Chương 2 LANNY
Em trai tôi, Connor, quá trầm. Thằng nhóc hầu như cả ngày không nói một lời, và lúc nào cũng cúi gằm mặt xuống. Nó chìm sâu vào thế giới đằng sau những bức tường tự dựng lên, và tôi chỉ muốn đạp cho chúng đổ xuống hết, lôi thằng nhóc ra ngoài và bắt nó phải hét lên, phải đấm vào tường, phải làm gì đó.
Nhưng tôi thậm chí không thể nào nói với nó được hai từ mà mẹ tôi không cảm thấy có vấn đề… chí ít là cho tới khi mẹ đóng cửa lại sau lưng và ra ngoài ban công. Tôi biết mẹ mình. Hầu như lúc nào tôi cũng yêu mẹ. Nhưng đôi khi mẹ chẳng giúp được gì cả. Mẹ không còn biết cách hạ tấm lá chắn của mình xuống nữa.
Connor đã dậy. Nó giỏi ngủ giả vờ lắm, nhưng tôi biết tỏng nó; suốt hai năm khi mẹ vắng nhà - phải ở trong trại và ra tòa, bị buộc tội là tòng phạm của bố tôi - hai chị em chúng tôi đã ở chung một phòng vì nhà bà ngoại tôi không có nhiều không gian cho lắm, dù lúc đó tôi đã mười tuổi còn nó lên bảy tuổi - quá lớn, không ở chung một phòng được nữa. Chúng tôi phải trở thành đồng minh của nhau, trông chừng, yểm trợ lẫn nhau. Tôi đã quá biết khi nào nó ngủ thật, và khi nào nó giả vờ. Nó không bao giờ khóc lóc nhiều, không nhiều như tôi. Mấy ngày này, nó không hề khóc.
Tôi chỉ ước nó khóc.
“Này…” Tôi nói. Tôi nói thầm, nhưng không quá khẽ.
“Chị biết mày đang giả vờ, thằng thua cuộc ạ.” Nó không đáp.
Không nhúc nhích. Hơi thở nó vẫn cứ nhịp nhàng và đều đặn. “Ê, Squirtle. Đừng làm bộ nữa.”
Connor cuối cùng cũng thở dài. “Sao nào?” Tiếng nó nghe tỉnh như sáo. Nó thậm chí còn chẳng có vẻ gì là khó chịu. “Ngủ lại đi. Chị lúc nào cũng gắt gỏng nếu không được ngủ ngon mà.”
“Này, chị là người muốn nói chuyện mà. Chị không thích những gì em nói đâu phải lỗi tại em.” Nghe có vẻ nó vẫn rất bình thường.
Nó không hề bình thường.
Tôi ngồi phịch xuống giường. Chiếc giường có mùi như mùi cửa hàng bán đồ đồng giá vậy, kiểu như mùi mồ hôi lâu ngày và mùi của mấy cặp chân kinh tởm. Toàn bộ căn phòng này đều có mùi cửa hàng bán đồ đồng giá. Tôi ghét nó. Tôi muốn về nhà… và nhà chính là ngôi nhà mà mẹ, Connor và tôi đã cùng bỏ công lau dọn, sơn sửa, trang trí cho thật đẹp. Ngôi nhà nơi tôi có phòng riêng của mình, và một bức tường được chính tay tôi tô lên những bông hoa màu tím. Ngôi nhà có phòng trú ẩn bày bộ dụng cụ chiến đấu với cương thi của Connor.
Ngôi nhà của chúng tôi nằm ngay bên hồ Stillhouse, và nó đại diện cho một thứ mà tôi nghĩ rằng chúng tôi không bao giờ có lại: cuộc sống yên ổn. Ký ức sau ngày chúng tôi phải rời khỏi ngôi nhà đầu tiên của mình - ngôi nhà ở Wichita - chỉ là một chuỗi lờ mờ gồm những căn phòng một màu tẻ ngắt và những thành phố xám xịt, suốt bao nhiêu năm qua. Chúng tôi chưa bao giờ ngụ lại bất cứ chỗ nào lâu, đủ để thấy như mình đang ở nhà.
Hồ Stillhouse thì khác. Nơi đó mang lại cảm giác lâu dài, giống như cuộc đời đã thực sự bắt đầu lại với tất cả chúng tôi. Tôi đã có bạn bè. Những người bạn tốt.
Tôi đã có Dahlia Brown, cô bạn mới đầu là kiểu con gái tôi ghét cay ghét đắng rồi cuối cùng lại trở thành người bạn tốt nhất trên đời của tôi. Bỏ lại bạn ấy nơi đó, cứ như một món đồ chơi hỏng bị người ta vứt đi, thật đau đớn biết nhường nào. Bạn ấy không đáng bị như thế. Tôi cũng không đáng bị như thế. Tôi cũng đã có bạn trai, nhưng kể cũng hơi bàng hoàng khi nhận ra tôi không thực sự nhớ cậu ấy. Tôi còn không nghĩ về cậu ấy.
Chỉ có Dahlia thôi.
