Chương Kết
Cảm giác thật lạ lẫm khi một người ký tên vào cuốn sổ đăng ký vào thăm cái nhà tù mà mình đã dành gần một phần ba cuộc đời ở đó. Và còn lạ lùng hơn khi bước dọc hành lang dài hẹp dẫn tới phòng khách, băng ngang vách kính nơi các tù nhân đang ngồi đợi để được gặp vợ, mẹ, con trai và con gái họ.
Audie cảm thấy hơi căng thẳng lúc ngồi xuống và nhìn ngang dọc hàng ghế khách, nơi bọn trẻ đang ngọ nguậy trên đùi mẹ hay được bế ẵm lên để đặt những nụ hôn qua lớp vách kính trong.
Moss xuất hiện, kéo ghế ra, hạ độ cao để thân hình to lớn của anh khớp với ô nhìn được. Anh nhấc điện thoại, trông nó giống như một món đồ chơi trong tay anh.
“Này!”
“Anh thế nào, anh bạn to lớn?”
Moss nhăn nhở. “Khỏe hơn cả gấu. Vai cậu sao rồi?”
Audie giơ lên cánh tay trái vẫn còn phải đeo băng quàng qua cổ. “Sự nghiệp bóng rổ của tôi đã kết thúc.”
“Dù sao thì những gã da trắng như cậu cũng không nhảy cao được.” Moss ngả người ra lưng ghế, gác chân lên mặt bàn hẹp. “Sao cậu đến được đây?”
“Đặc vụ Fumess đưa tôi đến.”
“Cô ấy đâu?”
“Đang nói chuyện với giám đốc nhà tù, nhưng cô ấy sẽ tới chào hỏi anh. Cô ấy cho là chúng ta cần nói chuyện riêng.”
“Tôi mong cô ấy nghĩ chúng ta là những kẻ đồng tính.”
“Anh hả, có lẽ đấy.”
“Được, cậu cố mà giữ lời khi nào tôi rời khỏi đây đấy nhé.”
“Vậy lúc đó là khi nào?”
“Theo luật sư thì tôi có cơ hội tốt để sớm được tạm tha, đặc biệt là sau khi tôi ra làm chứng trước bồi thẩm đoàn về vụ xét xử Valdez cùng Pilkington.”
“Sớm chừng nào?”
“Trước khi tôi năm mươi tuổi, đại khái là không quá lâu.”
“Nói chuyện này mới nhớ, Crystal thế nào?”
“Ồ, cô ấy ổn. Cậu vừa lỡ mất cuộc gặp với cô ấy. Cô ấy đã mặc bộ váy tôi thích nhất - nó giúp phô bày ngực cô ấy.”
“Đừng để đặc vụ Fumess nghe thấy anh nói thế.”
“Chết tiệt, chắc chắn là không rồi.” Moss nhe răng cười. “Cậu có xem tin tức không?”
“Có.”
Rồi anh kể về vụ bắt giữ Thượng nghị sĩ Dowling. Giữa rừng máy quay và đám phóng viên đang om xòm vây quanh, ông ta bị dẫn lên vỉa hè bởi hai nhân viên FBI, một trong hai người quá thấp bé nên chỉ thấy được đỉnh đầu cô. Bồi thẩm đoàn đã phán ông ta tội lợi dụng chức vụ và bẻ cong công lý.
Clayton Rudd trở mặt còn nhanh hơn một con gà bị nướng trên xiên và lập tức đưa ra bằng chứng chống lại Dowling cùng Valdez. Theo lời Valdez khai báo với bồi thẩm đoàn, Pilkington và Senogles là những kẻ chủ mưu, còn anh ta chỉ là một con tốt trong vụ cướp, làm theo mệnh lệnh của người chú, nếu không ông ta đe dọa sẽ công khai mọi chuyện và hủy hoại anh ta. “Tôi không giết ai hết,” anh ta gào lên với đám phóng viên lúc bị kéo ra khỏi phòng xử án.
Có lẽ phải mất một năm nữa trước khi anh ta bị xét xử. Còn bao nhiêu người sẽ sa lưới nữa đây? Hoặc có thể giới cầm quyền sẽ chấn chỉnh hàng ngũ và cố gắng hạn chế thiệt hại ở mức thấp nhất.
