← Quay lại trang sách

GIỮA ĐÊM Văn

Sinh thời, tôi chẳng bao giờ ba hoa. Giờ nhập quan rồi, tôi mặc sức độc thoại. Kể từ lúc nắp áo quan đóng lại, tôi chỉ còn một ham muốn: trần tình, minh định vai mình trong những sự kiện ập đến, đưa vài manh mối hầu tỏ ngọn ngành thứ chuyện vốn chỉ là tin vặt. Tính không hay tiếc nuối song tôi cần kiểm điểm lương tâm, dù việc này giờ vô ích đến đâu. Ký ức về tôi là hình ảnh một kẻ ưa giải pháp nước đôi, chuyên lần khân, lo không khích nộ ai, không làm mọi việc bung bét vì thất thố. Tôi không thuộc kiểu cú già nghiêm chỉnh, cũng chẳng phải kẻ kiếm chuyện làm trò một mực chắc mẩm mình đứng trên thiên hạ. Không, tôi lo sao đừng làm rầy người thân, phần hãi cửa nhà lục đục, phần không phải kẻ sinh sự. Với tôi chẳng có gì quý bằng tĩnh trí, và tôi hằng mong đạt được ung dung tự tại bất kể những cú đòn đau. Bão táp trong đầu, tôi đã kinh qua. Chắc kiếp trước tôi gây tội gây tình, nên phải gánh nghiệp năm thập kỷ dương sinh. Tôi chẳng tin gì, Chúa Trời nhân từ không mà Bồ Tát đại bi cũng không. Kinh Phật chẳng giúp gì tôi, học Những bài thuyết giáo của Bossuet tôi cũng chỉ nhớ mấy lối hành văn. Khuynh hướng duy linh khiến tôi, tuy phi tôn giáo đấy, ưu tiên những vấn đề ngoài tầm hiểu biết con người. Tôi gắng thấu tỏ bí ẩn của thuyết mục đích, đời các nhà duy cảm ban tặng khoái lạc thẩm mỹ, đời các nhà lãng mạn san sẻ lòng khát khao cái vô hạn. Tôi dung nhập cốt tủy những thứ văn chương bổ dưỡng nhất hòng tăng chí can trường nhưng, khác nào rắn tự cắn đuôi, tôi đổi các mối hoài nghi lấy một tri kiến hầu như chẳng giúp tôi gỡ được các mối xé giằng. Tôi năng bồi bổ văn tự, lòng mong mỏi thu lượm được nếu không phải hạnh phúc thì cũng là ham thích mãnh liệt với những sáng tạo sửng sốt. Từ đó còn lại cho tôi vài mảnh vụn rời rạc, những vì sao xa xôi còn đang nhấp nháy - trong dải thiên hà ấy Vautrin ở cạnh bà Verdurin, Molloy bên Bardamu, AQ kề Sganarelle, Achab cận Salomé, Philoctète sát Ophelia… Danh sách chưa đầy đủ và còn phải bổ sung những nhân vật phụ tôi sắp đặt đầy thích thú (thứ lao động kỳ khu tuyệt đỉnh phi lý). Thế nhưng mọi thứ đã trết nhào hết cả vào nhau trong cái đầu khốn khổ của tôi.

Công việc sửa bản thảo, kế sinh nhai ban đầu tôi dốc tâm dốc sức, chẳng kích thích trí nhớ tôi thì thôi lại còn làm nó biến chất. Bản thảo lẫn bản bông, vốn thuộc lao động thường nhật của tôi, góp phần làm tôi thay tính đổi nết, ngày càng cương ngạnh, còn sự vững vàng quy phạm ngữ pháp tỏ ra ngày càng lung lay thê thảm. Tôi bớt soi những chi tiết nôm na, lỗi cú pháp, những phóng khoáng thơ ca lệch lạc. Tôi bỏ sót lỗi in và từ lặp. Các nhà xuất bản trả lương tôi không để ý nên tiếp tục gửi bản thảo cho tôi và, giống thợ học việc xưởng may, tôi sửa sang tô điểm cho chúng, chẳng mấy để hồn vào tác phẩm. Hồi mới vào nghề, tôi là giáo chủ thuần túy chủ nghĩa, không dung từ vay mượn tiếng Anh, những sự đại khái, lạm dụng từ mới, lẫn những lỗi sai núp bóng hiện đại. Tôi la làng khi tác giả nào viết bất thành cú, chấm phẩy loạn xạ, tự cho mình dùng những phép ẩn dụ được tiếng mạnh dạn nhưng rời rạc. Tôi gạch bỏ và nắn lại những câu rồng rắn đại từ quan hệ. Thế rồi, lần lần, tôi à uôm công việc. Tôi làm mọi thứ ba chớp bảy nhoáng, chẳng tội gì phá hỏng thị lực vì thức thâu đêm tận sáng chuốt từng chi tiết nữa. Phần lớn truyện tôi biên tập, khó tiêu, chẳng đáng được sửa sang, song thỉnh thoảng tôi lại được quyền hưởng những áng văn đượm đà, như những trái cam mọng nắng. Tôi mát lòng hỏi dạ khi một mẫu câu súc tích cô đúc nhiều câu, hoặc một văn bản ứ tràn từ hiếm, từ lóng lỗi thời. Bản thân tôi thích nói cả đẫn hơn là đần; chẳng đáng một hào chỉ thay cho chẳng đáng một xu; xung tiết thay vì lộn tiết; rồi cả đắm nguyệt say hoa, bù trì, bài báng, chân giày chân dép… Tóm lại, để khỏi ăn nói kiểu khọm già thì tôi out chứ không in, tuyệt không ở tiền đồn sành điệu.

