← Quay lại trang sách

Chương 19 MÙA ĐÔNG CUỐI CÙNG

Ngày mồng 10 tháng 9 năm 1855, sau 330 ngày vây hãm, sau trận đánh Alama gần một năm, tướng Pelissier, bây giờ đã được phong nguyên soái, tiến vào thành phố Sebasptopl.

Cũng tối hôm đó ở Paris, súng đại bác trong đền Tử sĩ nổ vang báo tin thắng lớn. Stephanie nằm trong cỗ xe nhà bếp, ngủ đêm thứ hai không có Pompette. Hôm trước nàng đã mai táng bà, liệm thi hài bàtrong lá cờ ba sắc cùng với tấm huân chương tướng Mac Mahon tặng thưởng cho bà hôm chiến thắng.

Lúc sinh thời Pompette yêu lính và yêu cờ. Đây là hành vi thể hiện tình cảm chân thành và tha thiết của Stephanie đối với bà. Phá mấy chiếc quần đỏ của đồng phục binh lính Bắc Phi, cộng với mấy chiếc áo xanh lam và mấy tấm vải bọc màu trắng, nàng đã khâu thành lá quốc kỳ tam tài của nước Pháp. Khi bác chủ canteen Tuboisquoi cùng Stephanie ngắm lại lần cuối cùng Pompette liệm trong lá cờ Tổ quốc, đặt trong quan tài, họ ôm chặt nhau, nức nở khóc.

Sau đó mọi người bảo Stephanie chuyển sang xe của đoàn quân, nhưng nàng không chịu, vẫn cứ nghỉ trong cổ xe nhà bếp, nơi còn lưu lại biết bao vết tích của Pompette.

Tối hôm đó, trời vừa sẫm tối, Stephanie ngồi cô độc, chỉ có con chó Caesar bên cạnh. Nàng tan nát cõi lòng, cô đơn, không tình yêu, bị René bỏ và bản thân nàng bỏ Boris, người đã yêu nàng và đến giờ nàng vẫn còn yêu. Bất giác Stephanie nghĩ đến tương lai...

Mệt mỏi, chán chường, tuyệt vọng, nàng nghĩ đến đôi vai vạm vỡ của Boris, đến những cái hôn nồng cháy của chàng, đến tấm thân chàng, đến hai cánh tay chàng và mỗi khi nàng nép vào vòng của chúng, nàng quên hết mọi thứ trên đời.

Boris... Người Stephanie sẽ không bao giờ còn được gặp lại. René... người nàng sẽ có ngày gặp lại. Tất nhiên là như vậy, khi nào nàng trở về Paris, tìm lại hai đứa con, trở lại với gia đình, với xã hội của nàng và cũng là xã hội của René. Tất cả những kỷ niệm dính líu đến René đều làm nàng căm ghét.

Nàng chưa có dự tính gì cho tương lai, mặc dù nàng suy nghĩ mãi về nó. Nàng vẫn còn sống. Để làm gì kia chứ? Còn sống nàng vẫn còn phải chịu đựng một cuộc đời ngoài sự tính toán của nàng. Nàng đã thoáng có ý nghĩ, hay trở về trang ấp tại Vendée, đưa hai con nàng về đấy sống? Hoặc sang Calédonia sống cuộc đời của kẻ tha hương, làm một phụ nữ kinh doanh. Nhưng nếu vậy nàng sẽ phải xa các con. Chính hai đứa con đã níu chân nàng lại Pháp - đúng ra là níu nàng lại trên cõi đời.

Nàng miên man nghĩ để tìm ra một cách nào đó chạy trốn xã hội Paris, nhưng trong thâm tâm, nàng thừa biết rằng nàng sẽ chẳng đi đâu được. Và nàng sẽ đành trở lại điểm xuất phát của nàng: trường quân chính. Từ trường quân chính đó, nàng sẽ trở thành phu nhân Dytteville... Cuộc đời nàng sẽ bắt đầu lại, sẽ tiếp tục mà... công có René!

Stephanie cố nấn ná đến mức tối đa trên đất Crimée. Nàng không viết thư cho ai. Dù sao đi nữa thì rồi nàng cũng phải về Paris và khi đó nàng sẽ phó mặc cho số phận đưa đẩy.

