- 30 - Dùng tóc thần cứu mạng Tiểu Tam,-Bệnh dịch phát, trại lợn diệt vong.
Tháng tám năm ấy thời tiết nóng bức dữ dội, mưa liên tục như trời bị chọc thủng vậy. Con mương bên cạnh trại lợn lúc nào cũng ăm ắp nước, đất đai bị nước bao phủ. Mười mấy cây hạnh già nua rụng hết lá chờ chết. Trong trại lợn, các loại gỗ dùng để đỡ mái nhà mọc đầy nấm mốc trắng nhờ. Cứt và nước đái lợn thối hoăng, chua loét. Cả trại lợn bốc lên mùi cây mục, mùi thức ăn lên men. Loài ếch nhái lâu nay nấp kín ở đâu đó, bắt đầu rền rĩ chung quanh khiến tôi ngủ không thể yên giấc.
Ở Đường Sơn lại xảy ra một trận động đất dữ dội, ảnh hưởng đến tận trại lợn Hạnh Viên khiến mười mấy cái chuồng vốn xiêu vẹo đã đổ ụp. Mái chuồng tôi cũng rung lên bần bật. Lại một trận mưa đá khủng khiếp với những viên đá to, kèm theo là tiếng rít rợn người xé rách màn đêm đổ xuống. Mặt đất run rẩy. Đúng lúc này, hơn hai mươi lợn nái cũng đã sắp đến ngày sinh nở.
Điêu Tiểu Tam vẫn ở bên cạnh tôi. Sau cuộc chiến, mắt phải của nó đui hẳn, mắt trái còn nhìn thấy mờ mờ. Đó là bất hạnh của nó song cũng làm cho tôi có một chút ân hận. Trong những ngày ấy, có hai con nái được tôi giao phối nhiều lần mà vẫn không mang thai, tôi từng nghĩ là để cho Điêu Tiểu Tam giao phối với chúng, coi như là tôi xin lỗi nó. Không ngờ nó lại lãnh đạm nói:
- Lợn mười sáu! Kẻ sĩ có thể chết nhưng không thể chịu nhục. Điêu Tiểu Tam ta đã chịu thua, mày hãy tự trọng. Không cần phải dùng cách ấy để sỉ nhục tao!
Lời của nó khiến tôi suy nghĩ rất nhiều, tôi đã bắt đầu cảm thấy kính nể nó. Kể từ ngày đánh nhau, tính khí của nó trở nên thâm trầm, sự lố lăng và ba hoa đã biến mất. Việc này có liên quan đến tôi, cũng có thể chẳng liên quan gì đến tôi cả. Những người phục vụ ở trại đem hai con lợn nái không mang thai ấy đến để giao phối với nó. Nó ngồi phía sau chúng, chẳng có một phản ứng gì gọi là động tình, như một tảng đá bất động, trầm mặc. Người ta tưởng nó đã mất khả năng sinh dục và để biến nó thành một con lợn thịt, họ đè nó ra thiến. Đây là một sáng kiến vô liêm sỉ nhất của nhân loại và Điêu Tiểu Tam đã phải chịu nhục hình ấy. Đối với một con lợn chưa hề phát dục, thiến là một chuyện nhỏ, chỉ cần vài ba phút là xong xuôi, song với một con lợn đã thành niên như Điêu Tiểu Tam - chắc chắn đã có một tình sử đầy lãng mạn ở vùng núi Nghi Mông - e rằng phải là một cuộc đại phẫu thuật. Mười mấy tay dân quân đè nó dưới gốc cây hạnh nhưng không dễ gì chế ngự, ít ra có ba người bị nó cắn máu chảy dầm dề. Mỗi người một chân, còn lại đè đầu, đè bụng đè vai... vật ngửa nó ra, đặt ngay bụng nó một chiếc đòn, rồi mấy người đè chặt lấy hai đầu. Mồm của nó cũng bị nhét một viên đá tròn to hơn quả trứng ngỗng. Làm công việc thiến là một lão già đầu hói, tóc chỉ còn lơ thơ vài sợi sau ót và hai bên. Với lão này, tôi đã có một mối thâm thù bản năng. Nghe người ta gọi tên lão, tôi mới nhớ ra lão chính là kẻ đã cướp của tôi hòn dái, đó là Hứa Bảo. Lão đã già lắm rồi, lại mắc bệnh hen suyển, chỉ cần vài cử động là tiếng khò khè đã phát ra. Khi người ta đè Điêu Tiểu Tam ra, lão khoanh tay đứng nhìn một cách thờ ơ. Khi Điêu Tiểu Tam đã bị chế ngự, lão mới dò đến, đôi mắt rực sáng chăm chú nhìn vào giữa hai đùi nó và chỉ bằng một động tác nhanh gọn, hòn dái của Điêu Tiểu Tam đã lòi ra ngoài. Tôi nghe tiếng Kim Long hỏi:
- Chú Bảo, có cần phải khâu lại không?