Có lẽ người nước ngoài (tôi là một trong số ấy), khi học một thứ tiếng không theo kiểu tình huống mà bằng cách đọc sách kinh điển, thì mẫn cảm hơn với một số đoản ngữ cổ. Bọn họ tưởng đâu qua miệng mình, chúng không có vẻ sai niên đại mà mang dấu triện tiếp biến văn hóa thành công. Lời rườm ngụy trang diện mạo. Việc làm chủ những tinh tế của ngôn ngữ vay mượn ở họ là bằng chứng hiển minh cho một sự bén rễ vào miền đất tị nạn. Phục sinh những cách dùng cũ thôi chưa thỏa, họ còn bơm vào đàm đạo nào vitamin, nào những thành ngữ dân dã kỳ thú thực chứng lòng sùng mộ đặc ngữ. Vốn mài mòn đũng quần ở trường Pháp Sài Gòn, tôi từng ngụp lặn trong thơ Racine, rồi được bọn bạn bổ cho lối nói lái, với tôi mấy kiểu hoa mỹ nào có gì khó, mấy cách tục tằn nào có tối nghĩa, tôi tỏ lời ăn tiếng nói đô thành ô hợp trước cả khi tới Paris.

Tôi được chôn ở nghĩa trang Bobigny. Tôi từng may mắn có vé xem mấy vở kịch, do Deborah Wamer và Lev Dodin dàn dựng, ở nhà văn hóa khu ngoại ô ấy. Một tối đi xem về, tôi bảo Lou, vợ tôi, là tôi muốn, khi buông chèo, có mộ nằm gần nhà hát ấy. Nàng y lời: bia mộ tôi nằm cách mấy tòa tháp vỏn vẹn vài bước chân. Mưa xối xả hôm chôn tôi, một ngày thứ Ba tháng Mười. Không khí căn cắt, gió thốc mạnh, không có hoa hay vòng hoa, và chỉ một nhúm người đưa tôi về nơi an nghỉ cuối cùng. Ulma, Ulma thanh tân vĩnh hằng, mặc váy màu cát và áo trench màu be, đi giày gót cao mà trông thật nhỏ nhoi dưới cây ô khổng lồ. Ba hàng xóm cùng khu nhà, những người tôi có mời đến lễ tân gia, thời tôi còn cố gắng kết tình giao hảo với người khác, có mặt. Những nhà xuất bản tôi làm thuê cho cực chẳng đã phải cử nhân viên truyền thông đến. Hai đồng nghiệp, chuyên gia ngôn ngữ lỗi lạc, cũng cất công. Vợ tôi, trong bộ vét màu lông chuột và áo choàng gabardine xám, mắt sung húp, còn khóe miệng giật giật căng thẳng. Hugues, đồng đội chia lửa của tôi, tín đồ văn chương khắc khổ, đọc điếu văn về tôi, kẻ tha hương làm chủ tiếng Pháp nhuyễn hơn dân bản xứ (quá lời ghê), gã mọt sách mẫn nhuệ (trở nên thậm kỹ tính khi chọn sách đọc, hắn nên nói rõ ra mới phải), biên tập viên hành văn trau chuốt thái quá (tôi mang cái tiếng ấy, bị thổi phồng lên), tay phu chữ kiểu Stakhanov(1) (phải thế thôi, tôi hưởng thù lao đếm chữ trả tiền mà), người viết thư kỳ thú (nhưng không phải nhà văn lỡ dở), với những lá thư nức lòng người trao đổi, kẻ nói chuyện cụt lủn chẳng mấy tự nghe mình, kẻ ghiền chiếu bóng, sùng mộ Mumau và Dreyer, rồi cả Eustache và Cassavetes, cả Kiarostami và Sokourov (biết bao ngày Chủ nhật đã bỏ ra xem lại phim họ!), công dân vũ trụ không định kiến (vẻ vang thay các dịch giả đã cấp thị thực cho tôi đến những miền đối cực), tình nguyện viên dành những buổi thư nhàn lập một xe thư viện (tôi đã yếu lòng muốn đánh đuổi nạn mù chữ ở một số người nhập cư), người bạn trung thành luôn luôn sẵn sàng giúp một tay (tội lỗi đáng yêu của tôi là cứ tưởng mình cần thiết), người chồng chú tâm phá vỡ tính đơn điệu tất yếu của đời sống hôn nhân (kẻ tán dương tôi không nắm đủ lá bài trong tay), ông bố không ngầu lắm nhưng cũng không quá tẻ, như con gái tôi sẽ bảo (Hugues, chuyên gia thế kỷ XVIII, dùng mấy tính từ cầu kỳ hơn, song lại có chút đỉnh thiếu hợp lý). Tóm lại, cùng với tôi thế giới mất một thần dân tuyệt vời, sự ra đi của tôi tạo ra một khoảng trống không ai bù lấp nổi, ngành xuất bản, bị tước một trong những nhân tố giỏi nhất, không tìm được ai thay thế, gia đình tôi mất đầu tàu…