Chúng tôi để ngôi nhà nguyên trạng và ra đi. Tôi tự hỏi liệu bây giờ ngôi nhà đã bị hủy hoại hoàn toàn hay chưa. Chắc rồi. Tin về chúng tôi là ai, bố chúng tôi là ai, đã bung bét ngay giữa những chuyện điên rồ của ông cảnh sát Graham, và tôi vẫn nhớ như in những gì xảy ra với mấy chỗ chúng tôi từng ở ngày xưa khi bị người ta phát hiện. Sơn xịt đầy tường. Động vật chết vứt đầy ngưỡng cửa. Cửa sổ bị đập vỡ và xe bị phá nát.
Con người ta thực sự có thể ác với nhau đến như vậy đó.
Tôi không tài nào ngưng tưởng tượng về hình ảnh ngôi nhà bên hồ Stillhouse của chúng tôi ngay lúc này đây, nếu người ta trút giận lên nó thay vì chúng tôi. Điều đó khiến lồng ngực tôi căng lên và lòng tôi sôi sùng sục. Tôi lăn người nghiêng sang một bên và giận dữ đấm vào chiếc gối rẻ tiền, khiến hình dạng của nó vừa mắt hơn được một chút. “Mày nghĩ đó là tin nhắn của ai?”
“Bố.” Nó đáp. Giọng thằng bé hơi lạc đi một xíu, hơi giật cục một tẹo, khẽ lắm, nhưng không qua nổi mắt tôi. Nhưng tôi không biết thế nghĩa là sao. Phẫn nộ? Sợ hãi? Mong mỏi? Có lẽ là tất cả. Tôi biết một điều mà mẹ tôi chắc không hề biết: đó là Connor không thực sự, không thực sự hiểu tại sao bố lại là một con quái vật. Ý tôi là, nó có biết chuyện, nhưng hồi đó, lúc cuộc sống của chúng tôi văng khỏi quỹ đạo, nó mới chỉ có bảy tuổi; nó chỉ nhớ về một người bố đôi khi rất ngầu, rất tuyệt vời với nó, và nó nhớ điều đó da diết. Tôi lớn hơn. Và tôi là con gái. Tôi nhìn nhận mọi việc rất khác với nó. Chắc giờ mẹ sẽ đi tìm ông ấy. Bây giờ, tôi lại nghe thấy nó đổi giọng khác. Tôi biết cái giọng ấy.
Vậy nên tôi mới cố moi chuyện. “Làm mày phát điên, đúng không?”
“Làm như chị thì không? Mẹ sẽ lại ném bọn mình đi như ném mớ rác…” Nó nói. Lần này, cái giọng đều đều, lạnh tanh ấy không còn khó thấy nữa. “Chắc lại ném cho bà ngoại.”
“Mày thích ở với bà ngoại mà…” Tôi nói. Tôi cố hết sức để khiến tình hình sắp tới trở nên thật lạc quan. “Bà nướng cho mình bánh quy và làm món bánh bỏng ngô mà mày rất thích. Làm gì tới mức tra tấn.” Tôi điếng người ngay giây phút cái từ kia bật ra khỏi môi mình, nhưng đã quá muộn. Tôi giận mình lắm, một tia sáng đỏ lừ lóe lên, xèo xèo cháy trên mớ dây thần kinh trong khắp cơ thể tôi, cứ như dây thần kinh đã biến hết thành kíp pháo. Giây tiếp theo, tôi đã thấy mình quay trở lại căn nhà gỗ nhỏ xíu ở cao tít trên đồi, bị lôi xuống dưới hầm. Bị nhốt vào một cái xà lim bé tin hin, chẳng lớn hơn một cái quan tài là mấy, cùng em trai mình.
Tôi biết mẹ vẫn ôm thắc mắc về những gì đã xảy ra với chúng tôi bên dưới tầng hầm đó. Connor và tôi chưa kể gì về chuyện đó, và tôi không biết khi nào chúng tôi sẽ kể, hay có kể ra không. Sớm muộn gì rồi mẹ cũng bắt chúng tôi nói ra hết mà thôi.
Tôi chỉ muốn mình có thể nhắm tịt mắt lại và không còn nhìn thấy cái máy tời và cái thòng lọng treo lủng lẳng bên trên nữa, và cả những dao, những búa và những lưỡi cưa sáng lóa mắc trên giá treo tường. Căn phòng bên ngoài xà lim giống hệt xưởng gỗ trong nhà để xe của bố tôi - qua những bức ảnh mà tôi thấy. Tôi biết những gì đã xảy ra ở đó. Tôi biết chuyện gì có thể sẽ xảy ra với chúng tôi, trong hầm ngục tối được Lancel Graham sao y bản chính.
Nhưng trên hết, tôi ước mình có thể quên đi tấm thảm đần độn đó. Không biết bằng cách nào, Graham đã tìm được một tấm thảm giống y như đúc tấm thảm của bố tôi. Chà, thực ra đó là tấm thảm của tôi, bởi vì tấm thảm là một trong những kỷ niệm đầu tiên của tôi: một tấm thảm bện xoắn ốc, mềm mại vô cùng, có màu lục và lam nhạt. Tôi thích tấm thảm đó vô cùng. Tôi từng nằm úp mặt xuống thảm và trườn cho tấm thảm trượt đi trên sàn nhà, bố mẹ phá lên cười, rồi mẹ bế tôi lên và đẩy tấm thảm trượt về lại chỗ cũ ở gần cửa, và tấm thảm đần độn đó - nó chính là tình yêu.