- Khâu cái con c.! Lão thở hổn hển, văng tục.
Một tiếng hô vang, bọn dân quân đồng loạt buông tay và lùi ra bốn phía. Điêu Tiểu Tam từ từ đứng dậy, nhả hòn đá trong miệng ra. Nỗi đau đớn khủng khiếp khiến nó đứng không vững, lông trên sống lưng dựng đứng, vết thương chảy máu đầm đìa. Nó chẳng kêu, cũng chẳng khóc, chỉ nghiến răng trèo trẹo. Hứa Bảo đứng cạnh gốc cây hạnh, đôi tay đầy máu cầm hai hòn dái của Điêu Tiểu Tam, gương mặt tỏ vẻ hoan hỉ và thỏa mãn. Tôi biết thằng cha này rất thích ăn dái của động vật. Tôi nhớ lại chiêu tuyệt kỹ “Dưới lá trộm đào” của hắn khi tôi còn làm lừa, lão đã lấy của tôi một hòn dái để xào ăn. Mấy lần tôi định nhảy qua tường để cắn dái lão trả hận cho tôi, Điêu Tiểu Tam và tất cả những lợn, trâu, lừa, ngựa khác bị hại dưới tay lão. Từ trước đến nay tôi chưa hề có cảm giác sợ hãi trước con người, nhưng phải thành thực thừa nhận rằng, tôi sợ đồ tạp chủng này. Lão là khắc tinh của giống đực chúng tôi.
Rất khó khăn, Điêu Tiểu Tam mới đi đến chỗ cây hạnh, dùng một bên bụng dựa vào gốc cây rồi nặng nề buông người nằm xuống. Máu chảy loang lổ giữa hai bên đùi nó, thấm ướt cả vạt đất. Giữa lúc thời tiết nóng nực như thế này mà nó vẫn run rẩy. La la la... La ya la ya la ya... bài ca chiếc mũ rơm bỗng nhiên vang lên, nhưng lần này lời ca đã thay đổi: Mẹ a... dái của con đã tiêu ma... Dái mẹ cho đã bị người ta cướp mất a... Nước mắt tôi bỗng dưng trào ra ướt đầm má. Đây là lần đầu tiên tôi thấm thía thế nào là ý nghĩa của câu “bầu ơi thương lấy bí cùng” của người xưa, đồng thời cũng có một chút hổ thẹn vì mình đã dùng thủ đoạn không mấy chính đáng khi đánh nhau với nó. Tiếng Kim Long chửi Hứa Bảo:
- Lão già này! Ông làm cái trò quỷ gì thế? Phải chăng ông đã cắt đứt mạch máu của nó?
- Ông nhỏ à, đừng lo! Loài lợn đực này đều như thế!
- Ông làm cách nào để cầm máu lại, nhanh lên. Chảy máu như thế chỉ có chết thôi!
- Chết à? Chết không phải là tốt hơn sao? Giọng Hứa Bảo lạnh tanh: Con lợn này ít ra cũng hơn hai trăm ký. Thịt lợn đực, tuy có già một tí nhưng suy ra vẫn cứ hơn đậu phụ đấy!
Điêu Tiểu Tam không chết, song tôi biết nó đã từng nghĩ đến cái chết. Một con lợn đực mà bị thiến, không chỉ đau về thể xác mà cả về tinh thần, là một sự sỉ nhục. Máu huyết của nó đã được cây hạnh hấp thụ, đến nỗi những quả hạnh của năm sau bên cạnh màu vàng vẫn chen lẫn màu đỏ như máu. Mất máu quá nhiều khiến thân hình nó trở nên gầy đét, trông bộ dạng nó thật thảm hại.
Tôi nhảy ra khỏi chuồng, chạy đến bên nó định an ủi vài câu, song tìm không ra câu nào thích hợp nên vội vàng chạy đến cạnh gian phòng có chiếc máy phát điện hỏng, bứt vội một ít dây và vài quả bí ngô non, đem đến trước mặt nó, nói:
- Lão Điêu! Anh ăn một tí gì đi. Ăn vào sẽ thấy đỡ hơn một chút...
Nó nghiêng đầu, dùng chút thị lực còn lại của mắt trái chăm chú nhìn tôi. Từ cái mõm ngậm chặt, một âm thanh phều phào cất lên:
- Lợn mười sáu! Ngày hôm nay của ta cũng là ngày mai của bạn... Đó là số mệnh của loài lợn chúng ta...