Tiếp đến, con gái tôi, Laure, xống áo kỳ quái kiểu gothic, đọc “Tỉnh mộng”, một bài thơ của Pierre Reverdy, bắt đầu thế này:

Tôi phát hiện ra mình như thế

Lúc thấy đám tang mình diễu qua

Đêm ấy

Hai tay trên ngực tôi bắt tréo

Tôi dự lễ

Và sầu khổ gánh chịu ý nghĩ về cái chết mình.

Nhìn nó, con bé Laure, đến là tội, trong áo bành tô dài tối màu, áo len chui cổ nhẽo nhọt không lấp nổi khuyên rốn, mặt dây chuyền hình sao, lọn tóc tím trên cái đầu màu cánh quạ, móng môi sơn đen. Nước mắt làm thuốc chải mi lem ra chảy thành vệt xuống má. Cả buổi sáng, nó đã lục tung tủ sách của tôi, giở hết các tuyển thơ rồi mới chốt mấy câu của Reverdy. Chắc nó sẽ thích một thứ rậm rật hơn, nếu chuyện chỉ do mình nó quyết, chắc nó đã trích lời một album của Marilyn Manson, Holy Wood (in the Shadow of the Valley of Death).

We have no future

heaven wasn’t made for me

we burn ourselves to hell

as fast as it can be…(2)

Mà thôi, nó đâu phải không biết tôi thích kiểu thờ ma phụng quỷ chỉ ở mức vi lượng, và vào cái buổi khác thường này, nó sốt sắng làm vui lòng tôi, dầu gì cũng còn nhớ những lúc ăn ý của chúng tôi. Mấy tháng trước, dây đàn có căng, tôi mắng mỏ vì nó bùng tiết, nửa đêm gà gáy mới mò về, học gạo trối chết mà chẳng thu được cái sàng khôn nào, lờ đờ mắt bò nhìn tôi khi tôi chìa sách ngoài chương trình ra, lảng ngay khi tôi khơi những điểm bất đồng lên, bài xích tuốt luốt cả lố, lên cơn ấm ớ dậy thì cùng giuộc những đứa khác: tôi không né nổi vài vụ đọ tiếng. Ngạo nghễ tuổi mười bảy, nó đáp trả rằng nào tôi cà riềng cà tỏi và già cốc để đại vương (tôi vừa tròn bốn mươi sáu, mà với nó tôi đã gần lên lão), nào nó đã được tiêm phòng mấy cái lý thuyết u ám của tôi về tồn tại, chúng may ra sẽ có ích khi nào nó sáu chục thu đấy, chứ còn như nó bây giờ, đóa hồng mới hé, thì bơ lơ cũng được. Tôi đồng thời được yêu cầu miễn cho nó mấy cái van xoáy của tôi. Nó không gọi tôi bằng ba nữa mà bằng tên, Văn, và khoái trá nhắc đi nhắc lại: “Này Văn, đừng có xoay vặn van xoáy ra.” Và nó sẽ rất lấy làm cảm kích nếu tôi đừng xù lông khi vỡ chuyện nó đến tiệc quẩy, hút cỏ, giao du với một thằng lêu lổng, vài bữa thời trang chắp vá rồi vài bữa sau lại sắm thắt lưng xích sắt với bốt lính hầm hố, môn nào cũng chỉ có tí kiến thức i tờ, cóp nhặt tiểu sử trên mạng cho các bài luận, thi thử tốt nghiệp thì gian lận, xuyên tạc tên những tiểu thuyết gia đọc trếu tráo, nhồi nhét mấy cái truyện ngắn hư ảo ba xu, chuyện ma cà rồng với xác sống, thứ mình không thủng thì cho là rơm rác, để bị xách tai mới chịu ôn địa, lặn mất dạng những buổi chiều đáng lý phải xem lại mấy chương về chủ nghĩa thực dân, ngáp vặt khi tôi chiếu phim câm cho xem, coi Griffith là lên gân, Stroheim là chối tỉ với cái kính một mắt và các kịch bản rồ dại, ra rạp chỉ để xem mấy bộ phim thảm họa, gửi cho một tập san những đoạn thơ nhại lời bài hát một ban nhạc được ái mộ, muốn học trường mỹ thuật mà chỉ quan tâm đến mỗi Pop Art và qua loa đại khái đến chủ nghĩa biểu hiện Đức, tôi dẫn đi mới vào bảo tàng, thở đánh thượt khi tôi khuyến khích xem vựng tập triển lãm, ngờ tôi bài tân, cái từ được nó đắc thắng hô thần chú bật trong mũ ra để bắt bệnh kháng cự hiện đại ở tôi. Tôi gờm mốt, vậy tôi âm lịch, tôi từ chối tụng ca tuổi trẻ, vậy tôi là động vật tiền sử. Tôi đặt dài hạn một tạp chí khuynh tả đấy, có cảm tình với các liên minh cách mạng đấy, song với nó tôi vẫn là khoắm già cổ hủ, bới tôi không ngửi nổi bọn mồm loa mép dải, lũ tín đồ Stalin quay ngoắt thành Mao-ít rồi thành những kẻ thiển cận chỉ chăm chăm lấy lòng cử tri, bởi tôi không tung hô đám kích động chỉ biết ném đá lực lượng trị an - độ hai chục con xe bị đốt, ba nhà chờ xe buýt bị phá là cái đám ấy đã cho mình được hỉ hả. Không, tôi, tôi đời nhiều hơn thế: cư dân xóm trại thực sự nắm quyền, những người mang dòng máu pha trộn tràn vào xứ Gaule, đủ để bọn bài lai mất ăn mất ngủ.