Max quay về sống cùng Sandy, nhưng chỉ khi Valdez bị từ chối được tại ngoại. Cô tuyên bố mình hoàn toàn không biết gì về vụ cướp cũng như vụ xóa sổ nhân chứng và Audie tin cô.
“Cậu sẽ trở thành người rất giàu có đấy,” Moss nói. “Mười năm tù oan - họ sẽ phải bồi thường cho cậu cả triệu đô.”
“Tôi không muốn tiền của họ.”
“Tôi tin chắc là cậu sẽ làm thế. Mẹ kiếp! Cho tôi nhé.”
“Nhìn phản ứng lần trước của mọi người khi cho là tôi có tiền đi.”
“Ừ, nhưng lần này khác. Cậu là người trong sạch.”
“Tôi vẫn luôn trong sạch.”
Một đứa trẻ sơ sinh bắt đầu òa khóc trên hàng ghế dành cho khách nói chuyện với tù nhân.
Người mẹ trẻ liền cởi khuy áo, bắt đầu cho con bú, nhưng lính gác bảo cô phải cho nó bú ở chỗ khác. Miễn cưỡng, cô đành chào tạm biệt và bế đứa trẻ tới phòng chờ hoặc nhà vệ sinh công cộng hay trong chiếc xe nóng nực của mình.
“Anh đã từng nghĩ tới chuyện có con chưa?” Audie hỏi.
“Tôi thích có con,” Moss đáp, “nhưng hơi lo lắng việc nuôi dạy chúng. Có vẻ bản thân tôi là một ví dụ tồi.”
“Anh sẽ là một ông bố tốt,” Audie trấn an. “Tốt nhất.” Anh dừng lại, đằng hắng một chút. “Tôi vẫn chưa có cơ hội để cảm ơn những gì anh đã làm cho tôi.”
“Tôi chẳng làm gì cả.”
“Anh biết ý tôi mà. Cả cuộc đời, tôi luôn được mọi người sẵn sàng giúp đỡ và tôi không biết liệu mình có xứng đáng hay không.”
“Cậu rất xứng đáng,” Moss đáp, rướn người về phía trước, khóe mắt hơi ẩm ướt khiến mắt anh có vẻ lấp lánh. “Tôi nhớ ngày đầu tiên cậu vào đây. Trông cậu rất yếu ớt. Bọn tôi đã cá xem cậu có thể sống sót được bao lâu.”
“Anh có kiếm được tiền cược từ tôi không?”
“Cậu làm tôi mất hai mươi đô và hai thanh chocolate Mars đấy. Không ai biết cậu có khả năng gì, nhưng cậu đã cho họ thấy.”
Audie hít thật sâu. “Tôi không cố tỏ ra…”
“Để tôi nói nốt,” Moss cắt ngang, hai mắt nhắm chặt. “Cậu biết trong này thế nào rồi - mỗi ngày đều là một khảo nghiệm. Nhàm chán. Bạo lực. Đau khổ. Cô đơn. Nó tích tụ trong ngực như một tiếng gào thét. Chắc chắn thi thoảng cậu sẽ được nghe một câu chuyện cười, nhận bưu kiện đựng đồ ăn được gửi đến, một lá thư hay một người đến thăm - chúng sẽ giúp cuộc sống dễ chịu hơn trong vài giờ - nhưng vẫn không đủ. Rồi cậu đến, Audie. Tôi biết cậu không cố tỏ ra cao thượng hay danh giá, nhưng kỳ lạ sự thật lại là thế. Cậu chiến đấu và không thể tránh được phải làm thế, nhưng cậu đã vượt lên trên tất cả. Cậu cho chúng tôi tấm gương để soi vào. Chúng tôi là những kẻ yếu đuối, cư xử như súc vật, nhưng cậu đã cho thấy chúng tôi có thể tốt đẹp hơn.”
Audie cố nuốt cục nghẹn trong cổ họng và vô cùng biết ơn khi Desiree xuất hiện trong phòng khách, phớt lờ những tiếng xì xầm, huýt sáo của đám tù nhân lúc cô đi ngang qua ô của họ. Cô nhấc ống nghe thứ hai lên.
“Trông cô có vẻ cao hơn thì phải,” Moss bông đùa.
