← Quay lại trang sách

- 53 - Người sắp chết cởi lòng oán hận,-Về âm ty khó thoát luân hồi.

Tôi xách chiếc máy quạt cũ, Xuân Miêu vác chiếc lò viba nhảy xuống xe buýt. Đây là hai món quà tặng của bạn bè và đồng nghiệp, chẳng mất đồng nào mà có hai đồ dùng bằng điện, tôi vô cùng phấn khởi tuy rất mệt và nóng bức. Từ bến xe buýt về chỗ ở phải đến ba cây số nhưng không muốn mất tiền, chúng tôi cùng nhau đi bộ.

Tháng sáu, bầu trời Tây An mù mịt bụi. Cái nóng hầm hập khiến mọi người ngại đi ra đường, chỉ nấp trong những quán nước hoặc những quán bia dọc đường. Trong một quán bia nhỏ, tôi thấy nhà văn phong lưu có biệt danh là Trang Hồ Điệp đang dùng đũa gõ vào miệng bát hát nghêu ngao, hai bên là hai cô gái tay cầm quạt phe phẩy. Người này mũi khoằm mắt hí, môi mỏng răng hô, diện mạo vô cùng xấu xí nhưng khả năng tán gái thì khỏi chê, thay người tình như thay áo. Chỉ có điều tình nhân của hắn rặt một hạng phong lưu đa tình. Hắn là bạn rượu của Mạc Ngôn, thường đưa nhau về phòng Mạc Ngôn uống rượu, hò hát thâu đêm. Tôi nháy mắt với Xuân Miêu, ngầm bảo hãy nhìn về phía Trang Hồ Điệp. Cô ấy chẳng lấy gì làm thích thú, nói:

- Em thấy ông ấy từ lâu rồi!

- Đàn bà Tây An ngu thật!

- Tất cả đàn bà trên thế giới này đều ngu!

Tôi cụt hứng, cười gượng.

Về đến căn phòng nhỏ thì trời cũng vừa sập tối. Bà chủ nhà vừa xịt nước khắp sân để làm dịu bớt nhiệt độ, vừa chửi nhau với một đôi vợ chồng trẻ mới đến thuê phòng. Đôi này vừa chửi vừa cười. Tôi thấy thấp thoáng đầu ngõ một dáng người cao gầy xuất hiện. Một bên mặt người ấy xanh, dưới ánh sáng hoàng hôn lấp lóa. Tôi đặt chiếc máy quạt xuống đất, một luồng khí lạnh lan dần trong cơ thể.

- Anh làm sao thế?

- Khai Phóng đến rồi! Nó đứng ngoài ngõ. Hay là em tránh mặt đi?

- Tránh làm gì nữa? Mọi việc đã đến hồi kết thúc rồi.

Tôi sửa lại áo quần, hít một hơi thật sâu để lấy lại bình tĩnh, đi đến trước mặt con trai. Nó cao và gầy quá, cao hơn nhiều so với tôi, lưng hơi khòng. Trời nóng thế này mà nó vẫn mặc chiếc áo jacket màu đen, chiếc quần jean đen và đôi giày thể thao đã cũ. Trên lưng áo mồ hôi đọng thành vệt, toàn thân bốc lên mùi đàn ông nực nồng. Nó chẳng có hành lý gì cả, chỉ có một chiếc túi ni lông xách tay.

Tôi nhìn con, muốn ôm choàng lấy nó. Nhưng bắt gặp cái nhìn lãnh đạm và thờ ơ của nó, tôi chùn tay.

- Khai Phóng!... Con...

Nó vẫn lạnh lùng nhìn tôi, đôi mày rậm nhíu lại sao mà giống mẹ nó. Cuối cùng thì nó cũng nở nụ cười gượng gạo, nói:

- Hai người quả nhiên lợi hại thật, trốn đến tận đây!

Tôi không có câu nào để mở miệng. Xuân Miêu đã mở cửa phòng, đưa chiếc quạt và cái lò viba vào trong, bật đèn rồi đi ra, nói:

- Khai Phóng! Đã đến rồi thì vào trong này, có chuyện gì từ từ nói sau.