Tôi ăn cây nào rào cây ấy thôi, chú tôi, gã nhà quê, thì đã cưới Lou, một nàng Bretagne thuần chủng, trắng bóc, và chúng tôi có chung một con bé nước da nõn nà, mũi Hy Lạp, nhưng tóc lại đen như than còn mắt thì xếch. Lấy Lou ngăn tôi rơi vào cái bẫy co cụm cộng đồng, tiền định dành cho những kẻ vô xú, khi họ phải chịu cảnh biệt lập. Tôi thuê nhà ở khu Belleville, dân Á nhan nhản, song bạn chí thiết lại gồm một gã Bắc Phi (Rachid, nhà cú pháp học rất mực uyên bác), rồi con một ông Do Thái tự nhận là công dân toàn cầu (Hugues thân mến), chứ tịnh không có bóng đồng bào nào. Xóm giềng tôi là người Pakistan, Kosovo, Sénégal… Giờ ăn tối, hành lang sực nức đủ mọi loại gia vị. Lũ trẻ cà-phê-sữa chơi ở sân sau, trước mỗi thềm nghỉ chồng hàng đống thùng bên trong xếp đầy giáo trình Assimil dạy tiếng, từ điển créole, truyện trinh thám ố bẩn, tiểu thuyết diễm tình, đĩa DVD lậu, thiên tình sử Bollywood hoặc phim xà phòng, đĩa CD nhạc điện tử, quần áo giày dép cũ. Nhà chật, nên đó là cách, với người thuê nhà, thoát khỏi những thứ bỏ xó. Các món đồ ấy để hết cho người cùng khu nhà và khách khứa tùy nghi. Từng người một bới thùng lúc đi ngang qua, cầm theo quyển sách và hai ba cái đĩa, chán lại trả về chỗ cũ. Đó là một đống hổ lốn những thứ cũ kỹ ở khoang cầu thang. Dăm bữa nửa tháng, người của hội Emmaüs đến giải phóng chúng tôi khỏi kho hầm bà lằng ấy, hoặc dân khu nhà đem ra chợ đồ cũ bán tháo. Với món tiền thu được, họ đi chợ giời ở Clignancourt, mang về cái thùng gỗ chạm, cái áo khoác retro, sách bỏ túi cũ, những món đồ dành cho dân du lịch, rồi gần như lại được bỏ ngay vào những thùng các tông chồng đống cạnh các cửa ra vào.

Cuối tuần, từ tầng trệt lên tầng bảy, chỗ tôi ở, các dòng nhạc, tạp kỹ, rap hoặc raĩ, tuôn chảy qua các bức tường, mỏng đến nỗi nghe được cả tiếng òng ọc trong đường ống dẫn nước nhà bên cạnh. Kẻ bẳn tính hẳn đã la ó vì các phiền toái ấy. Nhưng chúng tôi thì chẳng ai phàn nàn về đời sống chung đụng. Tôi đút nút tai Quies hoặc nghe Ligeti bằng tai nghe, Laure tăng âm lượng dàn mini, dìm mẹ nó vào dòng thác death metal, trước khi tôi ra tay, bắt nó hạ âm lượng xuống và ôn thi, kẻo tôi lại lần nữa phải vào vai cú vọ.

Cấp một đứng đầu lớp, vừa lên cấp hai là nó bắt đầu không còn xếp thứ hạng cao và không ngửi nổi những học sinh xuất sắc nhất nữa. Lột bỏ những bộ cánh bé ngoan, nó chắc đã làm dáng lố lăng để tỏ sự khác người nếu Lou không phản đối kịch liệt. Vợ tôi không chạy theo thời thượng. Thanh lịch kiểu kín đáo, hợp tạng một hiệu trưởng, nàng hiếm khi trang điểm, chỉ đánh nhẹ môi, mái tóc màu hạt dẻ thắt nơ đen, đeo kính áp tròng thay cho cặp kính đồi mồi nhìn như kính lúp, phối khăn quàng với áo chui đầu màu phấn, giày cao cổ với áo gió, nhẫn cưới là món trang sức duy nhất, không thích đồ đá hay đồ thêu, không chọn đồ bó sát màu nê ông để tập yoga, trong tủ chỉ có quần áo không bao giờ lỗi mốt. Nhiều người chắc sẽ bảo mọi thứ ở nàng thuộc kiểu cổ điển ủ dột, nhưng tôi thì lại tận thưởng lối phục sức nền nã ấy.