“Còn anh thì béo hơn tôi nhớ.”
Moss vỗ vỗ bụng. “Chắc là do những món ăn ngon lành chúng tôi có ở đây đấy.”
Audie nhường ghế cho Desiree. “Anh có thể ở lại,” cô nói.
“Không, tôi cần duỗi chân duỗi tay.” Anh lo lắng nhìn xung quanh. “Tôi vẫn lo sợ họ sẽ nhận ra rằng mình đã sai lầm và lại nhốt tôi vào.”
“Sẽ không ai nhốt anh đâu.”
“Giống nhau thôi.”
Audie xòe bàn tay phải, áp lên mặt vách kính, chờ Moss cũng làm điều tương tự, đến khi bàn tay họ áp vào nhau.
“Bình an nhé, anh bạn tốt. Chào Crystal giúp tôi.”
“Được.”
Bước dọc theo vách kính, Audie để ý thấy một số khách thăm đang quay sang nhìn mình chăm chú. Anh nghe tiếng ghế xô ra và ai đó vỗ tay. Quay lại, anh thoáng thấy Junebug đang đứng sau ô kính. Klutz ở ô bên cạnh, rồi Sandals, Bowen, Little Larry và Shoats. Họ đứng cả dậy, vỗ tay hoan hô, những tù nhân đang phải trả giá cho tội lỗi của mình, rồi tiếng vỗ tay như con sóng lan khắp Three Rivers, tới tận những phòng giam xa xôi, nơi các tù nhân đang đập vỏ lon lên song sắt hay giậm chân, hô to tên Audie, và vọng lại, đập vào tai anh, làm nhòe tầm mắt của anh trên lối đi ngắn ngủi mà anh phải mất mười một năm mới đi hết.
Bầu trời trong xanh, điểm những cụm mây trông như đám hạt giống đã sẵn sàng phân tán trong cơn gió đầu tiên. Nhưng chẳng thấy tăm hơi của gió đâu và hầu như không có một âm thanh nào ngoài tiếng ồn ào của các phương tiện đi lại cùng tiếng chim hót trên cây. Audie rời khỏi xe, cảm nhận hơi nóng tỏa lên từ mặt đường nhựa. Nghĩa trang trải rộng phía trước với hàng ngàn bia mộ, rải rác từng hàng ngay ngắn như hàm răng trẻ em, với những khoảng trống ngăn cách chúng được trồng đầy hoa thay vì trám bằng vàng.
Sandy Valdez rời khỏi ghế lái, chờ Max bước tới cạnh cô.
“Anh có muốn vào đó một mình không,” cô hỏi.
“Không,” Audie đáp và nhìn Max.
“Tôi sẽ đợi ở đây,” cô nói rồi siết chặt tay Max.
Họ bước dưới hàng cây, trong bóng râm cho đến khi tới được góc nghĩa trang, nơi bãi cỏ ít được chăm sóc hơn và một hàng rào ngăn cách nó với con đường có bốn làn xe. Bãi cỏ lác đác những gò đất nhỏ. Audie tìm kiếm trong tấm bản đồ nhận được từ Văn phòng Điều tra Cái chết Bất thường của hạt Dreyfus.
“Là chỗ này,” anh nói. Không bia mộ. Không hoa. Chỉ là hàng chục tấm biển kim loại hình vuông đánh dấu được gắn trên que nhọn, đóng vào mặt đất, gần như bị cỏ dại che mất. Mỗi tấm biển được dập một con số. Audie phải tìm con số gắn cho cô. Đây rồi: UJD-02052004. Quỳ xuống, anh bắt đầu nhổ cỏ xung quanh tấm biển. Anh nên mang theo hoa. Trên ngôi mộ gần đó, có vỏ một lọ mứt có cắm những bông hoa héo. Audie ném đám hoa đó đi, dùng áo sơ mi lau sạch bóng cái lọ. Anh đi hái hoa cúc dại không bị xén vì mọc sát bờ rào.
Max cùng tham gia với anh, và rất nhanh họ đã có được một bình hoa nhỏ sặc sỡ. Audie dùng cánh tay không bị thương móc đất ra và chôn cái lọ xuống để nó không bị đổ. Anh đã từng muốn mang lại cho Belita rất nhiều thứ, nhưng giờ đây tất cả những gì cô có chỉ là một tấm biển đánh dấu, một con số dập nổi và hoa cúc dại cắm trong lọ mứt.