Vừa nói, nó vừa hạ thấp đầu, xương cốt của nó dường như muốn rời ra từng khúc.
- Lão Điêu! Anh không thể chết! Tôi hốt hoảng la lên.
Điêu Tiểu Tam không trả lời. Nước mắt tôi trào ra. Tôi dày vò, tôi ân hận. Điêu Tiểu Tam nếu chết là do lão Hứa Bảo trực tiếp gây ra, nhưng nguyên nhân sâu xa là do tôi... La la la... La ya la ya la ya... la la... Người anh em, cứ yên tâm mà ra đi. Mong cho linh hồn anh mau mau đến âm phủ, mau gặp Diêm vương để cho anh đầu thai thành người. Anh đừng tiếc nuối gì cả, cứ mà hóa kiếp đi, món hận này tôi sẽ thay anh trả. Tôi sẽ dùng phương thức của Hứa Bảo hại anh để trừng phạt lão...
Trong lúc tôi đang miên man với kế hoạch trả thù thì Bảo Phượng và Hỗ Trợ đến. Có lẽ lúc này Kim Long đang ngồi trên chiếc ghế bằng gỗ biết lúc lắc tại nhà Hứa Bảo để nhấm rượu với món dái lợn đặc biệt. Đàn bà lúc nào cũng thiện lương hơn đàn ông! Mặt Hỗ Trợ đầy mồ hôi, đôi mắt đầy lệ, dường như cô ấy nhìn Điêu Tiểu Tam không phải là lợn mà là người thân. Lúc này đã là tháng ba âm lịch, cách ngày ông kết hôn đã gần hai tháng. Ông đã cùng với Hợp Tác đến làm việc ở xưởng dệt số năm được một tháng.
... Trong thời gian ấy, tôi - Lam Giải Phóng - theo chủ nhiệm kiểm định chất lượng cùng với một nhóm đàn bà con gái đến từ các làng, huyện khác nhau đang làm sạch bông trước khi chế biến. Xưởng gia công sợi bông có diện tích khoảng một nghìn mẫu, có bờ tường bằng đá vây quanh. Đá xây tường được lấy từ những ngôi mộ ở khắp nơi. Đây là sáng kiến độc đáo nhằm tiết kiệm chi phí của Bàng Hổ. Đá mới ba hào một viên, đá đã xây mộ thì ba xu một viên. Trong một thời gian khá dài, tất cả những người ở đây chưa biết tôi và Hợp Tác là vợ chồng, tôi sống ở cư xá nam, cô ấy ở cư xá nữ. Xưởng gia công làm theo thời vụ, không thể bố trí nhà riêng cho các cặp vợ chồng. Nhưng cho dù là có nhà riêng, chắc gì chúng tôi đã sống cùng nhau. Tôi có cảm giác giữa tôi và Hợp Tác đang diễn kịch, giống như sau một giấc ngủ thật dài, có người nói với tôi: Bắt đầu từ hôm nay, cô ấy là vợ anh, anh là chồng cô ấy. Hoang đường! Khó chấp nhận! Tôi không hề có cảm giác gì với Hợp Tác như đã từng có với Hỗ Trợ. Đây là căn nguyên của sự đau khổ suốt đời tôi. Ngày đầu tiên vào xưởng gia công sợi bông, người đầu tiên tôi gặp là Bàng Xuân Miêu. Con bé lúc ấy chỉ khoảng sáu tuổi, môi hồng má đỏ, trông rất khả ái. Con bé đang luyện tập ngay trước công xưởng, mặc chiếc quần sóc xanh và áo sơ mi trắng, vớ hồng giày trắng. Dưới sự cổ vũ của rất nhiều người, con bé uốn gấp lưng, hai tay chống đất, hai chân vắt qua vai, toàn thân cong hình vòng cung, đi chầm chậm. Vương Lạc Vân, mẹ con bé chạy đến, đỡ nó dậy mắng yêu:
- Con gái cưng, sao lại chơi trò nguy hiểm như thế này?
Con bé như không bằng lòng, ngúng nguẩy:
- Mẹ, con đang tập luyện mà...
Cảnh tượng này lúc nào cũng ẩn hiện trong tâm trí tôi, nhưng thời gian trôi chảy cứ vô tình, mãi đến mười mấy năm sau... Lúc ấy, cho dù Gia Cát Lượng tái thế, Lưu Bá Ôn sống lại cũng không thể tiên đoán được là tôi - Lam Giải Phóng - lại bỏ chức quan, bỏ cả gia đình để chạy theo tình yêu với con bé ấy, trở thành một sự kiện tồi tệ nhất trong lịch sử Đông Bắc Cao Mật. Nhưng tôi tin rằng tiếng xấu ấy rồi sẽ có ngày được người ta thấu hiểu để trở thành một câu chuyện tình ly kỳ, lãng mạn. Bạn tôi, Mạc Ngôn, đã từng dự báo như thế lúc chúng tôi đang lâm vào tình thế khó khăn nhất.