Stephanie vuốt ve lưng con chó Caesar, thì thầm với nó:

- Thôi, ta chẳng nên suy nghĩ thêm nữa! Muốn thế nào ta cũng chấp nhận!

"Ngày mai, ngày mai - nàng tự nhủ - Từ mai ta sống như tất cả mọi người và sẽ quên đi nỗi cô đơn. Ta phải làm như thế thôi, nếu không ta sẽ chết mất" Nàng chợt nhớ đến Pompette và mắt nàng rơm rớm. Ôi, Pompette phúc hậu, Pompette thân yêu của ta. Bà không còn nữa và ta thiếu đi một nguồn tình cảm lớn lao, giúp ta chịu đựng những nỗi đắng cay của cuộc đời.

Trong tâm trạng buồn phiền, Stephanie đâm ghen với số phận của Pompette. Bà đã chết giữa lúc đang sôi nổi hoạt động, giữa lúc biết ấm áp là quý và rét mướt là khổ. Và chính lúc Tử thần đưa lưỡi hái xuống lấy linh hồn bà thì cũng là lúc bà chan chứa hy vọng sắp được đam mê trong tình ái. Bởi Stephanie biết giữa bà và bác chủ canteen Tuboisquoi có một mối tình lành mạnh và đằm thắm.

Hơn nữa Pompette thương yêu tất cả mọi người và sẵn sàng ban tình cảm đầm ấm, nồng nhiệt của bà cho người đàn ông nào thật sự quý mến bà, cần đến bà... Pompette có được diễm phúc khi không biết tuổi già và không phải chịu cảnh trái tim lạnh giá bao giờ... Đúng đến giây phút điểm, khi Pompette sắp bước sang cái tuổi khô héo thì bà tan biến. Và thế là cuộc đời bà chỉ toàn là hoạt động sôi nổi, yêu thương đằm thắm và khỏe mạnh chân tay...

Stephanie thèm được sống như thế trong lúc còn tồn tại trên thế gian... Nàng thèm được chết đúng lúc tuổi già bắt đầu ngấp nghé. Nàng khao khát được sống cuộc đời giống như nàng đã chọn. Nàng mong muốn đứng trước nỗi hiểm nguy giống như người lính. Nàng mong được chết ngay lập tức trong cuộc đọ kiếm, chết ngay không đau đớn gì hết, như Pompette đã chết... giữa lúc đang sung sức, đang vui tươi... chưa kịp biết đến khổ đau.

Sống như thế cuộc đời đơn giản biết chừng nào! Khi hai tay đã buông xuôi thì không còn con cái, không còn tình yêu, không còn tương lai, tóm lại không còn phải lo lắng băn khoăn, buồn bã về thứ gì nữa.

Nhưng nàng vẫn còn sống.

Nàng vẫn phải tiếp tục cuộc sống.

Vả lại đâu phải nàng đã mất hết? Nàng vẫn còn những người lính của Trung đoàn Bắc Phi. Vẫn còn con chó Caesar, ân nhân của nàng. Con chó đã cứu sống nàng và bây giờ nó chỉ tuân lệnh một mình nàng, và nàng yêu nó.

Đột nhiên một nỗi cay đắng từ đâu kéo tới làm nàng không kìm được, bất giác thổn thức. Nàng cứ khóc tấm tức cho đến lúc nỗi lòng vơi đi và nàng ngủ thiếp lúc nào không biết, bàn tay vẫn đặt lên đầu con Caesar. Con chó chừng như hiểu tâm sự chủ, cũng gừ gừ những tiếng đồng cảm.

Hôm sau, Stephanie trở lại túp nhà gỗ của canteen với con chó Caesar. Ngoài bác chủ canteen Tuboisquoi và cô gái xinh đẹp Adele, nhân viên nhà bếp của trung đoàn Bắc Phi số 1, con chó ghen tị với tất cả mọi người. Bất cứ ai, ngoài hai người ấy, định đến gần nàng đều bị con Caesar nhe nanh ra doạ.