Khi chúng tôi quen nhau, hai mươi năm trước, lúc nàng vừa tốt nghiệp trường sư phạm, tôi đã bị ấn tượng vì sự thiếu phóng túng ở nàng. Nàng làm mọi thứ đều đặn như đồng hồ, thứ Hai chạy bộ, thứ Tư đến bể bơi, hai tháng một lần đi xông hơi, không du lịch, ghét bất ngờ (trái với Ulma, Ulma tố nga của tôi, về sau tôi đã phải nhận ra, bực bội khi mọi thứ được sắp sẵn), đi bộ dã ngoại đứng một lần, đầu đội mũ ngủ, chỉ đọc những tiểu luận chi chít đặc ngữ và truyện cổ tích trẻ con (còn Ulma, em muôn thưở say mê Proust), không thuốc không rượu (trong khi tôi chính hãng ma men bợm khói), vào quán chỉ gọi bất di bất dịch cùng món, còn những món lạ miệng (vuốt ve vòm miệng tôi) thì đố bao giờ, ở nhà nàng chỉ ăn ngũ cốc, trứng lòng đào, cà rốt bào hoặc cần tây nghiền và, thỉnh thoảng, vi phạm chế độ ăn kiêng, thịt bò hầm (tôi tự đắc đã thay đổi được những thói quen ấy).

Quyến rũ tôi là đôi mắt màu ngọc lam, dáng cổ thanh và vóc người mảnh của nàng. Cùng tháng năm, nàng điều chỉnh theo lối sống của tôi, không nề nếp như của nàng. Nàng đi cùng tôi một chuyến du thuyền dọc sông Nil, một vòng thăm thủ đô các nước châu Âu, một chuyến thăm các thành phố Mỹ La tinh… Thường xuyên kiết xác sau những đận ấy, chúng tôi gọi lại các cuộc viễn du của mình trước một đĩa mì ống, thực đơn cho mọi bữa tối kỳ đến khi nào tài khoản hết âm. Laure chưa sinh, chi tiêu hằng ngày không có gì thái quá, thành thử chúng tôi còn dành dụm được để đi nghỉ cuối tuần ở Port-Bou hoặc nơi khác. Chúng tôi trọ ở những khách sạn hạng ba, nhất nhất cuốc bộ để tiết kiệm vé xe, ăn trưa thì đứng luôn tại quầy những quán ăn nhanh bán đồ uống loãng và bánh kẹp ỉu rẻ như cho. Bù lại, chúng tôi ườn người, lặn ngụp trong nước biển ấm nóng, thăm thú hang động, ngắm hoàng hôn ráng đỏ, nhâm nhi rượu vang địa phương ngoài hiên, lang thang khắp những bảo tàng tranh, giữa những tuyệt tác, nhồi chặt hành lý chuyên khảo của nghệ sĩ đương đại và, cuối chuyến đi thì vung nốt những đồng cuối cùng tự thết mình đặc sản bản thổ. Các kỳ nghỉ ấy sớm làm chúng tôi kiệt quệ. Tôi kiếm được chẳng bao lăm, nửa già phần lương mà Lou, lúc ấy đang là giáo viên tiểu học, được lĩnh thì dành để trả tiền thuê nhà, dù chúng tôi chỉ có trên phố Charonne một căn buồng nhỏ. Hễ chúng tôi tự ban cho mình bốn ngày nghỉ mát, là tôi phải vắt chân lên cổ, nhoáng nhoáng trả bản thảo biên tập để nhận bản mới. Và phải nhờ đến một khoản thừa kế xoàng, được hưởng khi một ông bác của Lou mất, nàng và tôi mới có thể đi chơi Nam Mỹ.

Laure sinh rồi, chúng tôi chuyển về Belleville, Lou trở lại làm con người quẩn quanh. Vợ chồng có phần tơi rã, chúng tôi cự nự nhau chuyện lông gà vỏ tỏi, kiểu cách của nàng làm tôi khó chịu, nàng gọi tôi là đồ nghiện ngập bê tha, vì tôi đốt thuốc và nốc rượu. Nàng lại nhập hội tín đồ yoga, lại theo đường bể bơi, tôi thì khỏi tập tành gì song chẳng vì thế mà phình hơn, người vẫn ngẳng như cò hương. Laure làm đệm giữa chúng tôi, khi tiếng to lên. “Chớ trước mặt con bé!” là câu thốt gọt tù các góc nhọn. Ai quay lại việc người nấy, lưỡng lự ly hôn, không băng qua sông Rubicon. Chúng tôi là những bậc phụ mẫu trách nhiệm đầy mình, không muốn Laure vất vưởng, bị đùn đẩy giữa cha và mẹ.