Lam - Ngàn - Năm - Đầu - To đập bàn đánh rầm một tiếng, giống như quan tòa thường dùng miếng gỗ gõ xuống bàn khi xử án: Này ông, chớ lạc đề, chớ lẫn lộn lung tung. Nghe tôi nói đây, chuyện của ông sau này sẽ được thời gian và lịch sử kiểm nghiệm. Bây giờ ông hãy tập trung tinh lực nghe tôi kể về lịch sử vinh quang của tôi khi làm lợn đã. Tôi kể đến đâu rồi nhỉ? À, đến đoạn này...
Chị và chị dâu ông, Bảo Phượng và Hỗ Trợ - chị dâu vẫn cứ là chị dâu - vội vàng chạy đến dưới gốc cây hạnh để cứu Điêu Tiểu Tam. Rất nhiều lần rồi, hễ nhắc đến cái gốc cây nghiêng nghiêng rất lãng mạn này thì ông sẽ trào bọt mép mà hôn mê thôi, nhưng bây giờ, cho dù có mang ông đến đặt dưới gốc cây, liệu ông có buông một tiếng thở dài giống như một cựu chiến binh thương tích đầy mình về thăm lại chiến trường xưa hay không nữa? Thời gian quả là một thầy thuốc vĩ đại, cho dù là nỗi đau có sâu sắc đến bao nhiêu rồi cũng phải liền da và bình phục thôi. Mẹ kiếp! Lúc ấy tôi là một con lợn, sao lại có những suy tư triết lý được như thế nhỉ?
Khi Bảo Phượng và Hỗ Trợ đến chữa trị cho Điêu Tiểu Tam, tôi đứng ngay bên cạnh, khóc như một người bạn khóc một người bạn sắp chết vậy. Ban đầu cả hai cũng giống như tôi, đều nghĩ là Điêu Tiểu Tam đã chết. Nhưng sau khi khám nghiệm, phát hiện tim nó vẫn còn thoi thóp đập, Bảo Phượng quyết định dùng loại thuốc quý hiếm chỉ dùng cho người tiêm cho nó, còn muốn khâu lại vết thương. Nhưng trong túi thuốc lại không có kim và chỉ khâu. Hỗ Trợ thật thông minh và nhanh trí, lấy từ vạt áo trước ngực ra một chiếc kim khâu. Ông cũng đã biết là đàn bà đã có chồng thường giắt theo một chiếc kim bên người để làm gì rồi chứ, đúng không? Nhưng còn chỉ khâu? Hỗ Trợ cúi đầu suy nghĩ một lát, rồi ngẩng lên, mặt ửng đỏ, hỏi:
- Dùng tóc chị làm chỉ khâu được không?
- Tóc chị? Bảo Phượng tròn mắt, hỏi.
- Tóc chị rất dài, lại có mạch máu! Hỗ Trợ lí nhí.
- Chị dâu! Giọng Bảo Phượng rất cảm động: Tóc của chị xứng đáng để gắn chặt Kim Đồng Ngọc Nữ với nhau. Bây giờ dùng để cứu một con lợn, thật phí!
- Em! Hỗ Trợ kêu lên: Em nói kỳ quá. Tóc chị cũng giống như lông lợn, bờm ngựa thôi, chẳng đáng một xu. Nếu không phải bị bệnh, chị đã cắt từ lâu rồi. Nhưng tóc chị không cắt được, chỉ nhổ thôi.
- Chị dâu, thật không sao chứ?
Bảo Phượng vẫn tỏ ra nghi ngại. Hỗ Trợ đưa tay nhổ lên hai sợi tóc. Đây quả là hai sợi tóc thần kỳ, quý giá nhất thế gian, dài khoảng gần một thước, vàng óng ánh. Thời ấy, tóc vàng vẫn bị kỳ thị, song thời nay nó được xem là đẹp, là cao quý. Nó to hơn so với tóc thường, có thể dùng mắt để ước lượng độ nặng của nó. Xâu một sợi vào kim, Hỗ Trợ đưa cho Bảo Phượng. Cô ấy dùng cồn rửa sạch vết thương rồi dùng kéo kẹp lại, bắt đầu khâu.
