- 31 - Mạc Ngôn bám đuôi nịnh Tiểu Thường,-Mặt Xanh phẫn uất khóc Chủ tịch.
Ngày chín tháng chín, chuyện kinh động đất trời Trung Quốc và thế giới đã xảy ra. Mao Chủ tịch của các ông vì bệnh nặng đã từ trần. Đương nhiên là tôi có thể nói Mao Chủ tịch của chúng ta, song lúc này tôi là một con lợn, nếu nói như vậy e rằng đại bất kính. Những ngày ấy mưa gió mù mịt, nước sông vượt qua con đê nhỏ chảy vào đồng làm gãy mấy cây cột mắc dây khiến điện thoại và đài truyền thanh của thôn hoàn toàn câm bặt. Biết được Mao Chủ tịch đã qua đời là do Kim Long mở radio nghe được. Chiếc radio này là do Thường Thiên Hồng tặng cho anh ta.
Thường Thiên Hồng đã từng bị ủy ban quân quản bắt vì tội lưu manh, nhưng sau đó được thả ra vì không đủ chứng cứ. Thế sự đảo điên, anh ta lại được bố trí làm phó đoàn kịch của huyện. Đã từng là sinh viên cao đẳng Học viện Âm nhạc, được làm phó đoàn đúng sở trường, ngoài việc dàn dựng tám vở kịch lưu hành thời Cách mạng Văn hóa cho đoàn, anh ta còn lấy trại lợn Hạnh Viên làm bối cảnh và chủ đề, tự biên tự diễn vở kịch “Ghi chép về chuyện nuôi lợn”. Trong tiểu thuyết cùng tên, Mạc Ngôn cũng nói qua về chuyện này, nhưng tôi đoán một nửa là nó đạo văn của Thường Thiên Hồng. Để viết vở kịch này, Thường Thiên Hồng đã đến trại lợn Hạnh Viên nắm bắt thực tế. Chuyện này là có thực, kể cả chuyện Mạc Ngôn cứ lẳng nhẳng bám đuôi anh ta cũng có thực, nhưng chuyện nó nói là có tham gia viết và biên tập vở kịch là nói láo. Trong vở kịch cách mạng hiện đại này, phải nói là tay họ Thường kia có sức tưởng tượng cực kỳ phong phú. Anh ta để những con lợn nói năng và kết bè kết phái lung tung. Một phái gồm những con lợn ưu tú, sẵn sàng vì cách mạng mà ăn nhiều, ngủ tốt để mau béo; phái khác là những con lợn phản động, kẻ thù của giai cấp, do con lợn hoang Điêu Tiểu Tam cầm đầu và bọn tay chân chính là mấy con Húc Đầu ăn nhiều nhưng không lớn nhằm chống phá cách mạng. Trong trại lợn, không chỉ có người đấu tranh với người mà cả lợn cũng đấu tranh với nhau, mà đây là chủ đề chính của vở kịch, con người trở thành nhân vật phụ cho lợn. Lúc còn ở học viện, anh ta học âm nhạc phương Tây cho nên hiểu rộng về ca kịch Tây. Do vậy, anh ta không chỉ sáng tạo nội dung mới mà còn cách tân ngay trong những làn điệu ca và âm nhạc phối hợp. Trong vở kịch, anh ta thiết kế cho nhân vật chính - Vua Lợn - có tên là Tiểu Bạch, một khúc tự cảm thán rất dài, đây chính là đoạn hay nhất trong vở kịch khiến cho tôi có cảm giác anh ta lấy tôi làm nguyên mẫu cho Tiểu Bạch. Nhưng trong phần viết thêm của tiểu thuyết “Ghi chép về chuyện nuôi lợn” thì Mạc Ngôn cứ khăng khăng rằng, Tiểu Bạch chỉ là nhân vật hoàn toàn hư cấu, tượng trưng cho những lực lượng trẻ say mê tiến bộ, theo đuổi tự do và hạnh phúc, không có nguyên mẫu nào cả. Thật là giản đơn, thật là thô lậu! Tôi biết Thường Thiên Hồng rất tâm huyết với vở kịch này, tốn công tốn sức để kết hợp kịch truyền thống và kịch phương Tây hiện đại, kết hợp hiện thực với lãng mạn, kết hợp nội dung cách mạng nghiêm túc với nghệ thuật diễn xuất phương Tây trong đó. Nếu Mao Chủ tịch mất chậm vài năm thì Trung Quốc đã có thể có thêm một vở kịch mới, vở kịch mẫu thứ chín mang tên “Ghi chép về chuyện nuôi lợn ” ở vùng Đông Bắc Cao Mật.