- Tôi chẳng có gì để nói với dì cả! Con trai tôi nhìn căn phòng tồi tàn, nói tiếp: Tôi cũng chẳng có ý định vào phòng của hai người đâu!

- Khai Phóng! Gì thì bố cũng là bố của con mà. Con từ xa đến đây, bố và dì Xuân Miêu mời con một bữa cơm nhé!

- Tôi không ăn cơm của hai người. Tôi đã có cơm của mẹ chuẩn bị cho! Nó giơ cái túi nilon lên.

- Khai Phóng! Con cho bố một chút thể diện được không? Tôi bật khóc.

- Được rồi! Đừng nghĩ là tôi hận hai người. Kỳ thực, trước đây tôi có hận thật, nhưng bây giờ thì hết rồi. Tôi cũng chẳng muốn tìm hai người đâu, nhưng mẹ yêu cầu tôi đến đấy.

- Mẹ con... Tôi ngắc ngứ.

- Mẹ bị ung thư, đến giai đoạn cuối rồi! Mắt con tôi đỏ hoe, nghẹn ngào nói: Mẹ chẳng còn mấy ngày nữa đâu. Mẹ rất muốn gặp hai người, bảo có rất nhiều điều muốn nói...

- Chị ấy làm sao mà bị ung thư chứ? Hình như Xuân Miêu đã khóc.

Con tôi nhìn Xuân Miêu lắc đầu, nói:

- Được rồi, tôi đã đem tin đến cho hai người, còn về hay không thì tùy hai người quyết định.

Nói xong, nó quay người bước đi. Tôi chụp lấy vai nó:

- Khai Phóng! Bố và dì Xuân Miêu sẽ cùng về với con. Ngày mai đi!

Nó đẩy tôi ra, nói:

- Tôi không cùng về với hai người đâu. Tôi đã mua vé đêm nay rồi.

- Chúng ta cùng về ngay trong đêm nay nhé!

- Tôi nói rồi, tôi không cùng về với hai người!

- Thế để chúng tôi đưa cháu ra ga. Xuân Miêu nói.

- Thôi! Không cần đâu.

... Khi biết mình mắc bệnh ung thư, vợ ông quyết định trở về làng Tây Môn. Khai Phóng bỏ dở chương trình trung học, đăng ký xin vào ngành cảnh sát. Người bạn cũ của ông ở Lư Điếm là Đỗ Lỗ Văn lúc này là trưởng công an huyện. Có thể ông ấy nghĩ tình bạn cũ với ông, cũng có thể là do Khai Phóng có tố chất của một nhân viên cảnh sát nên được thu nhận ngay và được bố trí về đại đội cảnh sát hình sự huyện.

Sau khi mẹ ông chết, bố ông lại chuyển về căn phòng cũ ở mái hiên phía tây, tiếp tục cuộc sống cô độc như thời còn làm ăn cá thể. Ban ngày hầu như không thấy ông ấy ra khỏi phòng, cũng chẳng thấy ông ấy nấu nướng gì cả. Những thức ăn mà Hỗ Trợ và Bảo Phượng mang về bị ông vứt lăn lóc trên bàn, trên bếp lò cho thiu thối. Chỉ đến khi màn đêm buông xuống, ông mới bò ra khỏi giường, đốt lò lên, bỏ một nhúm gạo vào nồi nước và chẳng cần biết là đã chín hay chưa, cúi đầu húp cạn. Cũng có khi, ông chỉ nhai một vốc gạo sống, uống một chén nước lạnh rồi lại trèo lên giường, nằm ngửa nhìn lên trần nhà.