Chan hoà vào cuộc sống ồn ào, giữa những chàng trai Trung đoàn Bắc Phi hồ hởi, giữa những xoong chảo nồi niêu, những câu nói đùa nhiều lúc tục tĩu nhưng chân thành, những món ăn đủ kiểu, những bữa rượu nhộn nhạo. Stephanie dần dần không còn thời giờ nghĩ ngợi vẩn vơ nữa. Sự thăng bằng thanh thản trở lại nơi trí óc nàng.

Sống ở đây, nàng thường xuyên nghe tin tức Paris, biết được báo chí đăng những tin gì, thấy được hướng phát triển của cuộc chiến tranh mà mọi người đều ngán ngẩm. Tướng Pelissier cũng chẳng còn mưu tính những chiến thắng gì lớn lao. Quân Pháp cũng như quân Nga xem chừng chẳng muốn nhảy vào thêm một cuộc đụng độ nào dữ dội nữa. Pháo binh đôi bên chỉ lâu lâu mới nả vài phát gọi là cho không khí đỡ buồn tẻ, và như để ra vẻ là họ vẫn còn đang đóng ở đây.

Mùa Đông đã sắp đến. Một cuộc hội nghị được triệu tập ở Paris, nhưng chẳng đi đến được quyết định nào cụ thể. Nước Pháp rõ ràng là mong muốn hoà bình, nhất là nông dân làng quê và giới kinh doanh. Nước Nga thì cho rằng cuộc bảo vệ Sebastopol như thế cũng là không đến nỗi mất danh dự gì mấy và họ có thể ngồi vào bàn thương lượng. Đúng lúc đó và cũng nhân dịp đó, nước Áo đứng ra làm trung gian hoà giải. Và bây giờ đến lượt các quan chức ngoại giao bắt đầu tấp nập hoạt động.

Đấu tháng 10, nguyên soái Palissier cho gọi Stephanie lên gặp.

- Cô Phanie! Ngày mồng 5 tháng Chạp này trung đoàn Bắc Phi số 1 sẽ tham dự một cuộc duyệt binh lớn ở Paris để kỷ niệm ngày chúng ta từ mặt trận Crimée trở về. Cô và Pompette là hai phụ nữ duy nhất tham gia trận đánh chiếm pháo đài Malakof. Pompette hy sinh rồi. Cô được quyền nhận vinh dự của cả hai. Cô sẽ về Pháp!

"Tháng Chạp ư? Rén cưới cũng vào tháng Chạp!"

- Thưa Nguyên soái, đó phải chăng là mệnh lệnh?

- Không đâu. Tất cả các cô đầu bếp đều muốn đi dự cuộc duyệt binh lớn này, nhưng cô có quyền hơn họ. Tôi đã suy nghĩ rồi và tôi chọn cô, Phanie!

Nàng nhắm mắt một giây đồng hồ. Nghĩ đến chuyện trở về Paris, nàng thấy sợ. Nàng sợ mọi thứ. Nàng nghĩ đến hai đứa con, cố kìm hai dòng nước mắt, nói với vị nguyên soái:

- Thưa Nguyên soái, tôi muốn được ở lại đây!

- Phanie! Tôi biết gốc gác của cô... hành động tình nguyện nhập ngũ của cô nói chung là cao đẹp, nếu như không quá khắt khe. Và tôi đề nghị... Thưa phu nhân Dytteville, mời phu nhân hãy ngồi xuống đã - ông ta đột nhiên thay đổi giọng điệu - Tại sao phu nhân muốn ở lại đây?

- Tôi không muốn xa các quân nhân Bắc Phi của tôi.

- Phu nhân nói không đúng! Chẳng lẽ phu nhân lại say mê cuộc đời người lính đến thế hay sao? Tôi tin rằng phu nhân muốn ở lại đây vì những nguyên nhân khác. Nhưng tôi không cần quan tâm đến chúng. Vậy là phu nhân không muốn tham dự cuộc duyệt binh lớn? Vậy tôi có thể làm gì giúp phu nhân? Tôi hứa sẽ an cho phu nhân điều phu nhân yêu cầu.

- Thưa Nguyên soái,tôi mong muốn được là người cuối cùng rời khỏi đây, trên chuyến tàu cuối cùng.

Nguyên soái Palissier ngạc nhiên nhìn Stephanie. Nàng nói thêm như thể thanh minh:

- Tôi nghĩ đến các binh sĩ Trung đoàn Bắc Phi hiện còn cần đến tôi.