Đặt chân đến những miền đất lạ hẳn sẽ tốt cho chúng tôi đấy. Thế nhưng hi hữu lắm chúng tôi mới trốn đi được, khi nhà giờ đã thêm miệng ăn. Sang hè, lúc cần một hớp khí trời, chúng tôi về đồng quê trên chiếc Austin cổ của nhà, đến chỗ cô bạn Lou đã sửa sang thôn trại. Ở đó tôi buồn tình, tôi dựng mô hình cho Laure, lơ mơ đọc sách, gà gật trên võng, lúc uống khai vị chiều mới thò mặt, đi ngủ giờ gà lên chuồng, chỉ nhấp nhổm muốn về Paris, để lại la cà quán xá, trên phố Oberkampí, nơi từ bấy tôi náu mình sửa bản thảo. Laure lớn lên, Lou và tôi không còn là cặp tình nhân trẻ nữa. Tôi vẫn thèm muốn nàng, thân thể nàng không nhàu nhò vì những ngấn thịt kém duyên, eo lưng nàng, tôn lên nhờ những tấm váy ôm, không đẫy ra, má nàng không phị xuống, cánh tay nàng vẫn tròn lẳn hấp dẫn, các vết chân chim không chỉ điểm tuổi nàng (nhưng từ nàng tỏa ra mùi đàn bà đã chúi, còn Ulma lại lưu giữ, ở tuổi ngót tứ tuần, vẻ yêu kiều thơ trẻ, kiểu Lilian Gish). Lou toát lên nét khỏe khoắn, trong khi tôi thái dương điểm bạc, trán chằng nếp nhăn, gan rối loạn chức năng vì những cơn bí tỉ, phổi ám bẩn vì đốt thuốc cả vào ban đêm. Nàng theo chế độ ăn chay, tôi lại chén thịt. Buổi tối nàng nhấp trà thảo dược, còn tôi nuốt Lexomil. Tôi lê la quán xá, độc ẩm cạnh những cú đêm khác, nàng đi thư trà quán, nơi ta thưởng trà Darjeeling kèm bánh macaron giữa hai lượt đọc thơ haiku. Sáng ngày ra nàng vào ngay việc lớn, dọn dẹp nhà cửa kỳ đến khi mọi thứ như lau như li, tôi là kẻ dậy muộn loang toàng, bàn làm việc oằn xuống vì cả tấn giấy tờ chất đống. Tính thẳng băng, nàng đi ngay vào việc, còn tôi dềnh dàng mãi mới tỏ ý. Chúng tôi được mời đi đâu, y như rằng tôi vụng miệng biếng chân, nàng cứu các phen thất lễ của tôi. Tính xởi lởi (trái với Ulma, ít vồn vã), ở đâu nàng cũng được chào đón, còn tôi, với những thô thiển, bóng gió thâm u, chỉ làm được Rachid với Hugues cười. Nàng không chê hội hè, tôi lại cực chẳng đã mới đi (cũng giống Ulma, không bao giờ bù khú). Nàng tìm hiểu những ấn bản mới toanh (trong khi Ulma đọc mãi hoài Đi tìm thời gian đã mất), tôi, về nguyên tắc, không bao giờ để mình vướng bận vì những thứ chưa qua bộ lọc thời gian. Nàng ghi chép chi tiêu chặt chẽ như thủ quỹ (nết căn cơ của nàng chọi với tính thiếu lo xa của Ulma, không xu lót túi cũng bất kể ngày mai), tôi tiêu phá tiêu tán ngay khi chúng tôi ngừng đi chơi xa, và không có nàng thì tôi đã ngốn hết tiền tiết kiệm của cả hai. Nàng rút chân khỏi các hội từ thiện tham gia hồi trẻ, phản đối sự chểnh mảng người ta nghi cho họ, tôi bền bỉ, trên xe thư viện của mình, xóa mù chữ cho người nhập cư trái phép. Nàng bầu trung dung, tôi là kẻ bỏ phiếu trắng ngả hướng vô chính phủ. Tranh luận chính trị của tôi với Rachid, người chống đối toàn cầu hóa, với nàng chỉ là chuyện tào lao vỉa hè cà kê dê ngỗng. Hugues và tôi cứ khơi chuyện thời sự là nàng ngờ chúng tôi vừa phản động vừa phê phán tuốt kiểu thầy bói mù xem voi. Một vực thẳm khoét sâu giữa nàng và tôi. Chúng tôi chia rẽ cả về cách dạy con. Làm hiệu trưởng trường công mà nàng gợi ý tôi đưa cô công chúa của chúng tôi vào học cấp ba tư thục, nơi nó sẽ được quản tốt hơn, tôi thì đoan chắc nó sẽ đàn đúm với bọn công tử, nên sẽ chẳng tiến bộ mà còn có cơ nhiễm thói chảnh chọe. Nàng bao bọc Laure hết mực, tôi lại mở mắt cho nó về thực tại não nề. Nàng nhất quyết muốn nó cứ là con một, còn tôi sẽ chẳng khước từ nặn thêm nhóc nữa mà có thể sẽ là truyền thần của tôi, cả xác lẫn hồn.