Ký ức tôi vẫn còn lưu giữ cái đêm trăng Thường Thiên Hồng tập hợp nào là Kim Long, Bảo Phượng, Hỗ Trợ, Hợp Tác, Mã Lương Tài - lúc này là hiện tượng của trường tiểu học Tây Môn, có cả Mạc Ngôn và nhiều người khác dưới gốc cây hạnh nghiêng, tay cầm bản thảo, Thường Thiên Hồng đang xướng thử đoạn vua lợn Tiểu Bạch cảm thán. Mạc Ngôn một tay cầm cái bình nhỏ, trong bình là những thứ mà Thường Thiên Hồng chuẩn bị để ngậm cho thanh giọng, một tay cầm quạt, phe phẩy cho anh ta. Điệu bộ nịnh bợ của nó khiến cho mọi người ác cảm. Té ra nó dùng cách thức này để tham gia sáng tác vở kịch “Ghi chép về chuyện nuôi lợn” đấy!
Mọi người chắc còn nhớ, người trong làng Tây Môn đã đặt cho Thường Thiên Hồng cái biệt danh là “Lừa kêu lớn”. Đây là một cách gọi không mấy thiện cảm. Trải qua mười mấy năm, cái nhìn của dân làng Tây Môn cũng đã đổi khác, đối với Thường Thiên Hồng và tài năng ca hát của anh ta, họ đã tỏ ra kính trọng. Ngay cả Thường Thiên Hồng cũng đã rất khác nếu so với những lần về làng Tây Môn trước đây. Cái vẻ mặt vênh váo khiến mọi người dễ sinh ác cảm không còn nữa, thay vào đó là một khuôn mặt dạn dày, từng trải, đôi mắt chất chứa nhiều u uất, nước da trắng xanh, dưới cằm râu ria lởm chởm, mái tóc đã lốm đốm bạc. Mọi người đều nhìn anh ta thân thiện lẫn kính trọng, chăm chú chờ nghe anh ta biểu diễn.
Ngực tôi tì hẳn xuống cành cây hạnh đang đung đưa để nhìn cho rõ quang cảnh và chàng thanh niên khả ái ấy. Bảo Phượng đang quàng vai Hỗ Trợ, chăm chú nhìn gương mặt xanh gầy và mái tóc uốn lượn tự nhiên của Thường Thiên Hồng. Gương mặt Bảo Phượng chìm trong bóng tối nhưng ánh mắt vẫn lộ vẻ u buồn. Cả trại lợn ai cũng biết, Thường Thiên Hồng đã đính hôn với Bàng Kháng Mỹ, cô sinh viên chăn nuôi sau khi tốt nghiệp đã về nhận công tác ở phòng quản lý chăn nuôi của huyện, nghe đâu là đến ngày Quốc khánh sẽ tiến hành hôn lễ. Trong thời gian anh ta thực tế ở trại lợn, Kháng Mỹ đã ghé thăm anh ta hai lần. Đúng là một cô gái xinh đẹp, học thức, tính cách cởi mở dễ gần, đặc biệt là không hề có ý thức phân biệt giữa cán bộ cốt cán với nông dân, khiến cả làng Tây Môn đều có ấn tượng cực kỳ tốt khi tiếp xúc với cô ta. Công việc chính là quản lý số lượng gia súc trong toàn huyện, cho nên mỗi lần về đến làng là cô ta chạy ngay xuống các trại để kiểm kê số lượng lừa, ngựa, la, trâu. Có lẽ trong thâm tâm, Bảo Phượng cũng biết rằng Bàng Kháng Mỹ xứng đáng vời Thường Thiên Hồng hơn mình, còn cô ta dường như cũng hiểu được tâm sự của Bảo Phượng. Có lần tôi nhìn thấy cả hai thì thầm gì đó rất lâu dưới gốc cây hạnh nghiêng, cuối cùng thì Bảo Phượng ôm lấy vai Kháng Mỹ khóc nức nở, còn mặt Kháng Mỹ cũng đầy nước mắt.