Một ngày nọ, quãng lúc tôi lên năm, tấm thảm bỗng biến mất khỏi chỗ nó vẫn nằm trong phòng và bố thay một cái mới vào đó. Cái đó cũng được, tôi nghĩ vậy. Mặt sau của nó có rãnh chống trượt, vì vậy sẽ chẳng ai có thể trượt tấm thảm đi khắp nơi được nữa. Bố nói với mẹ con tôi rằng bố đã vứt tấm thảm kia đi.
Nhưng vào cái ngày cuộc đời của chúng tôi chấm dứt, ngày bố trở thành một con quái vật, tấm thảm đó, tấm thảm của tôi, nằm trên sàn nhà để xe, ngay bên dưới cái máy tời và cái thòng lọng cùng thi thể một người phụ nữ đã chết bị treo lủng lẳng. Ông ta đã lấy đi một mảnh của đời tôi và biến nó thành một phần của thứ vô cùng khủng khiếp.
Trông thấy một chiếc giống y hệt nó dưới tầng hầm kinh hoàng của Lancel Graham đã đập một cái gì đó trong tôi nát vụn. Khi đêm đến, lúc tôi nhắm mắt lại, đó là điều tôi nhìn thấy. Tấm thảm của tôi, bị biến thành cơn ác mộng.
Tôi muốn biết Connor đã nhìn thấy những gì. Có lẽ đó là lý do tại sao thằng bé không ngủ. Khi ta ngủ, ta từ bỏ quyền lựa chọn được kiểm soát ký ức.
Connor không đáp lại câu nói hớ của tôi, vậy nên tôi e dè nói tiếp. “Nếu mẹ săn tìm bố, mày muốn đi cùng thật đấy à?”
“Mẹ cứ làm như chị em mình không thể tự lo được ấy…” Nó nói. “Mình làm được mà.”
Tôi tán đồng chuyện tôi có thể làm được, nhưng tôi cũng lớn rồi, tôi đối mặt được với sự thật đau lòng về bố mình và những gì ông ta có thể làm. Tôi lại không muốn phải đối đầu với ông ta. Chuyện đó đau đớn lắm, và khiến tôi kinh sợ khi nghĩ tới. Nhưng tôi cũng không muốn bị bỏ lại một mình cùng Connor, phải gánh trách nhiệm đảm bảo an toàn cho cả hai đứa. Gần như tôi muốn ở với bà, dù món bánh quy bà làm phải nói là kinh khủng và bánh bỏng ngô lại quá dính. Dù bà đối xử với chị em tôi cứ như chúng tôi chỉ là những đứa trẻ mới tập đi.
Tôi gạt đi. “Mẹ không bao giờ để bọn mình phải đối đầu với ông ta đâu. Mày biết rõ còn gì.”
“Vậy là bọn mình sẽ về nhà bà ngoại. Cứ làm như bố không đoán được ra ấy.”
Tôi nhún vai, nhưng trong bóng tối đen kịt, tôi biết thằng bé không thể nhìn thấy. “Bà cũng chuyển nhà và đổi tên rồi. Dù sao thì cũng chỉ một thời gian thôi mà. Giống như đi nghỉ thôi.”
Thật đáng sợ làm sao khi Connor không hề nhúc nhích, không hề trở mình. Tôi không nghe thấy tiếng sột soạt nào từ đống chăn nệm cứng ngắc chỗ thằng bé nằm. Chỉ một tiếng trả lời trong bóng tối. “Phải…” Nó nói. “Giống như đi nghỉ thôi. Còn nếu mẹ không bao giờ quay lại tìm chúng ta thì sao? Nếu ông ấy quay lại tìm chúng ta thì sao? Chị đã nghĩ về điều đó chưa?”
Tôi há miệng, toan nói với nó thật tự tin rằng chuyện đó không bao giờ xảy ra, nhưng tôi không thể. Tôi không thể đẩy những lời đó ra khỏi miệng, bởi vì tôi đã đủ lớn để biết rằng mẹ không bất tử, không phải đấng toàn năng, và không phải lúc nào cái thiện cũng luôn luôn giành chiến thắng. Và tôi biết - Connor cũng biết - bố chúng tôi rất nguy hiểm.
Vậy nên, cuối cùng, tôi nói: “Nếu ông ta tìm được chị em mình, bọn mình sẽ tránh xa ông ta. Hoặc chúng ta sẽ ngăn ông ta lại, bằng mọi cách có thể.”
“Hứa nhé?” Giọng của nó đột ngột trở về đúng tuổi. Chỉ mới mười một tuổi. Quá nhỏ để đối mặt với chuyện này. Đôi khi, tôi quên mất thằng bé còn nhỏ đến thế nào. Tôi đã gần mười lăm. Cả một khoảng cách lớn, và chúng tôi đã luôn đối xử với thằng bé như một đứa trẻ con.
“Được, chị hứa mà, ngốc ạ. Chị em mình rồi sẽ ổn cả thôi.”
Nó thở ra một hơi thật dài và thật chậm, gần như một tiếng thở dài. “Được rồi.” Nó nói. “Vậy, chị với em. Ở bên nhau.”