- Phu nhân muốn hy sinh tận tụy với họ đến như vậy sao?

- Không phải. Tôi quý mến họ, thưa Nguyên soái, và tôi tin họ cũng quý mến tôi. Tôi chỉ cần có như vậy thôi.

Nguyên soái Palissier từ từ bước đến bên nàng. Stephanie đứng dậy. Ông ta nâng bàn tay nàng, đặt đôi môi lên đó, như thể họ đang trong một phòng khách quý phái ở kinh đô Paris.

- Tôi xin tỏ lòng khâm phục phu nhân. Điều tôi ban cho Phanie tôi đành phải rút lại với phu nhân Dytteville. Các binh sĩ Trung đoàn Bắc Phi sẽ vui mừng thấy phu nhân từ chối trở lại nước Pháp trước họ.

- Cảm ơn Nguyên soái.

Bước chân ra khỏi trụ sở Bộ Tư lệnh mặt trận, Stephanie thấy lòng lâng lâng. Vậy là nàng đã lui được chuyện trở về Paris thêm vài tháng nữa, cuộc trở về mà nàng rất sợ. Tuy nhiên trong óc nàng không hiểu sao không thể không nghĩ đến Paris, đến bà mẹ chồng Francoise, đến cô bạn thân thiết Amélie, đến chàng người tình nhu nhược René đã vì mẹ mà bỏ rơi nàng.

Nghĩ đến họ, nước mắt tủi hờn trào ra và nàng lẩm bẩm một mình:

- Họ đâu cần mình... họ đâu đợi mình... không ai chờ mong mình hết!

Về đến nơi, nàng rót một cốc rượu đầy và nốc một hơi cạn. Nhìn thái độ tuyệt vọng ấy, bác chủ canteen Tuboisquoi hiểu rằng trong lòng "cô Phanie" vừa mới xảy ra một sự kiện gì.

Đúng vậy, Stephanie muốn mình chỉ là Phanie. Ít nhất cũng kéo dài được đến chuyến tàu cuối cùng rời khỏi đây.

*

Cuộc di chuyển hồi quốc bắt đầu.

Mùa đông đang đến gần.

Stephanie không muốn trở lại hốc đá mùa đông năm trước nàng đã sống với Pompette. Nàng đến đó tháo cỗ xe ngựa ra, sửa sang lại các bánh xe, phủ thêm một lần vải bạt mui và lấy những tấm áo choàng Nga trải lên sàn xe và che kín bốn mặt.

Mùa đông nhào đến đột ngột với cái lạnh giá buốt, với những trận bão tuyết. Bệnh dịch tả, bệnh hoại huyết, bệnh thương hàn lại giáng xuống các đơn vị quân đội. 9.000 người đang có nguy cơ chết vì những bệnh đó đâu có ngờ? Họ đâu có ngờ lại phải chôn xác nơi đất khách quê người? Làm sao họ ngờ được trong khi các đoàn tàu thuyền đã bắt đầu chở binh lính hồi hương và trên thực tế chiến tranh đã kết thúc, vậy mà vẫn còn 9.000 người phải chịu chết trong tình trạng khốn khổ: Không thực phẩm, không thuốc men!

Phanie tiếp tục công việc. nàng thấy lại được những cảnh tượng rùng rợn ở thung lũng Dobroudja, mùi hôi hám nồng nặc của nôn mửa, mùi uế khí của chết chóc, những tiếng rên rỉ thảm thương... Binh lính muốn được chết tại chỗ, trong những túp nhà gỗ nơi đóng quân, rong những hang hốc, những trạm quân y tại đây hơn là chết trên tàu thuyền và xác bị quăng xuống Biển Đen lạnh giá.

Trong không khí đau thương, khốn khổ, chết chóc ấy, Stephanie đã làm hết sức mình và tỏ ra can trường vượt mức. Lúc nào nàng cũng tận tụy chăm sóc bệnh nhân, tươi cười, dịu dàng, an ủi. Nàng đã đưa cho bác chủ canteen phần sợi dây chuyền còn lại, cả chiếc trâm vàng cài đầu để bác đem ra chợ đổi lấy thực phẩm về cho anh em.