Đoạn diễn thử của Thường Thiên Hồng dài đến ba mươi câu. Đoạn mở đầu như sau: Đêm nay sao trời lấp lánh, gió nam đưa hương hoa hạnh thơm lừng khó lòng ngủ được. Tiểu Bạch tôi đứng đây ngắm trời xanh, như đang trông thấy cờ hồng phấp phới khắp năm châu bốn biển. Mao Chủ tịch kêu gọi toàn quốc chăm lo nuôi lợn... Một con lợn là một viên đạn bắn thẳng vào chủ nghĩa đế quốc phản động, Tiểu Bạch tôi có nhiệm vụ trọng đại là phải giao phối với tất cả lợn cái trên thế gian này...
Dường như Thường Thiên Hồng đang nói về tôi thì phải, bởi vì không phải anh ta đang hát mà chính tôi đang hát về mình, hát những lời tận đáy lòng. Chân trước của tôi bắt nhịp theo lời ca, toàn thân như đang bốc lửa, dái căng cứng, của quý thò cả ra ngoài như muốn cùng tất cả lợn cái giao phối ngay lập tức, vì con người vì nhân dân mà tạo phúc, tiêu diệt đế quốc phản động, giải phóng tất cả loài người đang ngập ngụa trong bóng đêm hắc ám của chủ nghĩa đế quốc bạo tàn. Đêm nay trời lấp lánh... A! Đúng là sao sáng đầy trời, nhiệt tình hừng hực, cả người và lợn đều không thể ngủ.
Giọng Thường Thiên Hồng rất cao, rất khỏe và hùng tráng, động tác rất chuẩn xác, không thừa không thiếu. Ban đầu, tôi còn chú ý đến nội dung ca từ, song sau một vài đoạn, ca từ dường như không còn quan trọng nữa mà tôi như say như mê trong dòng âm thanh của anh ta. Cho dù trên thế gian này không biết bao nhiêu là nhạc cụ, cho dù bao nhiêu loài động vật có thể có những tiếng kêu rất đặc biệt, chẳng hạn trong tiểu thuyết Nga thường nói đến tiếng chim oanh ban đêm, tiếng chim họa mi của người Trung Quốc, tiếng kêu của cá kình ngoài đại dương... quả thật đều rất tuyệt vời nhưng đều không thể so sánh được với giọng ca cao ngất của Thường Thiên Hồng. Mạc Ngôn chẳng biết tí gì về âm nhạc phương Tây, sau khi đến thành phố hình như có được nghe một vài buổi hòa nhạc, đọc qua vài cuốn sách nghiên cứu về âm nhạc mới có được một chút kiến thức, trong các bài viết của mình, nó đã từng ví giọng của Thường Thiên Hồng với các danh ca trên thế giới. Tôi chưa từng được gặp các danh ca tầm cỡ thế giới, chưa từng nghe họ hát, song tôi chẳng thèm nghe họ, chẳng thèm gặp họ đâu, trước sau tôi vẫn tin tưởng rằng giọng của Thường Thiên Hồng là hay nhất thế giới.
Khi anh ta cất giọng, trên đầu anh ta lá cây kêu lên xào xạc, run rẩy. Những nốt nhạc lượn lờ trên không trung giống như những dải lụa đào nhảy múa, như tiếng ngọc ở Côn Sơn vỡ, như phượng hoàng kêu, lợn đực mê man lợn cái nhảy nhót. Nếu Mao Chủ tịch mất muộn vài năm, vở kịch này nhất định sẽ nổi tiếng. Trước tiên là sôi động ở huyện, rồi sôi động ở tỉnh và cuối cùng là thẳng đến Bắc Kinh, biểu diễn trong nhà Thái Miếu... Cứ như thế, Thường Thiên Hồng sẽ trở thành một kịch tác gia danh tiếng và vùng Đông Bắc Cao Mật sẽ chẳng còn cách nào để giữ được anh ta, cuộc hôn nhân giữa anh ta và Bàng Kháng Mỹ chắc chắn sẽ không thành. Nhưng thực tế thì vở diễn đã không thành hiện thực, thật đáng tiếc. Điểm này Mạc Ngôn đã giải thích. Nó cho rằng, vở kịch này là sản phẩm đặc trưng của một thời kỳ lịch sử, vừa có vẻ hoang đường nhưng cũng có vẻ trang nghiêm, là điển hình sinh động cho chủ nghĩa hậu hiện đại. Lời của nó tôi chẳng hiểu gì cả, cũng chẳng quan tâm, chỉ tiếc một điều là không biết đến bây giờ kịch bản của nó vẫn còn hay đã mất.