“Luôn luôn thế.” Tôi nói với thằng bé.
Thằng bé không nói gì thêm nữa. Tôi nghe thấy tiếng mẹ đang thì thầm với ai đó bên ngoài; tôi nghĩ đó là chú Sam Cade. Tôi lắng tai nghe tiếng họ khe khẽ chuyện trò, rồi một lúc sau, tôi thấy tiếng thở của Connor đã sâu hơn và chậm lại, tôi nghĩ cuối cùng thằng bé cũng đã ngủ, ngủ thật.
Vậy có nghĩa là tôi cũng có thể ngủ được rồi.
•••
Sáng hôm sau, mẹ làm chúng tôi ngạc nhiên tới mức mắt chữ O mồm chữ A khi bữa sáng có bánh doughnut[3] và sữa hộp; mẹ và chú Sam đều đã dậy từ trước, ăn mặc gọn gàng, và hai người uống cà phê. Tôi xin một ít. Tôi bị từ chối. Connor chẳng lấy làm phiền. Thằng bé uống sữa của nó và cả của tôi nữa, khi tôi lén đưa cho nó lúc mẹ không để ý.
Trên đường đi, mẹ làm chúng tôi kinh ngạc tiếp khi nói sẽ không gửi chúng tôi sang nhà bà ngoại. Thay vào đó, mẹ sẽ đưa chúng tôi về lại Norton. Không phải về nhà, chỉ gần nhà thôi. Tôi thấy nhẹ lòng hơn một chút, nhưng đồng thời cũng có chút lo. Gần như về nhà như vậy có vẻ nguy hiểm, theo nhiều cách… Không phải vì bố sẽ tìm được chúng tôi, mà là vì tôi lập tức nhận ra: điều đó có nghĩa tôi không thể thực sự về nhà, thực sự về lại ngôi nhà cũ của chúng tôi. Về phòng của tôi. Ở rất gần mà không phải ở nhà? Thế còn tệ hơn. Và còn tệ hơn nữa: Dahlia. Tôi không thể nói chuyện với bạn ấy. Không thể nhắn tin cho bạn ấy. Thậm chí còn không thể cho bạn ấy biết tôi đang ở đó. Định nghĩa của từ tồi tệ là thế đó.
Nhưng tôi không nói với mẹ điều đó.
Connor vui lên một chút khi nó biết thay vì ở hàng tuần liền với bà, nó sẽ được chơi cùng chú Javier Esparza, ông chú ít nói mà vô cùng bá đạo. Dáng vẻ của chú ấy luôn mang lại cảm giác mạnh mẽ và khiến người khác thấy yên lòng, và tôi không nghi ngờ gì khả năng bảo vệ được chúng tôi của chú ấy. Connor cần gắn bó với một người bạn nam giới. Thằng bé và chú Sam Cade thân nhau lắm, nhưng tôi biết chú Sam cũng có những cuộc chiến của riêng mình. Chú ấy sẽ đi cùng mẹ tôi, chắc chắn là thế, khỏi phải thắc mắc.
Vậy là chị em chúng tôi sẽ ở nhà chú Esparza, mà thỉnh thoảng, cô Kezia Claremont, nữ cảnh sát Norton, cũng đến ở cùng. Cô ấy cũng bá đạo lắm, và cũng trầm tính nữa. Họ toàn ngủ cùng nhau, tôi đoán chắc mọi người không nghĩ chị em chúng tôi biết cả chuyện ấy đâu. Nhưng tôi cũng thích có thêm cô Kezia. Thế nghĩa là chúng tôi có gấp đôi hỏa lực bảo vệ mình. Tôi biết mẹ làm vậy là có lý do, nhưng tôi vẫn mừng, vì Connor. Tôi hy vọng có chú Esparza bên cạnh, cái vỏ trầm lặng cứng rắn của thằng bé sẽ bị phá vỡ và nó sẽ thoát được ra ngoài.
Gói ghém hành lý cũng chẳng có vấn đề gì lắm. Chúng tôi đã bỏ chạy suốt bao lâu nay rồi, Connor và tôi đều là những chuyên gia trong việc lẳng đồ vào túi và sẵn sàng lên đường chỉ trong giây lát. Mà thật ra, Connor thậm chí còn chẳng phải làm như thế. Thằng bé đã xếp đồ xong từ sớm, khi tôi vẫn còn ngủ say. Chúng tôi vẫn hay thi với nhau những việc như thế, và thằng bé lẳng lặng trỏ tay vào túi của mình để tôi biết nó đã thắng. Một lần nữa. Nó chúi mũi luôn vào một cuốn sách, đó là cách nó chặn đứng mọi nỗ lực bắt chuyện. Hơn nữa, thằng bé yêu sách.
Tôi ước phải chi chị em chúng tôi có điểm chung. Tôi tự hứa với lòng, một lần nữa, sẽ mượn nó vài quyển sách.
Chúng tôi đã ngồi trên xe, và chạy bon bon trên đường cao tốc mù sương được nửa giờ kể từ lúc mẹ đặt bánh doughnut xuống.