Stephanie trở thành "nàng tiên phúc hậu Phanie", thành người phụ nữ nổi tiếng khắp các đơn vị là tận tụy, yêu thương và hy sinh cho binh sĩ. Nàng còn trở thành nhân vật huyền thoại. Người ta truyền cho nhau đủ các chiến công anh hùng, các hành vi cao thượng và nhân hậu của nàng. Họ kể cho nhau nghe về sự dũng cảm của nàng trong trận đánh chiếm pháo đài Malakof, trong việc chăm sóc bệnh nhân, không hề sợ bị lây.

Phanie và con chó Caesar đã trở thành hình ảnh tiêu biểu cho tất cả những gì đáng quý nhất ở đây.

Và bản thân nàng, trong khi tận tụy chăm sóc mọi người cũng lấy lại được niềm hạnh phúc... đúng ra là mới chỉ gần là niềm hạnh phúc, bởi vẫn còn chút gì đó khiến nàng chưa hoàn toàn sung sướng.

Đó là vì trong lúc Stephanie cúi xuống chăm sóc mọi người thì nàng không được ai cúi xuống chăm sóc! Không có đôi vai nào để nàng tựa mái đầu, không có đôi cánh tay nào để nàng nép mình vào! Không có tấm thân nào đè lên tấm thân nàng và cặp môi đàn ông nào ngấu nghiến cặp môi nàng. Giá như nàng có được những thứ đó để tiêu tan cho nàng những nỗi mệt nhọc sau những ngày căng thẳng!

Nếu muốn, nàng có thể chọn bất cứ ai. Stephanie biết thế. Bởi tất cả đàn ông ở đây, từ sĩ quan đến binh lính đều yêu quý nàng và đều khao khát nàng. Nhưng trước bất cứ lời tán tỉnh, khêu gợi nào nàng cũng chỉ cười nói:

- Phanie là của tất cả mọi người, nhưng không của riêng ai!

Hôm nay mọi người chuẩn bị đón Noel. Người ta cọ rửa tất cả các xe trú quân lưu động, các túp nhà gỗ và trang hoàng chúng. Binh lính Trung đoàn Bắc Phi làm những ngọn đèn đất sét, đốt bằng dầu thảo mộc, nặn thành hình các nhân vật. Họ làm cả một máng cỏ, tượng trưng nơi Chúa Hài đồng ra đời. Họ cắt giấy màu, gấp thành đèn xếp, cắc những tràng hoa giấy. Stephanie đứng lên ghế, giúp họ chăng lên trần.

Cửa bật mở, một đám người ùa vào. Cả anh chàng Chevillard! nhưng không thể là anh ta, bởi anh ta đã tắt thở trên tay nàng, miệng nói câu cuối cùng: "Anh yêu em!" Nhưng người này giống Chievillard đến nỗi nàng hoảng sợ tái mặt, hai chân run rẩy, đứng không vững nữa. Nàng hỏi người lạ mặt:

- Anh là ai?

- Tôi là Pierrot, dành cho các bà các cô đấy, Phanie!

Đúng giọng nói ấy, nụ cười ấy, hàm răng trắng bóng ấy, cặp mắt ấy, thậm chí vẻ yêu đời ấy. Stephanie nhận ra đơn vị của anh ta qua màu huy hiệu hình bầu dục trên vai anh.

- Anh thuộc trung đoàn số 2!

- Đúng vậy. Trung đoàn Bắc Phi số 2. Tôi nghe đồn ở đây trang hoàng đẹp nhất nên ghé xem.

- Vậy anh thấy sao? - Stephanie hỏi.

- Tôi đành phải công nhận đúng là bên này trang trí đẹp nhất thật.

Tiếng hò reo vang động. Mọi người nhấc bổng nàng lên và chúc tụng nàng khiến chàng trai kia thích thú cười vang. Ôi anh chàng này cũng vui tươi, cũng đẹp trai như Chevillard ngày nọ... khiến lúc anh ta bước vào, Stephanie tưởng như đứng tim.Tội nghiệp Chevillard!

Bỗng nàng cảm thấy trong người rạo rực. Một cảm giác bừng bừng lướt qua thân thể nàng: nàng khao khát một tấm thân đàn ông. Mà tại sao anh ta lại đến đây? Những người ở đây nàng đều đã quen thấy họ bên cạnh. Nhưng anh chàng Pierrot kia mới toanh!