Có lẽ tôi đã kể quá nhiều về chuyện viết kịch và diễn kịch của Thường Thiên Hồng, một chuyện chẳng ăn nhập gì đến cốt truyện chính. Bây giờ tôi sẽ kể về chiếc radio. Chiếc máy hiệu Hồng Đăng do xưởng cơ khí vô tuyến điện thành phố Thanh Đảo sản xuất này là do Thường Thiên Hồng tặng cho Kim Long nhân ngày anh ta cưới vợ. Thực ra chuyện Thường Thiên Hồng tặng chẳng qua là danh nghĩa, còn người mua nó từ Thanh Đảo về lại là Bàng Kháng Mỹ nhân một chuyến đi công tác. Tuy gọi là quà của Kim Long, song lại là do chính Kháng Mỹ đưa tận tay cho Hỗ Trợ, đồng thời cũng hướng dẫn cách cắm điện, tắt mở và bảo quản như thế nào. Là một con lợn đêm nào cũng đi rong chơi, tôi đã chứng kiến chuyện này. Trong lễ cưới của mình, trước tất cả quan khách, Kim Long đặt chiếc radio trên chiếc bàn ở giữa, chọn âm lượng lớn nhất, rõ nhất để cho tất cả mọi người vây chung quanh cùng nghe. Ở làng Tây Môn, đây là chiếc radio đầu tiên nên ai nấy đều tò mò và thèm muốn, cố gắng chen đến gần. Ai cũng muốn đưa tay sờ thử xem nó ra làm sao, nhưng chẳng ai dám. Một chiếc máy quý như vậy, chắc giá cả cũng không phải tầm thường, đụng vào lỡ sẩy tay, hỏng hóc bồi thường sao nổi. Chỉ có Kim Long dùng một vuông vải đỏ chà nhẹ trên lớp vải ngoài. Ai nấy đều trố mắt dỏng tai nghe một bài ca từ đó phát ra: Núi đỏ rực khi các loài hoa bắt đầu nở... Tiếng hát thế nào chẳng ai quan tâm, điều họ quan tâm là làm sao mà cô gái ấy lại thu gọn người trong cái máy chỉ cao nửa gang tay và dài không đầy một gang mà nói, mà hát. Tôi không ngu như họ, kiến thức về điện tử, tôi có biết chút ít. Tôi biết lúc này trên trái đất không những có radio mà còn có cả loại thần kỳ gấp bội so với radio mà người ta gọi đó là tivi. Tôi còn biết người Mỹ đã lên tới mặt trăng, Liên Xô đã phóng tàu vũ trụ và nhiều thứ nữa... Tôi nói “họ” ở đây không bao gồm Mạc Ngôn. Từ tờ “Tin tức tham khảo”, anh ta đã biết được nhiều thứ, nói như người xưa là “Trên thông thiên văn dưới tường địa lý”. Ngay cả bọn chuột, bọn chồn ẩn nấp trong đám cây mục chung quanh cũng bị chiếc radio làm cho sửng sốt. Tôi nghe rõ ràng tiếng một con chuột cái hỏi một con đực: “Cô này nằm trong ấy mà hát, có phải thân thể của cô ấy chỉ bằng em không hả anh?” - “Bằng cô à?” Chuột đực nói xong, nhổ một bãi nước bọt rồi yên lặng theo dõi cảnh tượng trước mắt.