Gần như tôi cứ gà gật suốt, tai nghe chụp trên đầu hòng khỏi phải mở miệng tiếp chuyện ai. Mẹ và chú Sam đều im lặng. Connor lật sang trang sách mới. Tôi giải khuây bằng cách tạo một danh sách bài hát mới: BÀI HÁT ĐỂ CHIẾN THẮNG VÀ LƯU DANH. Chuyến đi quá buồn tẻ, và điệu nhạc dồn dập khiến tôi muốn đi chạy. Có lẽ chú Esparza sẽ cho tôi đi khi chị em tôi đến ở nhà chú, nhưng dẫu sao, tôi vẫn nghi ngờ khả năng ấy lắm; chúng tôi lại bị quản thúc tại gia, thêm lần nữa, trốn khỏi mọi thể loại Ông Kẹ ẩn trong bóng tối - không chỉ là thế giới thực với bố và bạn bè của ông ta, mà còn là tất cả những bọn bệnh hoạn trên Internet. Chỉ cần một bức ảnh thôi, và có kẻ nào đó sẽ lại đem ảnh tôi đăng trên khắp các mạng Reddit và 4chan, và tất cả mọi thứ sẽ trở nên rất, rất tồi tệ, rất nhanh chóng.
Vậy nên, có lẽ không chạy thì hơn.
Chúng tôi lái xe thêm vài giờ nữa, rồi đỗ lại ở một đại siêu thị[4]. Chú Sam vào đó mua bốn chiếc điện thoại “rác” mới; tôi nhất thời sướng run lên khi thấy chú ấy đã phải mua điện thoại thông minh đích thực, mặc dù chúng không được “xịn” cho lắm mà vẫn còn “cùi bắp”. Không có điện thoại nắp gập. Mấy chiếc này chỉ tuyền một màu đen, không có gì đặc biệt. Chúng tôi vào trong xe, tháo vỏ hộp, kích hoạt SIM và trao đổi số điện thoại. Giờ chúng tôi đã quá rành việc này. Mẹ thích mua cho tôi và Connor điện thoại khác màu, vì như vậy hai chị em tôi sẽ không cầm nhầm của nhau, nhưng chú Sam lại không tính tới điều đó; cả bốn chiếc điện thoại đều giống nhau y hệt. Mẹ thu luôn điện thoại của tôi và của Connor để làm việc-mẹ-phải-làm, tức là khóa hết các chức năng kết nối Internet, triệt để vô hiệu hóa đủ các thể loại chức năng trước khi trả lại cho chúng tôi. Chuyện thường ngày ở huyện. Mẹ không bao giờ muốn chúng tôi nhìn thấy đàn đàn lũ lũ những tin bài, bình luận kinh tởm ngoài kia về bố và về chúng tôi.
Tôi nhét điện thoại vào túi, cắm tai nghe vào iPod và mở nhạc. Tôi đang phiêu cùng Florence + The Machine thì nhận ra chú Sam vẫn chưa khởi động xe. Chú ấy lôi ra một tờ giấy và bấm điện thoại, rồi đưa máy lên tai chờ đầu bên kia bắt máy.
Tôi bỏ tai nghe ra khỏi tai và dừng nhạc lại giữa chừng để nghe ngóng.
“Vâng, xin chào, đặc vụ Lustig có nghe máy được không ạ?” Chú Sam ngừng mấy giây, nghe đầu bên kia nói gì đó. “Được rồi. Tôi có thể để lại lời nhắn cho anh ấy không? Nhờ anh ấy gọi lại cho Sam Cade. Anh ấy biết cái tên đó mà. Đây là số của tôi…” Chú đọc số in trên vỏ điện thoại cho người phụ nữ ở đầu dây bên kia. “Nhờ cô nhắn anh ấy gọi lại cho tôi ngay khi có thể. Anh ấy biết là về chuyện gì. Cảm ơn cô.”
Chú cúp máy và khởi động xe, rồi khi chúng tôi lại bon bon trên đường, tôi thấy chú không định chia sẻ gì cho mọi người. Vậy nên tôi mạnh dạn đại diện cho cả đội. “Ai là đặc vụ Lustig đấy ạ?”
“Bạn của chú.” Chú Sam bảo với tôi. Chú ấy thành thật với chúng tôi, hay chí ít, thành thật đến mức chú nghĩ mình có thể. Đó là điều tôi thực sự thích ở chú ấy.
“Tại sao chú lại nói chuyện với FBI? Chú kia là FBI, phải không ạ?”
“Vì họ đang lần theo dấu vết của bố cháu.” Chú đáp. “Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải hiểu thêm vài điều về Absalom. Chú hy vọng bên FBI sẽ có nhiều thông tin hơn.”
Tôi biết chuyện Absalom, và tôi cau mày. “Sao thế ạ?”
“Vì Absalom có thể sẽ phái thêm người khác, ngoài Graham, tới hại chúng ta…” Chú trả lời, sau khi liếc sang mẹ tôi để chắc chắn nói ra điều đó với tôi cũng không sao. “Và có thể chúng đã bám theo chúng ta tới đây. Đó là lý do tại sao giờ chúng ta phải dùng điện thoại mới.”
Rồi cuối cùng, mẹ cũng chen vào. “Absalom có thể là một nhóm, không chỉ là một người. Nếu vậy, chúng có thể giúp bố con ẩn náu trong lúc lùng sục chúng ta.”