Khi vợ ông trở về, cô ấy ở trong căn phòng sát cạnh, nơi mẹ ông đã từng ở. Mọi sinh hoạt đều nhờ vào Hỗ Trợ. Mắc bệnh nặng nhưng chưa bao giờ tôi nghe cô ấy buông một lời than vãn, chỉ nằm yên trên giường, đôi khi nhắm mắt, rồi lại mở mắt nhìn trừng trừng lên trần nhà. Bảo Phượng và Hỗ Trợ tìm ra rất nhiều phương thuốc dân gian về cho cô ấy, nhưng lần nào cũng vậy, cô ấy nghiến chặt răng, chẳng chịu uống bất kỳ một giọt thuốc nào. Phòng cô ấy chỉ cách phòng bố ông có một bức tường đắp bằng thân cây cao lương trộn đất sét. Hai người có thể nghe được tiếng thở, tiếng ho của nhau nhưng hình như cả hai chưa có một lời trao đổi nào.

Trong phòng bố anh còn một cót lúa mạch, một thùng lớn đậu xanh, trên trần nhà còn treo mấy chùm ngô giống. Sau khi Kim Long chết, Tây Môn Hoan bỏ học, trở thành tay anh chị ở phố huyện, thi thoảng có về cũng chỉ nhằm mẹ vòi tiền. Bàng Kháng Mỹ đã bị bắt, công ty của Kim Long đã bị huyện tiếp quản với số nợ ngân hàng có đến vài triệu đồng. Tiền mà Hỗ Trợ đưa cho Tây Môn Hoan chỉ là số tiền cô ấy tiết kiệm trong mười mấy năm, tôi đoán chẳng là bao bởi thằng này chỉ về có mấy lần, sau khi thấy mẹ đã hết tiền thì không còn bén mảng nữa.

Nơi tôi thường xuyên lui tới nhất là phòng của bố ông. Tôi nghĩ là ông đã mơ hồ đoán ra lai lịch của tôi vì thi thoảng, tôi nghe ông ấy lẩm bẩm khi có mặt tôi:

- Ông chủ ơi! Ông chết oan quá! Trên thế gian này mấy mươi năm qua, người chết oan như ông cũng quá nhiều rồi.

Tôi sủa lên mấy tiếng biểu lộ sự đồng tình.

- Chó bốn ơi! Ngươi sủa gì thế? Lẽ nào ngươi cũng đồng tình với ta?

Mấy con chuột đang bò trên trần nhà, lén lút gặm những xâu ngô đang treo lủng lẳng trên đó. Đối với nông dân, hạt giống cũng quan trọng như sinh mệnh của họ, nhưng bố ông thì lại nói:

- Cứ ăn đi, đường hoàng mà ăn. Còn một cót lúa mạch, một thùng đậu xanh nữa, tha hết đi!

Một đêm trăng sáng, ông vác chiếc xẻng lên vai rời khỏi nhà và ra hiệu cho tôi đi theo. Lao động dưới trăng là thói quen của ông, không chỉ người làng Tây Môn mà cả huyện Đông Bắc Cao Mật đều biết. Ông đang đi về hướng mảnh đất một mẫu sáu sào của mình, lúc bấy giờ đã thành nghĩa địa. Ở đó có mộ Tây Môn Náo và bà Bạch, mộ Nghinh Xuân, mộ Kim Long, mộ con lừa, con trâu và con lợn. Chỗ nào chưa có mộ thì cỏ dại mọc đầy. Tôi tìm đến chỗ đất trống mà tôi đã chọn ngày ấy, nằm phục xuống và nước mắt chảy dài.

- Chó bốn! Đừng khóc nữa, ta đã hiểu ý ngươi. Nếu ngươi chết trước, ta sẽ tự tay chôn ngươi ở chỗ mà ngươi đã chọn. Nếu ngươi chết sau, lúc sắp chết ta sẽ nói lại với mọi người nguyện vọng của ngươi.

Ông dùng xẻng vun một nấm đất cao phía sau mộ Nghinh Xuân.

- Đây là chỗ của Hợp Tác!

Mặt trăng buồn bã chiếu ông ấy và tôi đang lang thang trong khu nghĩa địa. Đến tận đầu phía bắc, ông ấy đứng trên một khoảnh đất trống, lấy chân đạp đạp lên cỏ dại rồi nói:

- Đây là chỗ của ta!