“Anh xin lỗi vì bọn anh không thể tới sớm hơn,” anh thì thầm, tưởng tượng ra cô đang nằm bên dưới anh, gối đầu lên một cái gối. “Đây là loài hoa em thích nhất, em nhớ chứ?”
Audie liếc nhìn Max. “Anh đã đưa Miguel cùng đến.” Max có vẻ bối rối và không biết nên làm gì. Nó nên quỳ xuống? Hay cầu nguyện?
“Thằng bé đã cứu anh khỏi chết đuối,” Audie vẫn tiếp tục trò chuyện với Belita. “Chắc hẳn là được di truyền từ em.” Anh bắt đầu kể cho cô toàn bộ câu chuyện, giải thích Max đã kéo anh vào bờ, lôi anh lên bãi cát lúc xe cảnh sát đến và một chiếc trực thăng đang lượn lờ trên không thế nào. Audie gần như đã mất đi ý thức, nhưng vẫn nhớ được ánh đèn sáng rực và tiếng người la hét. Moss yêu cầu mọi người dãn ra và đứng ngay cạnh Audie như đang canh gác cho anh.
Phải tám tiếng sau Audie mới mở mắt. Anh đang nằm trong bệnh viện, một tay đeo trên cổ và đặc vụ Fumess ở cạnh giường anh.
“Tại sao một người có thể vừa cực kỳ đen đủi, vừa vô cùng may mắn như anh được nhỉ?” Cô thắc mắc.
“Tôi đoán là mình vừa làm vỡ gương, vừa nhặt được móng ngựa [75] trong cùng một ngày,” anh trả lời, vẫn còn bồng bềnh vì thuốc giảm đau.
Chính Desiree đã tìm ra nơi chôn cất Belita. Hạt Dreyfus đã dành một góc đặt biệt trong nghĩa trang cho những thi thể không nhận dạng được hoặc không có thân nhân đến nhận.
“Tại sao lại không có bia mộ?” Max hỏi, lau mồ hôi trên mép.
“Chẳng ai biết tên mẹ cháu ngoại trừ chú… mà chú lại không thể cho họ biết,” Audie trả lời, lau bàn tay bẩn vào quần.
“Chú sẽ nói lời cầu nguyện chứ?”
“Thực sự chú không biết phải nói thế nào.”
“Cháu sẽ làm,” Max quyết định, quỳ xuống cạnh anh và làm dấu thánh giá. Nó cầu Chúa phù hộ cho Belita và trông nom những người yêu quý cô. Khi cất lên câu “Amen”, trái tim Audie bất chợt nhảy loạn đâu đó giữa lồng ngực và cổ họng. Anh nhìn mảnh đất hình chữ nhật trơ trụi, biết rằng nó sẽ không bao giờ đủ lớn để chôn vùi lịch sử bên dưới.
Chúng ta được trao tặng vẻ ngoài, Audie thầm nghĩ, song lại tự tận hưởng cuộc sống của mình, những may mắn và bất hạnh. Có người cảm thấy mình có rất nhiều, có người rất ít. Một số lại phải nhặt nhạnh từng mẩu nhỏ và liếm sạch sành sanh. Chúng ta vui vẻ lắng nghe tiếng mưa rơi, ngửi mùi thơm nồng của cỏ vừa mới cắt, ngắm nhìn nụ cười của người lạ, sự mát mẻ lúc bình minh trong một ngày nắng nóng. Chúng ta tìm hiểu sự vật và nhận ra những điều mình biết còn ít hơn những thứ mình không biết. Chúng ta vô tình vướng vào tình yêu giống như bất chợt bị cúm và bám vào nó như cọng cỏ cứu mạng trong cơn bão.
“Chúng ta nên làm cho mẹ cháu một tấm bia mộ,” Max đề nghị, đỡ Audie đứng lên. “Theo chú nên đề trên bia thế nào ạ?”
Audie ngẫm nghĩ một lát rồi chợt nhận ra, anh luôn biết phải viết gì trên tấm bia đó: “Cuộc sống vốn ngắn ngủi. Tình yêu thì bao la. Hãy sống như thể không còn có ngày mai.”