“Nếu đã nguy hiểm như thế, sao mẹ còn đưa bọn con trở lại Norton? Sao bọn con không thể chỉ việc ở lại bên mẹ thôi?” Connor hỏi. Nó hạ cuốn sách xuống nhưng đặt một ngón tay vào giữa sách để đánh dấu trang.
“Nghiêm túc đấy à?” Mẹ cố tỏ ra như mình thấy buồn cười trước lời thằng bé nói, nhưng giọng mẹ nghe chỉ có vẻ đầy sát khí mà thôi. “Con biết thừa là còn lâu mẹ mới đưa các con đến chỗ nào phức tạp. Việc của mẹ là giữ cho các con tránh xa mọi rắc rối. Hơn nữa, chỉ như thế này thôi với các con cũng đã khó lắm rồi. Cả hai đứa cần phải ở một nơi an toàn, và các con cần được nghỉ ngơi.”
Còn mẹ thì không chắc? Tôi nghĩ bụng, nhưng tôi không nói ra, với tôi, như thế kể cũng lạ. Thay vì nói câu ấy, tôi lại nói: “Mẹ cũng đâu cần phải đi, mẹ biết mà. Cảnh sát đang đuổi theo ông ta. Cả FBI cũng vậy. Tại sao mẹ không thể ở lại với bọn con chứ?”
Mất một lúc, mẹ mới trả lời. Tôi không biết mẹ có thật hiểu câu trả lời của chính mình hay không.
“Con yêu ạ, mẹ quá biết bố con…” Mẹ nói. “Nếu mẹ ra mặt, nghĩa là ông ta có thể sẽ làm điều gì đó ngu ngốc và xuất đầu lộ diện để bám theo mẹ. Và điều đó nghĩa là ông ta sẽ bị bắt lại nhanh hơn, và ít người bị làm hại hơn. Nhưng mẹ không thể liều được như vậy nếu các con đi với mẹ. Hiểu chưa?”
Chú Sam vẫn thế: không nói gì. Tôi quan sát đôi bàn tay chú đang đặt trên vô lăng. Chú ấy che giấu suy nghĩ và cảm xúc cũng khá, nhưng không giỏi lắm, vì tôi thấy khớp ngón tay của chú ấy hơi trắng đi.
“Vâng.” Tôi khẽ nói. “Con hiểu rồi. Mẹ làm mồi nhử.” Tôi nghịch chiếc iPod nhưng không đeo lại tai nghe. “Mẹ có định giết bố không đấy?” Tôi không biết mình muốn nghe câu trả lời thế nào nữa.
“Không, con yêu ạ.” Mẹ nói. Nhưng tôi chẳng thấy câu trả lời đó có chút thuyết phục nào. Tôi biết chú Sam muốn ghim một viên đạn vào đầu bố. Có lẽ còn nhiều hơn một. Và tôi hoàn toàn hiểu. Tôi hiểu bố là một con quái vật cần phải tiêu diệt.
Nhưng bố cũng là kỷ niệm của tôi. Một dáng hình mạnh mẽ, ấm áp ôm lấy tôi, đặt tôi vào giường và hôn lên trán tôi. Một người bật cười vui vẻ khi vừa bế vừa xoay tôi theo vòng tròn dưới ánh mặt trời. Một người bố hôn lấy ngón tay đau của tôi và làm cho nó đỡ đau hơn. Một bóng người khổng lồ nhấc tôi lên khỏi tấm thảm bện xoắn ốc mềm mại đó và quấn tôi trong vòng tay chở che ấm áp.
Tôi quay đi, nhìn ra ngoài cửa sổ, và tôi không biện hộ bất kỳ điều gì cả. Nghĩ về bố của mình, như một con quái vật lẫn như một con người, khiến tôi cảm thấy khó thở và phát ốm lên được, và tôi không biết mình phải cảm thấy thế nào mới đúng nữa. Không, thế là dối trá: tôi biết mình phải hận ông ta mới đúng.
Mẹ hận ông ta. Chú Sam căm thù ông ta. Mọi người đều oán ghét ông ta và họ đúng.
Nhưng ông ấy là bố của tôi.
Connor và tôi không nói gì với nhau về chuyện này - chưa từng - nhưng tôi biết thằng bé cũng cảm nhận được… những giằng xé trong lòng để cố gắng ghép hai thứ rất khác nhau này lại. Tôi lại nghĩ về tấm thảm cũ hai màu đó, một mảnh tổ ấm ở bên trong sào huyệt của con quái vật. Tôi không tài nào xác định được là ông ta cố gắng để vẫn là bố, hay con quái vật từ bấy đến giờ vẫn luôn sờ sờ ở đó, và bố là chiếc mặt nạ con quái vật ấy đeo để đánh lừa chúng tôi.
Có lẽ là cả hai. Hoặc chẳng cái nào đúng hết. Tôi muốn kiệt sức. Tôi bật lại nhạc và cố gắng dìm hết tất cả những mối tơ vò ấy xuống.