Hai giờ chiều ngày chín tháng chín, bầu trời nhiều mây đen, gió Tây Bắc cấp bốn cấp năm. Người nông dân phương Bắc Trung Quốc đều cho gió Tây Bắc là chìa khóa mở cổng nhà trời. Mây đen cũng trùm lên trại Hạnh Viên. Dưới đất, hơi nước mù mịt, cóc nhái nhảy lổn ngổn trong trại. Mười mấy nhân viên trại lợn đang quét vôi lại những chuồng trại chưa đổ sụp. Lợn chết sạch khiến quang cảnh trại chăn nuôi trở nên tiêu điều, gương mặt ai cũng dàu dàu. Họ quét vôi tường chuồng tôi ở, còn quét lên cả cành hạnh vươn vào trong chuồng. Nước vôi có thể diệt những con vi trùng truyền dịch không? Họ chỉ làm cho vui, cho có lệ thôi mà! Qua những lời trao đổi của họ, tôi biết toàn trại chỉ còn lại bảy mươi con lợn, kể cả tôi. Kể từ ngày bệnh dịch phát sinh, tôi không dám đi lại nhiều vì sợ bị lây. Tôi rất muốn biết, bảy mươi con lợn còn sống ấy là những con nào, liệu mười lăm anh chị của tôi còn sống không?
Đang lúc tôi còn suy nghĩ vẩn vơ, đang lúc những người quét vôi bàn tán về tiền đồ của trại lợn, đang lúc bà Bạch say sưa ngắm một con chim lạ to lớn, có bộ lông rất đẹp và dài không biết từ đâu bay đến đậu trên cây hạnh nghiêng rồi la lên rất phấn khởi: “Phượng hoàng!”... thì Kim Long ôm chiếc radio chạy ra khỏi phòng. Mặt anh ta trắng bệch, thần thái hoảng loạn, mắt mở trừng trừng, kêu lên bằng một giọng khản đặc:
- Mao Chủ tịch mất rồi!
Mao Chủ tịch đã mất! Không phải nói nhầm đấy chứ? Không phải loan tin đồn nhảm đấy chứ? Nói Mao Chủ tịch chết có khác nào anh ta tự đi tìm cái chết? Mao Chủ tịch tại sao lại có thể chết? Chẳng phải là người ta đã từng nói là Mao Chủ tịch có thể sống đến một trăm năm mươi tám tuổi sao? Người Trung Quốc không tin, ngay cả một con lợn như tôi mà cũng vô cùng kinh hoàng và nghi ngờ nguồn tin này khi mới nghe. Song khi nhìn thấy gương mặt bi thương và nước mắt chảy ròng ròng trên má Kim Long, mới vỡ lẽ rằng anh ta không hề có ý định đơm đặt chuyện hoang đường. Từ chiếc radio, tôi và mọi người đều nghe rõ ràng cái giọng bình thường rất cao, trong và chuẩn xác của cô phát thanh viên, hôm nay lại tỏ ra nghèn nghẹn thông báo cho toàn đảng, toàn quân, toàn thể các dân tộc rằng, Mao Chủ tịch đã mất. Tôi nhìn lên trời cao, mây đen đang vần vũ; nhìn xuống đất lá hạnh rụng bời bời; nhìn chuồng trại cái nào cũng xiêu xiêu vẹo vẹo... Tôi nghe rõ đâu đó có tiếng khóc, ngửi thấy mùi xú uế nồng nặc bay lên từ những hố chôn xác lợn và gió từ dòng sông thổi vào cũng mang theo mùi thịt thối rữa... hồi tưởng lại bao nhiêu là chuyện lạ lùng xảy ra trong mấy tháng gần đây, nhớ Điêu Tiểu Tam bỗng nhiên biến mất và những lời kỳ bí từ miệng nó thoát ra... và tôi hiểu, hiểu một cách rõ ràng rằng, không nghi ngờ gì nữa, Mao Chủ tịch đã chết.
Kim Long ôm chiếc radio trước ngực giống như một đứa con có hiếu bê hộp hài cốt của bố, thần sắc hết sức nghiêm trang đi vào làng. Những người phục vụ ở trại lợn đều vứt công cụ lao động, lặng lẽ đi sau anh ta. Rõ ràng, việc Mao Chủ tịch ra đi không chỉ là tổn thất của con người mà còn là tổn thất của loài lợn chúng tôi. Không có Mao Chủ tịch sẽ không có một nước Trung Quốc mới. Không có nước Trung Quốc mới tất nhiên sẽ không có trại lợn Hạnh Viên, không có trại lợn Hạnh Viên tất nhiên không có Lợn mười sáu! Cho nên, tôi âm thầm đi theo đoàn người là một việc danh chính ngôn thuận.
