốc gia nguy vong, yêu quái xuất hiện!
Lời của lão ngay lập tức bị Kim Long chặn ngang:
- Ông Vương! Ông ăn nói cẩn thận một tí nhé!
Lão Vương biết mình đã thất thố, dùng tay bịt miệng nói:
- Ai bảo cái miệng này hồ đồ, tôi thật là hồ đồ. Bí thư Lam, ông là đại nhân, chớ trách tiểu nhân làm gì, tha cho tiểu nhân một tội nhỏ nhé!
Lúc này Kim Long đã được kết nạp vào Đảng, giữ chức chi ủy viên kiêm bí thư chi đoàn Thanh niên Cộng sản làng Tây Môn. Đây là thời kỳ anh ta chuẩn bị phất, do thế mà xua xua tay nói:
- Tôi biết ông đã xem “Tam quốc diễn nghĩa” và những bộ sách tà đạo tương tự khác, do vậy mà xúc cảnh sinh tình, nếu không chỉ cần câu này, ông đã bị khép vào tội phản động.
Không khí bỗng trở nên nghiêm trang, Kim Long tranh thủ cơ hội để giáo huấn mọi người. Nó nói, đây là thời kỳ khí hậu khắc nghiệt, cũng là lúc mà bọn phản động của làng Tây Môn sẽ âm thầm nổi dậy. Rồi anh ta tuyên dương tôi là một con lợn có ý thức giác ngộ cách mạng:
- Tuy nó là một con lợn, song ý thức cảnh giác cách mạng so với một số người còn tốt hơn nhiều!
Tôi quá sức đắc ý, quên phắt mục đích báo động của mình. Như một ca sĩ trên khán đài hát thêm theo yêu cầu khán giả, từ trên ngọn cây tôi hít hơi, hú thêm một tràng nữa. Nhưng tiếng hú chưa dứt thì đã thấy ông cầm roi trèo lên cây, bóng roi lấp loáng, tự nhiên tôi hoảng kinh, đầu nặng chân nhẹ, tôi lộn nhào xuống dưới, nửa thân mình chìm trong tuyết dày...
Sau khi giãy giụa để thoát khỏi tuyết, tôi mới phát hiện máu đỏ đang loang lổ trên nền tuyết trắng. Té ra tôi đã nhận của ông một roi trí mạng, tai phải của tôi đã bị rách toạc một miếng khoảng ba phân. Vết thương này sẽ theo tôi suốt cuộc đời hiển hách còn lại, cũng là nguyên nhân làm cho tôi suốt đời lợn chẳng quên được ông. Cho dù sau này tôi đã hiểu tại sao ông độc ác như thế, về lý thì có thể tha thứ cho ông nhưng quả thật là tình lý khó dung hòa.
Tuy tôi nhận của ông một roi và trở thành kẻ tàn tật suốt đời nhưng thảm họa của tôi chẳng là gì cả so với Điêu Tiểu Tam. Dẫu sao việc trèo lên cây giả làm tiếng hú cảnh báo phòng không của tôi cũng có chút vừa đáng giận vừa đáng yêu, nhưng việc chửi bới xã hội, nhục mạ con người và phá hoại chuồng trại của nó thì khó có thể tha thứ. Ông đánh tôi một roi đều bị mọi người phản đối, nhưng Điêu Tiểu Tam bị đánh đến nổi máu huyết dầm dề thì lại được mọi người tán thưởng.
- Đánh chết đồ lợn tạp chủng ấy đi! Mọi người đồng thanh hô vang.
Ban đầu, Điêu Tiểu Tam còn giãy giụa kháng cự, cắn đứt đôi vòng xích khóa cửa chuồng, nhưng một lát sau thì kiệt sức. Vài ba người xông vào chuồng, nắm lấy hai chân sau của nó lôi ra khỏi chuồng vất trên tuyết. Hình như cơn giận của ông chưa nguôi, hai chân khuỳnh ra, cong người vung roi quất liên tục vào thân xác của nó, mỗi ngọn roi vút xuống là một vết máu hiện ra. Cái mặt xanh càng xanh, ông vừa đánh vừa chửi, mỏi tay phải thì thì chuyển sang tay trái. Ban đầu thì Điêu Tiểu Tam còn lăn lộn và kêu thét, song sau vài mươi roi, nó trở thành một đống thịt, nằm im. Mọi người đều biết chẳng qua đánh lợn là một cách để ông phát tiết những uất ức trong lòng mà thôi nên chẳng ai lên tiếng ngăn cản. Cuối cùng thì Kim Long cũng bước ra, giữ lấy tay ông và nói:
- Giải Phóng, đủ rồi!