Tôi ngủ được một lúc. Lúc tỉnh dậy, chúng tôi đã gần tới nơi. Chú Sam cho xe rời đường quốc lộ và rẽ vào cao tốc nhỏ hơn của bang, chúng tôi băng qua hàng tá thị trấn nhỏ rồi mới ngoặt vào đường dẫn đến Norton và hồ Stillhouse. Tôi nhìn tấm biển chỉ đường cũ mèm đầy vết đạn lướt qua tầm mắt, bụng quặn lên đau nhói. Tôi muốn nhảy ra khỏi xe, chạy xuống con đường đó, chạy thẳng về nhà và nhào vào giường, kéo chăn trùm kín đầu.
Chúng tôi tránh đi thẳng vào Norton bằng đường chính, mà chạy vào một đường nhánh dẫn sâu vào rừng. Con đường đó gần như chỉ toàn là bùn và ổ gà, lại gập ghềnh nữa; đến Connor cũng thấy khó mà đọc sách khi suốt ngày bị nảy người lên vì đường xóc. Nó kẹp cái đánh dấu trang vào sách, và ương bướng thở dài đầy bực bội. Chúng tôi đi được chừng gần một cây số thì vòng qua một chỗ rẽ khá rộng, dẫn tới một cabin gỗ nhỏ, đã cũ, nhưng được bảo trì tốt, trông gọn gàng, bao xung quanh là một hàng rào sắt cao.
Javier Esparza đang ngồi ngoài hiên. Chú ấy hơn tôi ít nhất cũng phải một giáp, nếu không hơn; chú mặc một chiếc áo phông màu xanh kaki và quần jean sẫm màu, và trông chú giống quân nhân hơn là cảnh sát dự bị. Khi chú Esparza đứng lên, tôi thấy chú có một khẩu súng dựng ở chỗ rất dễ lấy. Chú còn giắt một khẩu súng ngắn bán tự động trong bao da đeo ở thắt lưng - lộ hơn hẳn so với mẹ tôi. Mẹ giắt súng trong bao đeo vai, giờ đang giấu đằng sau lớp áo khoác da mặc ngoài. Chú ấy cũng có một con chó sát thủ hàng khủng - nòi rottweiler - đang nằm thở hồng hộc dưới chân chú.
Khi chú Esparza đứng lên, con chó cũng đứng lên theo, cả cơ bắp và lẫn sự chú ý của nó đều dồn hết vào chúng tôi.
Mẹ ra khỏi xe đầu tiên, và tôi thấy mặt chú Esparza hơi giãn ra. Chú nhìn xuống con chó và nói gì đó bằng tiếng Tây Ban Nha, và con chó nằm xuống lại như cũ. Yên lặng, nhưng vẫn căng mắt quan sát. “Chào, chị Gwen.” Chú chào mẹ tôi, và chạy ra mở cổng. “Có rắc rối gì không?”
“Không.” Mẹ đáp.
“Có ai bám theo không?”
“Cũng không.” Chú Sam vừa rời ghế lái, vừa trả lời. “Không ai bám theo cả ở đằng sau lẫn phía trước. Và cũng không có thiết bị bay không người lái [5]nào hết.”
Tôi nhướn mày nhìn thằng em đang đứng ở cốp xe và nhép miệng, thiết bị bay không người lái? Tôi nói: “Giờ bọn mình đang sống trong một bộ phim điệp viên ngớ ngẩn gì à?”
“Không…” Connor đáp, không hề gợn một nụ cười. “Là phim kinh dị cơ.”
Tôi ngậm miệng, nuốt câu đáp trả cực ngầu vừa nghĩ ra lại, rồi vòng ra cốp xe để lấy túi đồ của mình. Connor lấy túi của nó. Nắp cốp xe dựng đứng che chị em chúng tôi khuất khỏi tầm nhìn của mấy người lớn, tôi tranh thủ nói vội: “Mày không sao chứ? Không sao thật đấy chứ?”
Em trai tôi sững người, nghẹn lời, chừng một giây sau, nó quay ra nhìn về phía tôi. Đôi mắt nó trong veo. Trông nó không có vẻ khó chịu. Nó không thật sự nhìn tôi, nó chẳng nhìn vào đâu cả. “Không.” Nó đáp. “Mà chị cũng không nốt, vậy nên, chị thôi ra vẻ ta đây là người nắm quyền đi!”
“Chị là người nắm quyền ở đây thật đấy.” Tôi kiêu ngạo đáp lại, nhưng thằng bé thực sự đã hạ gục tôi bằng câu nói ban nãy. Tôi phớt lờ thằng bé, bởi đó là điều tốt nhất tôi làm được lúc này và bước tới đứng cạnh mẹ. Tôi nhìn con chó, con vật đang nhìn tôi. Chúng có thể ngửi thấy mùi sợ hãi. Tôi sợ những con chó to, ồn ào và dữ tợn đến tận xương tủy, kể từ ngày có một con xồ vào tôi lúc tôi bốn tuổi.
Tôi quyết định sẽ trừng mắt, nhìn chằm chằm vào con chó cho nó phải cụp mắt xuống.
Connor bước tới, chọc vào lưng tôi. Mạnh. Tôi nhăn mặt, liếc qua vai và lườm nó một cái. Thằng bé nói: “Chó không thích thế đâu. Đừng trợn mắt với nó nữa.”
“Giờ mày là gì thế, em, khuyển sư à?”