Rồi ông cắm cúi đào một cái hố dài khoảng hai mét, rộng khoảng một mét. Sâu độ nửa thước, ông dừng tay, nằm xuống, ngửa mặt nhìn trăng. Rất lâu sau, ông ngồi dậy nói:

- Chó bốn! Có ngươi và ánh trăng làm chứng nhé. Đây là chỗ của ta. Ta đã nằm xuống đây rồi, không ai có quyền tranh giành, đúng không?

Xách xẻng lên vai, ông lại tiếp tục đi về phía nam, đến đúng chỗ mà tôi đã chọn cho mình, ước lượng chiều dài thân thể tôi rồi đào một cái hố. Tôi hiểu ý ông, nhảy xuống nằm mấy phút rồi nhảy lên.

- Chó bốn! Chỗ này thuộc về ngươi. Có ta và trăng làm chứng!

Tôi và ông về đến nhà thì đã nửa đêm. Mấy con chó làng Tây Môn bắt chước chó phố huyện đang tụ tập trên mảnh sân rộng trước trụ sở ủy ban, xếp thành một vòng tròn vây quanh một con chó cái to tướng. Bọn chúng đang đồng ca một bài hát viết về ánh trăng. Đối với con người, ngôn ngữ của loài chó chỉ là những tiếng sủa đáng ghét, nhưng tất nhiên là tôi hiểu ca từ của bài hát này:

... Trăng ơi, trăng ơi! Trăng sáng vô cùng,

Trăng rọi khắp nơi, cuộc đời tang thương.

Người đẹp, người đẹp! Đang đi trên đường,

Cô cười với ai, lòng ta vấn vương...

Cũng trong đêm ấy, tôi nghe được đoạn đối thoại đầu tiên và cũng là cuối cùng giữa hai người sắp chết. Bố ông đập đập vào bức tường đất, nói:

- Mẹ thằng Khai Phóng à!

- Con đang nghe đây. Bố cứ nói đi!

- Chỗ nằm của con bố đã chọn rồi, ngay phía sau mộ mẹ con, khoảng mười bước chân.

- Cám ơn bố! Con yên tâm rồi. Sống làm người họ Lam, chết con làm quỷ nhà họ Lam!

... Đã biết là cô ấy không thể ăn gì nhưng tôi cũng mua về rất nhiều thứ. Khai Phóng mặc đồ cảnh sát, lái xe môtô ba bánh đưa chúng tôi về làng. Xuân Miêu ngồi lọt thỏm trong thùng xe, chung quanh chất chồng nào hộp, nào gói. Con đường nhựa phẳng lỳ thênh thang, hai bên trồng toàn cây hạnh đã to bằng bắp đùi. Mấy năm nay, diện mạo làng Tây Môn thay đổi đến chóng mặt. Nhà máy, công ty, khách sạn... chen nhau dọc hai bên đường. Người ta cứ nói Tây Môn Kim Long và Bàng Kháng Mỹ không làm được việc gì có ích cho làng Tây Môn cũng như huyện Đông Bắc Cao Mật, quả là không công bằng, thiếu khách quan và đầy ác ý.

Khai Phóng dừng mô tô trong sân, chẳng tỏ thái độ gì, hỏi:

- Vào thăm ông trước hay mẹ tôi trước?

Tôi suy nghĩ giây lát rồi nói:

- Theo đạo lý, cứ vào thăm ông trước!

Cửa phòng bố đóng im ỉm. Khai Phóng gõ cửa, chẳng có tiếng trả lời. Nó đến bên cửa sổ, nói vọng vào trong:

- Ông nội ơi! Cháu là Khai Phóng. Con trai ông đã về đây này!

Trong phòng vẫn lặng yên, lát sau có tiếng thở dài não ruột vọng ra. Tôi quỳ xuống trước cửa sổ, Xuân Miêu cũng quỳ theo:

- Bố ơi! Con là Lam Giải Phóng về thăm bố đây. Bố hãy mở cửa cho con được gặp mặt bố!

- Bố chẳng còn mặt mũi nào mà gặp anh nữa. Bố chỉ muốn anh nhớ cho bố mấy việc, anh đang nghe đấy chứ?

- Con đang nghe...