Cả hai đứa đã bắt đầu chú ý đến sự có mặt của tôi, tỏ ra rất thông cảm khi mhìn thấy đôi mắt tôi đầy nước. Vết thương của Điêu Tiểu Tam chỉ dùng một sợi tóc, sợi còn lại bị Hỗ Trợ vứt xuống đất, ngay lập tức Bảo Phượng nhặt lên, cẩn thận dùng vải gói lại và cho vào túi thuốc. Cả hai cùng nhìn Điêu Tiểu Tam, Bảo Phượng nói:
- Sống hay chết tùy thuộc vào nó. Chị em ta đã hết lòng với nó rồi.
Không biết là thuốc hay là sợi tóc của Hỗ Trợ phát huy tác dụng mà vết thương của Điêu Tiểu Tam không chảy máu nữa, nhịp tim cũng trở lại bình thường. Bà Bạch mang đến cho nó một nửa thùng cháo loãng, nó quỳ trên đất mà uống sạch. Nó không chết quả là một điều kỳ lạ, Hỗ Trợ nói với Kim Long là hoàn toàn nhờ vào Bảo Phượng, nhưng tôi thì nghĩ khác. Tôi cho rằng sợi tóc thần kỳ của cô ấy đã cứu sống Điêu Tiểu Tam.
Sau khi bị thiến, Điêu Tiểu Tam không mập nhanh như mọi người hy vọng. Lợn thịt mà mập lúc nào là bị vào lò mổ lúc ấy. Hình như nó ăn rất ít, không chỉ thế, tôi còn biết nó đêm nào cũng tập những động tác thể dục nặng, tập đến khi nào mồ hôi túa ra như tắm mới thôi. Tôi vừa kính trọng nhưng cũng vừa kiêng dè nó, nghĩ mãi không ra rằng, tại sao nó có nghị lực để mà sống sau khi hứng chịu một sự sỉ nhục tồi tệ như thế, không những sống mà ngày đêm còn rèn luyện sức khỏe để làm gì. Trong thâm tâm tôi đã thừa nhận nó là một anh hùng - một anh hùng chân chính tạm gởi thân nơi chuồng lợn. Con dao của Hứa Bảo đã khiến quá trình trở thành anh hùng chân chính của nó nhanh hơn mà thôi. Tôi tin rằng nó chẳng cam tâm nhịn nhục cho đến khi chết già trong chuồng lợn này mà đang hoạch định một kế hoạch nào đó, có lẽ nó sẽ bỏ trốn nay mai thôi. Nhưng với đôi mắt mù, sau khi trốn nó sẽ làm gì?
Trước khi những con lợn nái đẻ mấy ngày, tức là ngày hai mươi tháng tám năm một ngàn chín trăm bảy sáu, một căn bệnh truyền nhiễm quái ác đã lây lan khắp trại lợn.
Hôm ấy con lợn đực có tên là Húc Đầu bỗng dưng lên những cơn ho dữ dội và phát sốt, bỏ ăn. Bốn con lợn đực cùng chuồng cùng tên cũng có những triệu chứng tương tự. Những người phục vụ chẳng thèm quan tâm gì cả, vì họ vốn có ác cảm với năm con lợn này từ trước. Bọn lợn này chẳng chịu lớn, nếu nhìn từ xa thì bọn chúng chẳng khác gì so với những con lợn có ba đến năm tháng tuổi, nhưng nhìn kỹ mới phát hiện được lông của bọn chúng rất khô, da dày và thô. Chúng ăn nhiều nhưng trọng lượng chẳng hề tăng. Hình như bọn này không có ruột non ruột già gì cả mà thức ăn chỉ lọt qua cổ rồi chảy đến dạ dày, rồi từ dạ dày chảy qua hậu môn thôi. Cho dù thức ăn gì, dù ngon hay dở, sau khi ăn chỉ một tiếng đồng hồ là thấy lộn trở ra đầy chuồng theo đường hậu môn rồi. Chính vì vậy mà lúc nào chúng cũng đói, kêu vang suốt ngày đêm. Nếu không cho ăn kịp, chúng dùng đầu húc vào tường, vào cổng chuồng như bọn điên, húc đến khi nào hôn mê bất tỉnh mới thôi, khi tỉnh dậy lại tiếp tục kêu và húc. Thường thì những người đã lỡ mua phải chúng, chỉ cần sau hai tháng là đã bán thốc bán tháo. Có người đã đề xuất ý kiến, cứ giết thịt chúng đi cho khỏe, nhưng tôi tin rằng sau khi đã thấy chúng, họ sẽ lập tức bỏ ngay ý định ấy, bởi thịt của chúng so với cứt trong các nhà xí công cộng e rằng còn đáng sợ hơn. Do vậy mà chúng mới kéo dài sự sống đến như vậy. Ở vùng Nghi Mông chúng đã được bán đi bán lại nhiều lần, cuối cùng thì người ở đấy cũng đã lừa được Kim Long với giá thật hấp dẫn. Quá rẻ, chưa đến năm đồng mỗi con! Ông không thể nói chúng không phải là lợn được đâu! Trong trại lợn Hạnh Viên, số lượng lợn loại này nhiều nhất!