Hình như lúc này toàn thể các đài phát thanh trên toàn đất nước Trung Quốc chỉ có một bản tin duy nhất được phát trên một làn sóng chất lượng cao nhất. Kim Long đưa chiếc radio cao quá đầu. Mặc dù không phải dùng loa phóng thanh nhưng âm thanh từ đó đã vang dội khắp làng Tây Môn. Mỗi lần gặp ai đó, Kim Long đều nói một câu với một âm sắc duy nhất: “Mao Chủ tịch mất rồi!” Nhiều cách biểu lộ tình cảm khác nhau ở những người sau khi nhận tin này, có người thì tròn mắt đứng ngây như phỗng, có người quỳ sụp xuống, có người thì ôm mặt khóc, có người lắc đầu... nhưng cuối cùng ai cũng nối gót theo sau Kim Long, tạo thành một đoàn rồng rắn kéo từ trại lợn đến tận giữa làng.
Hồng Thái Nhạc từ trụ sở đại đội sản xuất chạy ra, chưa hiểu chuyện gì, định hỏi thì Kim Long đã nói trước: Mao Chủ tịch mất rồi! Phản ứng đầu tiên của của lão là giơ tay lên, định thụi một quả vào miệng Kim Long, nhưng nắm đấm ngừng lại giữa chừng, đảo mắt nhìn đoàn người, rồi nhìn chiếc radio trước ngực Kim Long. Ở đó vẫn tiếng cô phát thanh viên đang đọc đi đọc lại bản tin duy nhất trong ngày, thu tay lại, ôm lấy đầu rồi khóc rống lên:
- Mao Chủ tịch ơi! Người đi thật rồi sao... Chúng tôi làm sao sống được những ngày còn lại?...
Chiếc radio phát một điệu nhạc buồn. Tiếng nhạc vừa cất lên, Ngô Thu Hương là người bật khóc đầu tiên, rồi tất cả đồng loạt khóc nấc. Những người đàn bà chẳng kể bùn lầy, cứ ngồi bệt xuống đất cào cấu, bùn văng tung tóe. Có người che miệng, người che mặt... bao nhiêu là cảnh biểu hiện tình cảm diễn ra trước mắt tôi. Có người vừa khóc vừa gào:
- Mao Chủ tịch là trời, chúng ta là đất. Trời sập rồi đất làm sao sống nổi...!
Trong muôn vàn kiểu khóc của đàn bà, bọn đàn ông có người thở dài, có người cố nén tiếng khóc nhưng nước mắt vẫn chảy ròng trên mặt. Những địa chủ, phú nông và phần tử phản cách mạng trong làng nghe tin dữ cũng đã tề tựu đầy đủ, đứng xa xa nhìn toàn cảnh và nước mắt đều dầm dề.
Suy cho cùng tôi vẫn là loài súc sinh, cho dù gặp phải hoàn cảnh đau buồn thế này, trong lòng cũng cảm thấy thương cảm, song vẫn còn đủ tỉnh táo. Tôi len lỏi qua đám người để quan sát và suy nghĩ. Trong lịch sử cận hiện đại Trung Quốc, không có ai chết mà gây ảnh hưởng ghê gớm như Mao Trạch Đông, có người ngay cả lúc mẹ chết cũng chẳng khóc thê thảm như thế. Nhưng việc gì cũng có ngoại lệ, trong hơn một nghìn nhân khẩu của làng Tây Môn, ngay cả những địa chủ, phú nông vốn có oán cừu với Mao Trạch Đông, vì cái chết của ông ta mà khóc thương thật lòng, thì vẫn có hai người không hề khóc, cũng chẳng hề nhỏ lấy một giọt nước mắt mà họ vẫn đang điềm nhiên tiếp tục công việc thường ngày, vẫn chuẩn bị cho cuộc sống tương lai.
Hai người ấy, một là Hứa Bảo, hai là Mặt Xanh.