Út ít trong một gia tộc đông đúc, Lou xung khắc với mấy anh em con bà cả. Nhà cha mẹ ở Quimper là nơi đối đầu giữa nàng, hạng lông, và các anh trai, lũ đô vật lăm le gây gổ. Thành thử, lấy tôi rồi, nàng nguyện chỉ có một cục cưng, và cầu giời, một cô con gái! Nàng bảo đã ớn lè lưỡi sự đè đầu cưỡi cổ của bọn đực rựa rồi, và sát cánh cùng Laure mỗi lần tôi nho nhe lấy một thằng bé cừ hơn ra làm gương. Cả hai viện lý thằng kia được dạy kèm riêng và ba nó, dân kỹ sư, thúc đít nó, trong khi tôi đã chẳng xì xu nào cho phụ đạo toán thì chớ lại còn chỉ trách với móc. Sau đó thì lửa bùng lên, Lou tố tôi độc đoán nhất nhất ý mình. Laure khăng khăng giáo viên thiên vị bọn oắt con mặt mụn không có lấy một gam óc tưởng tượng nhưng nem nép, thiệt thời cho những đứa sáng tạo nổi loạn như nó. Lục đục ngày càng to, mắt Lou trừng lên khi tôi gắng làm lành, Laure lợi dụng tình thế để được mẹ cho tót đi sàn nhảy khi vẫn chưa ôn bài xong, đến nỗi chỉ vừa khẳm điểm đỗ vớt kỳ thi vấn đáp. Nó có thộn gì cho cam, còn được điểm trung bình khá tiếng Pháp và điểm khá nghệ thuật tạo hình, nhưng với nó trường trung học là cái lò ngạt, không thoát khỏi đó thì nó sẽ mất toi khả năng sáng tạo, cái thứ có bó hẹp vào mỗi ngoại hình quái dị đâu: nó chụp, cũng có mắt, tôi công nhận, ảnh đen trắng đường phố không người lai vãng và cây cối trụi trơ. Nó mụ đi trước các bức toàn cảnh của Josef Koudelka, mặt mũi phương Tây ít làm nó hào hứng bao nhiêu thì nó mơ chộp được người Di gan đời thực bấy nhiêu. Chính nó cũng từng có giai đoạn Di gan, mặc váy hoa lượt thượt, đeo vòng nặng trịch và hoa tai tua rua, rồi mới chốt phong cách gothic, theo nó là ăn rơ với thái độ phản tư sản của nó hơn. Như vậy nó đã tìm hiểu về dân Rou, còn cất công đi mượn hẳn tài liệu ở thư viện Parmentier và, được một lần, nghiên cứu vấn đề của mình ra đầu ra đũa. Nó không kém phần tự đắc đã làm tôi á khẩu, khi thuyết trình chi tiết cho tôi về những dòng di chuyển của tộc người du cư này. Nhưng những cuộc đình chiến, tạm hoãn sự nổi loạn chống cả bầy người lớn của nó, không phải chuyện cơm bửa. Nói chung nó là loại đầu bò đầu bướu, kiểu một tấc không nhường mới khẳng định được mình khác người, và, những đợt chúng tôi đả nhau vô thưởng vô phạt, thì cờ đến tay ai người ấy phất. Nó càng được thể không chịu hạ vũ khí vì, lệch pha nhau, Lou và tôi không thật có uy với nó, con bé chỉ tuân theo các cơn ẩm ương riêng.

Trước lúc Ulma xuất hiện, tôi không viên mãn cũng chẳng khổ sở. Cuộc hôn nhân của tôi nay ấm mai lạnh, nhưng tôi không có phiêu lưu ngoài luồng. Tôi không chối mình có lúc bị cám dỗ. Nụ cười một nàng chơi đêm gặp ngoài quán bar, cặp đùi nõn một cô nghỉ hè tắm nắng trên bãi biển, bờ vai trần xinh xẻo của một bé người Ý lang thang trong Paris, da đỏ thịt thắm của một em bán bánh mì mũm mĩm, nét đành hanh của một Lolita là đủ để đánh thức các giác quan tôi. Vài cô không dửng dưng trước khác biệt giữa tôi, có phần dè dặt, và những gã khệnh sỗ sàng. Nhưng đôi lời đưa đẩy, một ly mojito cùng uống, một cuộc dạo bộ Vườn thực vật, một buổi chiếu bóng, rồi chúng tôi dừng lại đó, dù cho, lúc từ biệt, các cô bá cổ nép vào người tôi, hoặc thom phớt miệng tôi. Đầu ngập hình ảnh các cô, tôi nín thít về những lần ăn vụng vặt ấy, bằng không Lou chắc sẽ bảo tôi lộn lèo, tỏ vẻ, đố chệch đi đâu. Để có sao nói vậy, tôi mê đâm thịt, rình mẻ lớn, thèm muốn thân xác mạnh đến độ tôi những muốn ghi tên cả mười một nghìn trinh nữ(3) lên bảng chiến tích nếu không bị ngăn cản. Nàng thì đoan chắc tôi đã lừa dối nàng hơn một lần và ngọt nhạt mô tả tình cảnh của mình, bậc hiền thê chẳng đến nỗi đi rình mò đấng lang quân, người phụ nữ lý trí bất khả xâm phạm trước những lần đức ông chồng vi phạm lời thề son sắt. Khi, mở sách tôi ra, thấy ở trang đệm nguệch ngoạc một tên phụ nữ kèm số điện thoại, nàng đanh mặt lại, nhưng vẫn thản nhiên, như thể chẳng có gì, từ tôi ra, có thể làm nàng bùng nộ khí xung thiên. Đầy uy nghi, bóng gió, nàng gióng rằng chuyện chẳng làm nàng trầy da xước vảy, kể cả tôi có sống đàng điếm, chỗ này một con nứng tình, chỗ nọ một ả chài trai. Nàng chẳng phải sen đầm, nàng không coi chồng là tù phạm, v.v… Nàng chẳng vì thế mà tha cho tôi bản án dụng tâm: hễ gặp dịp là tôi bạ giường nào cũng trườn vào, các chinh phục của tôi toàn phường mèo mả gà đồng, vợt dễ cái một. Nàng thì, như nàng kể với Laure, tôi đã tán tỉnh đàng hoàng, nàng đã làm tôi mòn mỏi, đã ra điều kiện, và chỉ ban cho tôi một nụ hôn sau những đợt tiếp cận vô hồi kỳ trận, và sau hôm cưới mới cho tôi thò chân qua ngưỡng cửa.