Với những con lợn như thế mà ho, bỏ ăn và phát sốt cũng không làm cho mọi người để ý. Người phụ trách chăm sóc chúng, cho ăn và làm vệ sinh cho chúng không ai khác hơn là người mà tôi đã đề cập đến rất nhiều, sau này còn nhiều hơn nữa. Đó là Mạc Ngôn tiên sinh. Thằng này đã bằng mọi cách để trở thành người phục vụ trong trại lợn. Cuốn sách “Ghi chép về chuyện nuôi lợn” làm cho nó nở mày nở mặt sau này, tất nhiên có liên quan đến những điều nó lượm lặt được trong quá trình phục vụ trong trại lợn Hạnh Viên. Nghe đâu vị đạo diễn nổi tiếng Bạch Ca Man muốn đưa bộ tiểu thuyết này lên màn bạc, nhưng không hiểu ông ta sẽ tìm đâu ra nhiều lợn đến như thế để quay phim? Tôi đã nhìn thấy những con lợn hiện nay, cũng giống như gà vịt, ăn quá nhiều chất hóa học và thuốc độc để tăng trọng cho nên nhìn con nào cũng ngu ngu đần đần, điên điên khùng khùng, làm sao mà bì được với chúng tôi trong thời kỳ bảy mươi của thế kỷ trước. Chúng tôi ngày ấy thân thể tráng kiện, trí tuệ bất phàm, đứa nào cũng có cá tính riêng, nói chung là đầy sức sống! Thật khó mà tìm ở đâu ra trên trái đất này những con lợn như chúng tôi. Lợn bây giờ, chỉ cần sau năm tháng đã có thể nặng đến vài trăm cân, làm sao có thể đóng vai quần chúng được chứ? Cho nên, ý tưởng dựng phim “Ghi chép về chuyện nuôi lợn” của Bạch Ca Man nhanh chóng sẽ tan biến như bong bóng xà phòng thôi. Vả lại, tìm đâu ra những diễn viên lợn sắm vai Lợn mười sáu tôi; ngay cả sắm vai Điêu Tiểu Tam, Mê Hồ Điệp còn khó kiếm nữa là!
Cho dù Mạc Ngôn đến bây giờ vẫn cho mình là đại diện của nông dân Trung Quốc, đã từng gởi thư cho ủy ban Olimpic quốc tế, kiến nghị đưa vào chương trình thi đấu trong các kỳ đại hội một môn mới, đó là thi cuốc đất. Nếu có, anh ta sẽ đăng ký tham dự với tư cách là một vận động viên. Thực ra thì anh ta đang lòe mọi người đấy thôi, nếu ủy ban quốc tế có đưa môn này vào thi đấu thật, chắc gì anh ta đã đoạt huy chương. Kẻ lừa lọc sợ nhất là người cùng làng. Anh ta có thể lừa được người Mỹ, người Pháp, cũng có thể lừa được người Thượng Hải, Bắc Kinh song tuyệt đối không lừa được người làng Tây Môn. Những chuyện tồi tệ của anh ta ở trại Hạnh Viên, dễ gì qua được mắt tôi. Tuy tôi là lợn nhưng trí não có khác gì con người, thậm chí với tư cách lợn, tôi cũng có cơ hội hiểu rõ bản chất xã hội, hiểu rõ quê hương và đặc biệt là hiểu rõ Mạc Ngôn hơn.
Thực ra Mạc Ngôn chưa bao giờ là một nông dân thực thụ. Anh ta gởi thân ở xóm làng nhưng tâm tư lại hướng về phố phường, xuất thân vốn bần tiện nhưng mơ ước cao xa, tướng mạo xấu xí nhưng đua đòi gái đẹp, kiến thức hẹp hòi nhưng tự cho mình như một ông tiến sĩ... Người như thế mà lại trở thành nhà văn, nghe nói ngày ngày ở Bắc Kinh ăn sủi cảo, mà tôi - đường đường là Tây Môn Náo - lại chấp nhận kiếp sống của một con lợn. Ôi, cuộc đời quả là nực cười, nói nhiều cũng vô ích thôi!