Máu của Điêu Tiểu Tam thấm đẫm cả một vùng tuyết trắng tinh khiết. Lạ chưa! Máu của tôi thì đỏ, máu của nó lại đen, máu của tôi thánh thiện, máu của nó bẩn thỉu. Để trừng phạt, người ta đeo vào mũi nó hai chiếc vòng đồng, hai chân trước còn tròng thêm vào một sợi xích nặng trình trịch. Những ngày sau đó, nó vẫn cứ phải mang chiếc xích này mà đi lại trong chuồng. Mỗi lần nghe loa phóng thanh truyền vở kịch “Ghi chép về chiếc đèn đỏ”, trong đó có đoạn xướng âm của Lý Bảo Hòa: “Chớ xem chiếc xích đang trói tay và chân của tôi là tất cả, làm sao có thể trói được hùng tâm tráng chí ngất trời của tôi”, tâm tư tôi bỗng nhiên phát sinh một sự kính nể với con lợn ở phía bên kia chuồng, hình như nó là một kẻ anh hùng chân chính, còn tôi chính là tội đồ bán rẻ kẻ anh hùng.
Đúng thế! Trong cuốn “Báo thù”, Mạc Ngôn kể rằng, sắp đến mùa xuân, trại lợn Hạnh Viên gặp phải lúc khó khăn nhất. Thức ăn hết sạch, ngay cả lá đậu cũng chẳng còn. Thứ có thể ăn được duy nhất lúc ấy là vỏ đậu đã mục nát. Trong lúc nguy cấp ấy, Hồng Thái Nhạc lại lâm bệnh nặng, mọi chuyện đổ dồn cho Kim Long. Nhưng lúc này anh ta cũng bị ái tình làm cho điên đảo. Nó vốn yêu Hoàng Hỗ Trợ, tình cảm này đã nhen nhóm từ khi cô bé này phục chế lại bộ đồ quân nhân, hai đứa đã có tình ý từ rất lâu. Nhưng Hoàng Hợp Tác lại công khai tấn công nó và hình như chúng đã có quan hệ mờ ám gì đó. Những bí mật của mối quan hệ tay ba này chỉ có tôi - con lợn thông kim bác cổ này là hiểu rõ nhất, kế đến là ông - Lam Giải Phóng. Tôi thì không quan tâm, còn ông vì yêu Hỗ Trợ nhưng không được đền đáp nên đau khổ và đố kỵ. Đây là cái cớ để ông đánh tôi một roi khi tôi vừa rơi từ trên ngọn cây xuống khiến tôi trở thành kẻ tàn tật suốt đời. Bây giờ nhìn lại chuyện xưa, ông có thấy là chuyện ông đau khổ lúc ấy là vô nghĩa không? Thế sự khó lường, nhân duyên trời định, ông trời đã an bài ông là người thế nào thì sẽ là thế ấy. Cuối cùng thì bây giờ Hỗ Trợ cũng ngủ với ông một giường đó thôi!
Những ngày đông ấy, dường như ngày nào cũng có lợn chết vì đói và rét. Đêm nào tôi cũng không ngủ được vì những tiếng khóc thảm thiết của những con lợn Nghi Mông chứng kiến cái chết của đồng loại. Và cứ mỗi sáng, nhìn qua cửa chuồng tôi thấy ông hoặc ai đó lôi xác lợn chết ra ngoài. Những cái xác lợn chỉ còn da bọc xương. Con lợn hoang hung dữ như sói đã chết, cô nàng trông có vẻ phóng đãng có bộ lông màu lam cũng đã chết. Ban đầu thì bình quân mỗi ngày chết hai ba con, đến hạ tuần tháng mười hai thì đến năm sáu con, riêng ngày hai ba tháng chạp thì chết đến mười sáu con. Tôi tính sơ bộ, đến gần tết thì đã có đến trên hai trăm con về với cõi vô cùng. Linh hồn của chúng xuống âm tào địa ngục hay lên thiên đường, tôi không hề biết, nhưng thi thể của chúng thì bị Kim Long phanh ra trong phòng. Đây là điều tôi không thể quên.