- Chỗ nằm của mẹ Khai Phóng ngay sau mộ mẹ anh, khoảng mười bước. Bố đã vun một nấm đất ở đó. Chỗ nằm của chó bốn ngay bên cạnh mộ con lợn, bố đã đào một cái hố nhỏ. Chỗ nằm của bố cách mộ mẹ con ba mươi bước về phía bắc, bố đã đào huyệt sẵn rồi, nhưng sức bố yếu, hơi nông, chỉ cần vét sâu hơn tí nữa. Chôn bố không cần quan tài, không cần báo tang. Anh chỉ cần tìm một tấm chiếu lau bó bố lại rồi đặt xuống đó là được. Trong phòng bố đây còn rất nhiều lúa, đậu xanh và ngô, anh đổ xuống mồ để chúng che mặt bố lại. Chúng được sinh ra từ mảnh đất ấy, cho chúng về với nơi chúng đã sinh ra là đúng với đạo trời. Không được khóc, chẳng có gì đáng khóc cả. Còn mẹ Khai Phóng, anh muốn làm tang lễ thế nào tùy anh. Nếu anh còn chút hiếu thuận nào với bố, nhớ đừng làm sai lời bố dặn.

- Con nhớ tất cả rồi, con sẽ làm đúng như ý bố. Bây giờ bố mở cửa cho chúng con được gặp bố một lần.

- Đi thăm vợ anh đi! Nó không còn mấy ngày nữa, còn bố, bố biết mình chưa chết đâu!

Tôi và Xuân Miêu đứng trước giường Hợp Tác. Khai Phóng chỉ gọi một tiếng “Mẹ” rồi ôm mặt chạy ra ngoài. Cô ấy đã biết chúng tôi quay về nên chuẩn bị khá kỹ càng, mặc một bộ váy màu xanh đen - di vật của mẹ tôi, đầu tóc búi lại gọn gàng đang ngồi trên giường. Cô ấy gầy lắm, da mặt vàng vọt. Xuân Miêu bước đến trước mặt cô ấy, ngập ngừng:

- Chị...!

Hình như Xuân Miêu muốn nói gì nữa, song dừng lại, đặt mấy gói quà trên giường.

- Mua làm gì cho phí tiền, chờ khi nào quay về trả lại cho họ nhé!

- Hợp Tác! Anh đã hại em... Tôi khóc.

- Đến lúc này còn nói những lời ấy làm gì nữa... Mấy năm nay hai người chịu khổ cũng chẳng kém tôi. Cô ấy nhìn Xuân Miêu: Trông cô cũng già đi rồi đấy! Rồi nhìn tôi: Tóc anh cũng bạc cả rồi!

Ôm lấy ngực, Hợp Tác ho một tràng dữ dội. Sắc mặt cô ấy đỏ bầm rồi quay về màu vàng như cũ.

- Chị hãy nằm xuống đi! Chúng em không về Tây An nữa, chúng em sẽ ở lại đây chăm sóc chị. Xuân Miêu khóc, nói.

- Tôi không được cái diễm phúc ấy đâu. Tôi bảo Khai Phóng tìm hai người về là muốn nói với hai người rằng, tôi chẳng còn mấy ngày nữa, hai người cũng chẳng cần phải trốn nữa... Tôi hồ đồ quá, tại sao ngày xưa tôi lại không tác thành cho hai người...

- Chị! Chúng em đã sai rồi...

- Không ai sai cả! Ông trời đã định đoạt cả rồi, sống chết có số cả, làm sao trốn tránh được...

- Hợp Tác! Em đừng bi quan. Anh đưa em đến bệnh viện, tìm bác sĩ giỏi...

- Giải Phóng! Anh và tôi cũng vẫn là vợ chồng. Tôi chết rồi, anh hãy chăm sóc cho cô ấy. Xuân Miêu là người tốt... Đàn bà ở bên anh, khó ai có được hạnh phúc trọn vẹn... Anh hãy quan tâm Khai Phóng, nó cũng khổ tâm lắm...

Tôi nghe ngoài sân, tiếng con trai tôi sụt sịt khóc.