Khi làm người nuôi lợn, Mạc Ngôn cũng chưa hề là một người có trách nhiệm. Phúc đức cho tôi là không rơi vào tay anh ta chăm sóc. Người ta để bà Bạch lo cho tôi, đó là vận may của tôi. Tôi đã từng nghĩ rằng, cho dù là con lợn tốt đến mức nào, rơi vào tay Mạc Ngôn chỉ một tháng, không chết cũng điên. Mấy con lợn tên là Húc Đầu kia trong rủi có may, nếu không điên sẵn, làm sao chịu nổi cách chăm sóc của anh ta?
Thực ra, nói một cách công bằng, động cơ ban đầu để Mạc Ngôn đến với trại lợn cơ bản là tốt. Anh ta là đứa hiếu kỳ, lại thích chọc phá. Ban đầu anh ta cũng chẳng ác cảm lắm với những con Húc Đầu này. Anh ta cho rằng sở dĩ những con lợn này không lớn là vì thời gian thức ăn lưu lại trong bụng chúng quá ngắn. Nếu khắc phục được nhược điểm này, nghĩa là phải có thời gian để cho thức ăn tiêu hóa và năng lượng được hấp thụ, lợn sẽ lớn. Suy nghĩ này quả là chính xác. Sau đó thì anh ta bắt đầu thử nghiệm. Cách thức sơ đẳng nhất là làm một cái van nút lỗ đít chúng lại, mở đóng là do người điều khiển. Tất nhiên cách này chẳng đem lại hiệu quả gì, anh ta bèn nghĩ đến chuyện cho thuốc cầm ỉa vào thức ăn. Cách này xem chừng hiệu nghiệm, dễ thực hiện vì đông y hay tây y đều có loại thuốc này, nhưng giá cả lại quá cao, người uống còn đắt huống chi là lợn. Nó bèn tìm các loại cây cỏ có dược chất, đốt cháy lấy tro trộn vào thức ăn, kết quả là bầy Húc Đầu này chửi rủa mắng nhiếc không thôi, lại húc đầu vào tường dữ tợn hơn. Mạc Ngôn vẫn không từ bỏ ý định, tiếp tục cho ăn kiểu ấy. Vì đói, bọn lợn này đành phải cúi đầu mà ăn. Tôi đã từng nghe anh ta gõ gõ vào thùng đựng thức ăn, nói với bọn lợn: Ăn đi, ăn nhiều vào! Ăn tro thì mắt sáng, ăn tro lòng trong sáng, ăn tro làm bao tử khỏe mạnh! Ăn tro cũng vô hiệu, Mạc Ngôn bèn cho xi măng vào thức ăn. Cách làm này xem ra có hiệu quả, bọn lợn ỉa thưa dần, song bọn chúng ngày càng gầy và có nguy cơ tử vong. Bọn chúng đều đau bụng dữ dội, lăn lộn trên nền chuồng và cuối cùng ỉa ra mấy viên cứt giống như đá cuội mới thoát khỏi lưỡi hái thần chết.
Bọn Húc Đầu này hận Mạc Ngôn đến khắc cốt ghi xương, còn Mạc Ngôn thì bắt đầu ghét cay ghét đắng bọn vô phương chữa trị này. Lúc ấy ông và Hợp Tác đã vào làm việc ở xưởng gia công sợi bông số năm khiến Mạc Ngôn cũng muốn đổi đời. Anh ta xách một thùng thức ăn vào chuồng, lúc này bọn Húc Đầu đang ho dữ dội và sốt rất cao, nói một cách độc ác:
- Bọn yêu quái này, làm sao vậy? Định tuyệt thực, định tự sát à? Tốt thôi, bọn mày chết thì tao càng mừng. Bọn mày chẳng phải là lợn, không đáng được gọi là lợn. Bọn mày đúng là một bọn phản cách mạng vì đã làm lãng phí không biết bao nhiêu là tài sản của nhân dân.
Sang ngày thứ hai, bọn Húc Đầu bắt đầu kêu la thảm thiết. Trên thân thể chúng xuất hiện những nốt đỏ tím to bằng đồng xu, mắt chúng trừng trừng, xem chừng chúng chết mà chẳng kịp nhắm mắt. Như tôi đã nói, tháng tám năm ấy mưa không ngớt, nóng và ẩm ướt, ruồi muỗi nhiều kinh khủng. Khi ông bác sĩ ở trạm thú y công xã đến trại Hạnh Viên thì bụng những con Húc Đầu đã to như cái trống, những nốt đỏ đã lở loét, thối inh. Ông ta đứng ngoài chuồng, mặc quần áo phòng dịch, bao tay, đeo khẩu trang kín mít và buông gọn một câu:
- Bệnh dịch ban đỏ cấp tính! Phải thiêu xác và chôn ngay!