Tôi không phải kẻ đầu tiên ve vãn nàng, mà kình địch nào một đồng môn sư phạm của nàng, nhà La tinh học bầu bĩnh, nào một gã Hà Lan, tay môi giới nhà đất đã cho nàng thuê căn buồng ở Abbesses, nào một thánh cày thi không mệt mỏi. Trong hàng ngũ còn có, tuy ít lẵng nhẵng hơn, một tay viết tả pín lù, chấp bút cho một nghị viên Rastignac(4) rất mực thời thượng, rồi một thạc sĩ sư phạm tiếng Anh đầu có sỏi, theo lời nàng. Đen cho anh ta, nàng lại nhắm tôi, trong lúc bao kẻ ngấp nghé. Hai mươi ba tuổi, nàng kháu gái, người qua đường ngoái nhìn, cánh xe tải huýt gọi trên phố, những gã hám gái à oi. Nhưng vậy đấy, nàng chẳng rõ tại sao, tôi lại nẫng tay trên, có lẽ vì tôi là kẻ nơi khác đến và nàng tan chảy trước vẻ chó hoang của tôi. Nàng chỉ biết lớt phớt về châu Á, với nàng là châu lục của Phật giáo thiền tông. Về quê hương tôi, nàng chỉ có hình dung mơ hồ: những đồng lúa bát ngát, những triền cát san sát dừa, những quang cảnh tiêu điều vì chiến tranh. Nàng chưa được mười tuổi thì có biểu tình chống để quốc đời lính Mỹ rút khỏi Việt Nam, nàng chưa tốt nghiệp phổ thông thì dòng thuyền nhân rời bỏ đất nước tôi được đưa lên trang nhất các báo. Nàng nhớ Hồ Chí Minh được gọi là nhà giải phóng Đông Dương, thắng cả kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, dù ông qua đời trước khi cộng sản tiến vào Sài Gòn và nước Việt Nam thống nhất thành lập.

Tôi không day nhấn vào thân phận nhập cư của mình, mà gạch chéo trang lai lịch bản thân. Như thợ nề trét vữa tường bao, tôi củng cố tuyến phòng thủ, dựng những nguyên tắc không được vượt qua: không lê tổ quốc theo gót giày, tháo bỏ hết dây neo mà không chìm cả người lẫn của, đặt công tơ về lại số không kể từ lúc rũ vai sạch bụi quá khứ, không lãng quên, không chối bỏ điều gì, nhưng tách khỏi bầy chó cứ chực quay lại đống mửa, dằn lòng điều hòa chứng tăng cảm giác. Nhờ thế tôi đạt được vẻ bình hòa bề ngoài không khỏi có lúc lạc điệu, tôi im tiệt đi, chẳng chơi con bài minh bạch hão huyền cho bao khiếm nhã được nhân danh.

Bấy nhiêu quyết tâm hay ho hẳn đã đứng vững nếu Ulma không ló ra nơi cuối chân trời. Tôi cảm tưởng đầu gối mình sụn xuống khi được thư em. Chuyện cách đây già năm. Tôi không hé lộ nội dung thư cho cả vợ lẫn con. Nhưng chẳng mấy hồi hai người biết đến sự tồn tại của Ulma. Laure lờ lơ bơ phớt, Lou giả đò bàng quan trước cái bí mật lộ thiên của tôi, nhưng lại sôi máu. Nàng tự tố mình qua những lời bóng gió hay những lúc im lặng hằm hè. Kỳ thực, chuyện xảy ra là một cơn địa chấn thực thụ, dần dà tôi mới đo được biên độ của nó. Lou ấp ủ những kế hoạch đen tối, tôi thấm thìa nghiệm vào thân câu ngạn ngữ: chơi dao lắm có ngày đứt tay. Lou, đoán tôi không nói hết với nàng, thuê thám tử bám đuôi tôi. Tấn kịch không có happy end: tôi từ nhà Ulma đi ra, trên phố Quatre-Vents, lúc hai giờ sáng, đang sang ngang đại lộ Saint-Germain thì một chiếc xe cà tàng, trông quen quen, tăng tốc, lao đến đâm thẳng vào tôi. Tôi bị hất lên rồi rơi xuống mặt đường đá dăm, chết tươi. Tôi chỉ kịp nhìn thấy sau tay lái chiếc Austin là Lou.