Một đám đông tụ tập dưới đèn quan sát nồi thịt được cắt nhỏ đến từng phân đặt trên bếp lò, chuyện này được Mạc Ngôn miêu tả trong truyện “Ghi chép về việc nuôi lợn” hết sức lâm ly. Nó kể rằng, nồi thịt lợn chết bốc mùi khó ngửi, tanh tanh nhưng người ta vẫn cứ ăn một cách ngon lành... khiến ngày nay người ta đọc lại ai ai cũng thấy ghê tởm. Quả là thằng này tự thân trải qua những ngày khủng khiếp như chốn địa ngục ấy, dưới ngòi bút của nó, những trạng thái tâm lý con người đều bị bóc trần; những gương mặt với những biểu hiện khác nhau hiện ra dưới bóng đèn mờ mờ và ánh lửa bập bùng đều được nó khắc họa sinh động. Hình như nó đã vận dụng hết cảm giác, thị giác, vị giác, thính giác để miêu tả cảnh tượng khiến người ta đọc như nghe thấy tiếng nổ lép bép của củi trong lò, tiếng nước sôi réo trong nồi, tiểng thở và chép miệng của con người. Người ta còn ngửi thấy mùi thịt lợn tanh tưởi bao trùm cả không gian Cao Mật...
Tôi chỉ nói một vài điểm bổ sung chỗ Mạc Ngôn kể chưa đầy đủ thôi. Trong lúc cả trại lợn đang chờ chết, ngay trong đêm cuối năm, tiếng pháo đón chào năm mới đang nổ đì đùng, Kim Long bỗng nhiên vỗ vỗ vào trán mình rồi hét lớn:
- Có cách rồi! Đã có cách cứu trại lợn Hạnh Viên rồi!
Nói thực lòng, vì đói, thịt lợn chết có thể ăn được một hai lần, song đến lần thứ ba, chỉ cần ngửi thấy mùi là đã nôn thốc nôn tháo. Kim Long quyết định đem lợn chết biến thành thức ăn cho lợn sống. Ban đầu, tôi cảm thấy có mùi vị không bình thường trong thức ăn của mình, quyết định ban đêm sẽ lén rời khỏi chuồng để thăm dò nơi xẻ thịt lợn chết, mới biết tất cả bí mật này. Tôi vẫn thừa nhận, với loài động vật xuẩn ngốc như lợn, chuyện ăn thịt đồng loại chẳng có gì là ghê gớm, nhưng với tôi, một con lợn đặc biệt thì đó là một chuyện đau khổ vô bờ bến. Nhưng bản năng cần phải sống đã chiến thắng nỗi đau khổ về tinh thần ấy. Kể ra tôi cũng tự tìm cái khổ thôi. Cứ cho tôi là một con người như tôi vẫn nghĩ thì, người ăn thịt lợn là chuyện hợp lý, hợp quy luật. Còn như tôi là một con lợn đích thực thì sao? Bao nhiêu con lợn khác đang ăn thịt đồng loại một cách ngon lành, việc gì tôi phải dằn vặt mình? Người còn ăn thịt nhau, huống hồ là lợn! Ăn thôi! Nhắm mắt mà ăn thôi! Sau ngày cất tiếng hú cảnh báo phòng không, thức ăn của tôi không có gì đặc biệt nữa, giống như tất cả đồng loại trong trại Hạnh Viên. Tôi biết là không phải họ trừng phạt tôi, mà đích thực là không còn gì để cho tôi ăn cả. Tôi bắt đầu gầy đi trông thấy, táo bón, nước đái vàng khè. Tôi chỉ hơn chúng ở chỗ, đêm đêm tôi có thể ra ngoài để kiếm ít lá rau ở đâu đó nhưng thường không có rau ngon vì tuyết đã vùi sạch. Nếu tôi không ăn thức ăn do Kim Long chế biến thì chắc chắn tôi không qua nổi mùa đông dài dằng dặc để đón mùa xuân, cho dù tôi là một con lợn bác học.
Tôi đã nhìn thấy rõ ràng, Kim Long dùng thịt lợn, bột hạt bông, phân ngựa và nước đái trâu trộn lẫn vào nhau nấu nhừ để có một thứ thức ăn đặc biệt cứu trại lợn năm ấy, trong đó có Điêu Tiểu Tam và có cả tôi.
Mùa xuân năm một nghìn chín trăm bảy ba, thức ăn đã ùn ùn chở về trại Hạnh Viên với số lượng lớn. Cuộc sống đã trở lại. Sáu trăm con lợn đã chết để biến thành chất dinh dưỡng cho hơn bốn trăm con còn sống. Những con lợn còn sống chúng tôi cúi đầu mặc niệm trong ba phút trước những cái chết bi hùng này. Trong lúc tôi đang cúi đầu mặc niệm thì hoa hạnh đồng loạt nở rộ, trăng sáng như nước chiếu rọi cả trại Hạnh Viên. Mùi hoa hạnh thơm nồng như xua đi cái hắc ám của mùa đông và mở ra một mùa xuân ấm áp đang chờ đợi chúng tôi.