Những người phục vụ trong trại lợn, trừ Mạc Ngôn, dưới sự chỉ huy của ông bác sĩ lôi năm con Húc Đầu ra khỏi chuồng, kéo đến tận góc trại phía Nam, đào một cái hố. Chỉ đào đựợc nửa mét thì nước ngầm đã trào ra. Họ ném những con lợn xấu số xuống đó, đổ xuống một ít dầu lửa và đốt. Lúc này gió Đông Nam thổi mạnh, mang theo mùi hôi thối lan tỏa khắp trại lợn rồi lan đến cả làng Tây Môn. Bọn người ngu xuẩn! Chọn chỗ đốt xác mà chọn ngay đầu gió. Tôi vùi mõm xuống đất bùn để khỏi phải hít cái mùi tởm lợm ấy. Sau này tôi mới biết, ngay trong đêm ấy, Điêu Tiểu Tam đã trốn khỏi trại, bơi qua sông để đi tìm cuộc sống tự do hoang dã. Do vậy mà không khí dịch bệnh ở trại lợn không hề ảnh hưởng đến sức khỏe của nó.
Những sự việc diễn ra sau đó, nhất định ông phải biết, nhưng ông chẳng hề quan tâm. Bệnh dịch lây lan nhanh khủng khiếp. Tám trăm con lợn, trong đó có hơn hai trăm con đang có chửa sắp đến ngày sinh nở cũng không thoát khỏi trận dịch này. Tôi không bị lây, một phần là do tôi ăn ở rất vệ sinh, thân thể khỏe mạnh, một phần là do bà Bạch đã trộn nhiều tỏi vào trong thức ăn của tôi. Vừa cho tôi ăn bà vừa cổ vũ tôi:
- Lợn mười sáu à! Cố gắng lên, đừng ngại cay. Ăn nhiều tỏi dịch bệnh không thể lây được.
Tôi biết bệnh dịch này nguy hiểm vô cùng, so với việc mất mạng thì cay một tí có đáng gì? Tỏi cay xè khiến nước mắt nước mũi tôi chảy ròng ròng, mồ hôi túa ra như tắm. Nhờ đó, tôi thoát khỏi bệnh dịch đáng sợ này.
Hàng loạt con lợn bị lây bệnh khiến những bác sĩ ở trạm thú y lại vượt sông đến trại lợn Hạnh Viên, trong số đó có một phụ nữ mặt mũi thô kệch, người ta gọi bà ta là trạm trưởng. Hành động và lời nói của bà ta rất dứt khoát và quyết đoán. Mỗi lần bà ta gọi điện thoại từ văn phòng trại lợn về huyện, cách xa hàng cây số vẫn có thể nghe giọng bà ta gào trong máy. Dưới sự chỉ huy của bà trạm trưởng này, các bác sĩ chích thuốc cho những con lợn bị dịch, ngày nào cũng có một chiếc ca nô mang thuốc từ huyện về trại, song không thể cứu vãn được tình thế. Hầu hết những con lợn nhiễm bệnh đều chết. Hạnh Viên lừng lẫy một thời bỗng trở nên hoang vắng tiêu điều. Xác lợn chết chất chồng như núi, không thể đốt hết, đành phải đào hố mà chôn. Hố chôn xác cũng không thể đào sâu được vì chỉ cần nửa mét thì nước đã ngập ứ. Mọi người bó tay đành phải làm liều. Buổi tối, chờ cho bác sĩ trở về huyện, mọi người vất xác lợn chết lên xe, đẩy thẳng ra bờ sông, vất xuống dòng nước đang chảy cuồn cuộn. Xác lợn cứ theo dòng nước mà trôi, chẳng biết sẽ cập vào chỗ nào.
Xử lý xác lợn xong thì đã đầu tháng chín, sau mấy trận mưa lớn nữa. Những chuồng lợn trống rỗng vốn làm qua loa đại khái làm sao chịu nổi những trận mưa to gió lớn, cho nên sập hơn một nửa. Tôi nghe rõ ràng tiếng khóc của Kim Long. Anh ta tính tình vốn bốc đồng, lại nhiều tham vọng. Anh ta hy vọng rằng, sau mùa mưa này sẽ có một đoàn tham quan của cục hậu cần quân khu về tham quan trại Hạnh Viên, lúc ấy anh ta sẽ có cơ hội thể hiện tài hoa của mình để tìm cách thăng tiến. Cơ hội ấy đã mất, lợn chết chuồng đổ, chỉ còn một đống hoang tàn. Ngay cả tôi khi nằm nhìn cảnh điêu điều của trại lợn cũng bất giác nhớ lại thời gian hiển hách của nó mà không nén nổi tiếng thở dài.