Hứa Bảo len lỏi giữa đám người, bám theo tôi. Ban đầu tôi chẳng để ý gì đến hành tung của lão nhưng sau đó tôi nhanh chóng phát hiện ra đôi mắt gian xảo, hung ác và thèm muốn của lão đang chăm chú nhìn vào hai hòn dái lủng lẳng giữa hai đùi tôi. Một cơn giận chưa từng có trào lên trong lòng tôi. Trong thời điểm lịch sử này mà lão vẫn nhăm nhe hòn dái của tôi, đủ thấy cái chết của Mao Chủ tịch chẳng hề gây cho lão một chút trắc ẩn nào. Tôi muốn hét to lên cho mọi người biết dã tâm của lão để cho tất cả nhảy vào, biến đau thương thành hành động và bóp chết tươi kẻ không bằng súc vật này. Đáng tiếc thay! Tôi không thể nói được tiếng của loài người. Đáng tiếc thay! Mọi người chỉ lo than khóc mà không chú ý gì đến ý đồ gian tà của lão. Cũng tốt thôi, Hứa Bảo! Tao thừa nhận là đã từng sợ mày, từng khiếp phục trước động tác nhanh như điện xẹt của mày, nhưng ngay cả người vĩ đại nhất như Mao Chủ tịch còn chết, thì tao đây - Lợn mười sáu - còn kể gì đến sinh mạng nhỏ nhoi của mình. Tao đang chờ mày đây, Hứa Bảo! Đêm nay nếu tao không phải là cá chết thì tất nhiên là lưới đã bị phá nát!
Người còn lại không hề khóc trước cái chết của Mao Chủ tịch là Mặt Xanh. Khi tất cả mọi người đang tụ tập ở trước sân trụ sở và khóc thì ông ta đang ngồi trên ngạch cửa căn phòng bé xíu ở phía tây mài một con dao sắc nhọn. Tiếng con dao miết vào đá mài rin rít nghe rợn người, âm thanh như đang báo hiệu một điều gì đó sẽ xảy ra. Không kềm được, Kim Long đưa chiếc radio cho Hỗ Trợ và nhảy thẳng đến trước Mặt Xanh, cúi người xuống giật hòn đá mài từ trong tay Mặt Xanh quẳng xuống đất. Nó vỡ thành hai mảnh. Kim Long nghiến răng nói:
- Như ông mà được gọi là người à?
Mặt Xanh nheo mắt, chăm chú nhìn gương mặt đang run lên vì giận của Kim Long, giơ con dao lên đứng dậy và nói:
- Ông ấy chết, nhưng ta thì vẫn phải sống. Lúa ngoài đồng cần phải gặt rồi!
Kim Long chụp lấy chiếc thùng sắt thủng đáy nằm bên cạnh chuồng trâu, ném thẳng về phía Mặt Xanh. Ông ta chẳng thèm tránh, chiếc thùng đập thẳng vào trán rồi rơi xuống dưới chân ông ta.
Mắt Kim Long đỏ lên sòng sọc, tiếp tục vớ lấy chiếc đòn gánh, giơ cao lên nhắm thẳng vào đầu Mặt Xanh bổ xuống. May thay Hồng Thái Nhạc đã kịp chụp lấy tay anh ta nên Mặt Xanh mới thoát được đòn trí mạng này. Lão Hồng quát to, giọng đầy giận dữ:
- Mặt Xanh! Anh quá đáng rồi đó!
Lúc này nước mắt Mặt Xanh mới trào ra. Ông ta quỳ xuống, nói thật rành rọt:
- Yêu Mao Chủ tịch nhất là tôi đây chứ không phải là đồ vờ vịt các người đâu!
Mọi người chưa hiểu gì, im lặng nhìn ông ta. Mặt Xanh chống tay xuống đất, khóc rống lên:
- Mao Chủ tịch ơi! Tôi là con dân của Người. Đất của tôi là do người phân phát cho. Tôi làm ăn cá thể là quyền lợi do Người ban cho...
Nghinh Xuân khóc nấc lên và chạy đến trước mặt Mặt Xanh định lôi dậy, nhưng hình như đầu gối ông ta đã mọc rễ. Cô ấy quỳ trước Mặt Xanh, trên đầu đang cài một đóa hoa cúc trắng. Một con bướm vàng chập chờn bay trong không trung như một chiếc lá hạnh vàng rơi từ trên cây xuống, chao liệng rồi đậu trên đóa hoa...
Cài hoa cúc trắng trên đầu để biểu hiện sự tiếc thương người thân đã mất là tập tục của người Cao Mật. Những người đàn bà chạy đến trước nhà Nghinh Xuân, ngắt những đóa hoa cúc trắng tươi nguyên giắt lên đầu. Tất cả bọn họ đều hy vọng con bướm vàng kia bay đến đậu trên đầu mình, nhưng sau khi đậu trên đầu Nghinh Xuân, nó đã khép cánh, nằm im bất động.