Anh chàng này làm nàng nhớ lại ngày đó, lúc nàng thầm thì những lời an ủi với chàng Chevillard tội nghiệp kia... Hay là anh chàng này cũng đã nghe thấy những lời âu yếm của nàng? Đột nhiên Stephanie rất muốn kéo anh ta lại gần, áp người vào bộ ngực vạm vỡ của anh ta và lặp lại những lời âu yếm đã nói Chevillard hồi đó... Đầu óc nàng bỗng nhiên xao xuyến...

Pierrot đã đi rồi...

*

Lễ Noel đã qua. Lại một năm mới bắt đầu.

Stephanie đã nghĩ Perriot sẽ quay lại... nhưng anh ta không quay lại. Chiều nay, lúc nàng cầm ngọn đèn bão cùng con Caesar quay về cỗ xe nhà bếp, nàng lan man nghĩ đến anh ta.

Đột nhiên con Caesar sủa hung hãn và lồng lên chạy biến đi mất. Có tiếng ai gọi đâu mà con chó lại đi như thế? Nàng không thấy sợ bởi đây đâu phải là lần đầu tiên có người rình nàng. Stephanie bước nhanh xem con Caesar sủa ai. Và trước mắt nàng hiện lên bóng một người lính Băc Phi đang đứng tựa lưng vào thành xe, đưa hai tay cầm hai lưỡi lê bắt chéo để chống lại con chó hung dữ.

- Yên, Caesar! Yên! Anh đứng đó làm gì vậy, anh bạn?

- Tôi chờ cô, Phanie!

Nàng nhận ra giọng nói bèn bước lên nắm cổ Caesar để giữ con chó lại.

- Đừng đợi tôi như thế. Không ai được đợi tôi kiểu như vậy hết. Anh đi đi!

Ngày 25 hội nghị đình chiến họp ở Paris.

Ngày 16 tháng 3, hoàng hậu cho ra đời vị hoàng tử nối nghiệp.

Những ngày sau đó đức vua và hoàng hậu ban thưởng rộng rãi cho mọi người. Rất nhiều sĩ quan được hưởng Huân chương Quang vinh. Các tướng lĩnh Randon, Canrobert và Bosquet được phong nguyên soái.

Ngày 30 tháng đó, hoà ước được ký bằng ngọn bút lông, dứt ở lông con đại bàng trong vườn thú Paris để mang ý nghĩa tượng trưng.

Những chiến sĩ tham gia cuộc chiến tranh này vẫn không hiểu tại sao họ lại phải đổ máu và lúc phục viên chỉ còn giữ lại một miếng sắt gọi là huy chương, in nổi hình nữ hoàng Victoria, buộc dưới một mảnh vải xanh viền vàng với mấy chữ: Alma, Balaklava, Inkermann, Sebastopol.

Stephanie vẫn chưa cam thấy mình đã sẵn sàng để "trở về". Mọi người sẽ nghĩ gì khi thấy nàng trở về, chiếm lại vị trí ngày trước? Sự trở về của một nhân viên cấp dưỡng trong đơn vị quân đội Bắc Phi! Đúng là một sự "bất ngờ" chẳng hay ho gì.

Cuối tháng 7 năm 1856, cuộc hồi hương quân đội từ Crimée về đã hoàn tất. Con tàu cuối cùng rời bến, trên đó có Stephanie. Nàng đứng trên boong, lặng lẽ thổn thức, nhìn bờ biển lùi xa dần. Bàn tay nàng đặt trên đầu con Caesar, lúc này nằm dưới chân nàng. Bàn tay kia nàng dỡ bức ảnh đức mẹ đồng trinh Pompette sinh thời vẫn đeo ở ngực. Đấy là "bùa hộ mệnh" của nàng.

Nàng giữ bức ảnh thánh ấy, coi nó là "bùa hên" của mình.

Stephanie cảm thấy mình già lắm rồi, như thể cuộc đời nàng đã chấm dứt... nàng mới 24 tuổi, vậy mà chẳng có ai chờ mong nàng... ở bất cứ nơi nào...

HẾT