Ba ngày sau, Hợp Tác chết.

Sau tang lễ, con trai tôi ngồi ôm con chó trước mộ mẹ, không nói, cũng chẳng khóc, ngồi mãi từ sáng đến tận tối mịt mới phóng mô tô về cơ quan. Bố mẹ vợ tôi cũng đóng cửa, không thèm tiếp tôi. Tôi quỳ trước nhà họ, lạy ba lạy.

Hai tháng sau, bố vợ tôi chết. Ngay trong đêm ấy, mẹ vợ tôi treo cổ trên cành cây hạnh.

Làm đám tang cho bố mẹ vợ xong, tôi và Xuân Miêu quyết định ở lại làng Tây Môn, ở trong gian phòng mà mẹ và vợ tôi đã ở, cách phòng bố chỉ một bức vách bằng cây cao lương trộn đất sét. Cả ngày bố không rời khỏi phòng, đến đêm thi thoảng tôi có nhìn thấy ông đi đâu đó, con chó theo ông như hình với bóng.

Theo nguyện vọng của mẹ vợ, tôi an táng bà phía bên phải mộ Tây Môn Náo. Cuối cùng thì bốn người cũng đã nằm cạnh nhau, gặp nhau dưới suối vàng. Còn bố vợ được tôi an táng trong nghĩa trang của làng, ngay bên cạnh mộ Hồng Thái Nhạc.

... Ngày năm tháng mười năm một nghìn chín trăm chín tám, tức ngày mười lăm tháng tám âm lịch, ngày trung thu. Những người còn lại trong nhà Tây Môn tề tựu khá đông đủ. Khai Phóng mang về hai ổ bánh trung thu và một quả dưa to, Bảo Phượng và Cải Cách cũng có mặt. Đó là ngày ông và Xuân Miêu nhận giấy đăng ký kết hôn. Là một con chó, tôi cũng rất vui vì chuyện của hai người. Ông và Xuân Miêu quỳ trước cửa sổ phòng bố, khẩn cầu:

- Bố! Chúng con đã kết hôn rồi, là vợ chồng hợp pháp rồi. Từ nay chúng con sẽ không còn làm bố phải xấu hổ nữa. Bố hãy cho chúng con vào để vợ con lạy bố...

Cánh cửa mục nát mở ra. Hai người đi bằng đầu gối đến tận cửa, tay ông nâng cao tờ đăng ký kết hôn lên quá đầu. Bố ông đứng tựa lưng vào cửa, gương mặt già nua co giật, chòm râu bạc rung rung, hai dòng nước mắt chảy dài trên má. Trăng trung thu hình như sáng hơn khi bố anh nghẹn ngào nói:

- Hai con đứng dậy đi! Cuối cùng thì hai con cũng đã được toại nguyện... Bố không còn gì ân hận nữa rồi...

Bữa tiệc trung thu được bày dưới gốc cây hạnh, trên chiếc bàn bát tiên gia truyền của dòng họ Tây Môn. Bố ông ngồi ở đầu bàn phía bắc, tôi đứng bên cạnh ông. Trăng rằm soi sáng gương mặt từng người. Cây hạnh vốn chết khô đã mấy năm rồi, nhưng trước đó mấy ngày bỗng nhiên lại có một vài cành đâm chồi nảy lá.

Bố ông bưng ly rượu lên, nhắm ánh trăng và hắt thật mạnh. Trăng cảm động, run rẩy đón nhận những giọt rượu thơm lừng. Ông rót tiếp ly nữa và hắt xuống đất. Ly thứ ba, ông đổ vào mồm tôi. Đây là loại rượu nho hảo hạng do những người nấu rượu nổi tiếng nhất nước Đức được Mạc Ngôn và bạn bè của anh ta mời về lập xưởng nấu rượu ở Cao Mật.

... Đây là đêm đầu tiên tôi và Xuân Miêu được hưởng cuộc sống vợ chồng hợp pháp. Bao nhiêu là kỷ niệm vui buồn khiến chúng tôi bồi hồi. Ánh trăng chiếu sáng hai chúng tôi đang quỳ trên trên chiếc giường mà mẹ tôi và Hợp Tác đã ngủ, tôi nói trong nỗi đau thương và hạnh phúc:

- Mẹ! Hợp Tác! Tôi biết hai người đang nhìn chúng tôi. Hai người đã hy sinh quá nhiều để chúng tôi hạnh phúc. Cám ơn mẹ, cám ơn em!

Chúng tôi ôm nhau, thấy mình đang bay lên cao, bay đến tận mặt trăng. Chúng tôi nhìn xuống, hàng vạn ngôi nhà đang rực rỡ ánh sáng. Trên cao là mẹ tôi, bà Bạch, Hợp Tác, Hỗ Trợ, Kim Long, Hoàng Đồng, Thu Hương... có cả Hồng Thái Nhạc, mỗi người cưỡi một con chim khổng lồ, bay mãi, bay mãi...

... Nửa đêm, bố ông dẫn tôi rời khỏi nhà Tây Môn. Lúc này ông ấy đã biết rõ lai lịch của tôi. Chúng tôi đứng trước cổng nhà, bịn rịn, lưu luyến với bao nhiêu ký ức đau thương cuồn cuộn hiện về... Rồi, một cách dứt khoát, chúng tôi quay lưng đi thẳng. Chúng tôi đến với mảnh đất một mẫu sáu sào. Khi chúng tôi đến nơi, trăng bỗng nhiên đổi sắc, từ từ biến thành màu xanh biêng biếc. Chung quanh tất cả đều phủ một màu xanh, hai chúng tôi chỉ là hai sinh vật nhỏ nhoi vô cùng trong cái biển xanh rợn ngợp ấy.

Bố ông nằm xuống cái hố đã đào sẵn, ngước mắt nhìn tôi thật lâu, gương mặt thanh thản vô cùng. Không biết bao nhiêu lâu, cuối cùng, ông nói nhỏ:

- Ông chủ! Ông cũng đi, phải không?

Tôi gật đầu, chạy đến cái hố của mình, nhảy xuống. Tôi lặn mãi, lặn mãi đến khi gặp một tòa lâu đài rực rỡ đèn đuốc. Trong điện, bọn tiểu quỷ đang thì thầm to nhỏ gì đó với nhau. Trên điện chính, một lão Diêm Vương mà tôi chưa hề gặp lần nào chẳng chờ tôi mở miệng đã nói:

- Tây Môn Náo! Tất cả những gì đã xảy ra với ngươi ta đều biết cả. Bây giờ, ngươi còn có gì oán hận nữa không?

Tôi do dự, lắc đầu.

- Trên cái thế giới ấy, người ta ôm ấp thù hận quá nhiều. Giọng Diêm Vương rất thống thiết: Do vậy chúng ta không thể để cho những linh hồn còn đang mang thù hận tái sinh thành người được.

- Nhưng tôi không còn thù hận gì nữa, thưa Đại vương!

- Không! Từ đôi mắt nhà ngươi ta đọc thấy lòng thù hận vẫn chưa hoàn toàn được gột sạch. Ta buộc lòng phải để cho ngươi làm một kiếp động vật nữa, nhưng lần này thì ngươi sống trong một thân xác rất gần gũi với con người, nói rõ ra là một con khỉ, thời gian rất ngắn, chỉ có hai năm. Hy vọng rằng trong hai năm ấy, ngươi đem tất cả sự oán hận còn lại trong lòng hóa giải hết để có thể trở lại thành người.

... Theo sở nguyện của bố, tôi mang tất cả lúa mạch, đậu xanh và ngô đổ xuống huyệt của ông. Chúng bao phủ lên người, lên mặt ông. Tôi cũng đổ xuống mộ con chó một ít, mặc dù bố không dặn điều này. Tôi đắn đo mãi và quyết định không làm theo lời bố, dựng trước mộ một tấm bia, trên bia thuê người thợ đá nổi tiếng nhất Cao Mật là Hàn Sơn khắc mấy chữ do chính tay Mạc Ngôn viết:

“Tất cả những gì được sinh ra từ đất đều quay về với đất”.