“Thôi đi, hai đứa.” Mẹ nạt, và tôi thụt cùi chỏ ra sau - rất khẽ - để chắc chắn Connor biết nó phải để tôi yên. Thằng bé dễ dàng né sang một bên - tài nghệ bẩm sinh thường thấy ở một cậu em trai nhỏ phiền phức. “Javier này, cảm ơn cậu vì đã làm điều này cho tôi. Tôi không biết phải bắt đầu nói từ đâu để cậu biết việc này có ý nghĩa với tôi đến mức nào. Giờ trên thế giới chỉ còn có ba người mà tôi có thể tin tưởng để gửi nhờ hai đứa con. Cậu và Kez là hai trong số đó.”
Tôi vẫn chưa chấp nhận được cách mẹ gọi chú ấy là Javier thân mật như thế, đại loại vậy. Lại còn đứng gần chú ấy thế kia (mặc dù đứng như vậy cũng không phải là gần lắm), tôi không tài nào tưởng tượng nổi. Nhưng tôi tự nhủ với lòng, hãy cứ thử xem sao. Javier. Chú Sam dù sao cũng lớn hơn, chú làm bố tôi được, và chú ấy là… chà, là chú Sam. Chú Esparza thì… khác lắm. Chú ấy rất ngầu. Chú ấy là típ đàn ông mà tôi biết mình phải đổ gục mới đúng, mà chắc khoảng nửa giây trước, tôi đã cảm nắng chú ấy… nhưng giờ thì không còn nữa.
Như thế sẽ dễ dàng hơn vì chị em tôi sắp ở cùng chú ấy.
Tôi không thích mình bị mất cân bằng, vậy nên tôi cứ làm những điều xảy đến rất tự nhiên với mình thôi. Tôi trợn mắt nhìn Javier Esparza, cứ như tôi không tin nổi mình đang khó chịu vì chú ấy, tôi xõa cho tóc che nửa mặt, và rên rỉ như cái túi của tôi đựng tới hàng triệu cân gạch vậy. “Bọn cháu có được ngủ trong phòng không? Hay bọn cháu phải ngủ trong chuồng với gà hay con gì đó?” Khi tôi thấy không thoải mái, tôi gây chuyện. Có như vậy, mọi người mới tránh sang một bên và để tôi có thời gian tìm lối đi. Lần này, tôi không đợi. Tôi cứ thế xông thẳng tới mái hiên nhà chú, và mới bước vào được hai bước thì tôi sực nhớ ra con chó.
Con chó đang nằm trên sàn gỗ liền đứng bật người dậy cứ như nó có gắn lò xo. Nó dán cặp mắt to đùng, đáng sợ vào người tôi. Tôi cảm thấy, chứ không hẳn là nghe, tiếng gầm gừ rất khẽ của nó. Tôi đứng lại, đột ngột nhận ra mình đang lồ lộ trước mặt nó. Ngu, ngu chưa? Ngu quá là ngu.
Chú Esparza trước đó vẫn không nhúc nhích, nhưng bây giờ chú chầm chậm giơ tay về phía con chó, tiếng gầm gừ im bặt. Con chó rottweiler điềm nhiên liếm mạng sườn và ngồi xuống, lại lễ độ và hồng hộc thở như trước. Tôi ngây ra, chẳng hiểu gì cả.
“Có khi chú nên giới thiệu cháu với Boot. Này, Boot. Ngoan đi.”
Boot sủa vang. Có cái gì đó ứ lên trong lồng ngực khiến tôi chỉ muốn bỏ chạy, nhưng tôi vẫn đứng yên đấy. Chỉ thế thôi. Boot đứng lên, bước xuống bậc tam cấp, lông bóng mượt và cơ bắp nổi rõ, và chạy lòng vòng xung quanh tôi. Tôi đứng yên, không biết phải làm gì. Cuối cùng, Boot đứng lại ngay trước mặt tôi và ngồi phịch xuống.
“Ờ…” Tôi nói. Một hành động phải nói là rất thần sầu. Nhưng tôi đâu nghĩ ra được cái gì khác. Miệng tôi khô khốc. Tôi thậm chí còn sợ nhìn vào con chó. “Xin chào!”
Tôi từ từ, từ từ thả túi xuống đất. Boot không động đậy. Nó nhìn tôi chằm chằm lúc tôi giơ tay về phía nó, rồi quay lại nhìn chú Esparza cứ như muốn nói Con này thật tâm làm trò nhảm nhí kia đấy à? rồi mới ngửi mấy ngón tay của tôi và khinh khỉnh liếm nhẹ một cái. Nó khịt mũi, cứ như nó không ưng mùi sữa tắm của tôi hay sao đó, rồi quay đi, nằm phịch xuống một chỗ râm mát và gối cằm lên chân. Trông nó thất vọng ra mặt. Tôi đoán chắc nó vốn mong được đánh nhau một trận ra trò để khởi động ngày mới.
Boot và tôi có rất nhiều điểm chung.
Tôi cúi gằm mặt, không nhìn chú Esparza và mở miệng nói: “Giờ cháu vào nhà được chưa ạ?”
“Chắc chắn rồi.” Chú nói. Nghe giọng chú nhã nhặn, và có vẻ chú đang thấy hơi buồn cười trước những gì vừa xảy ra nữa. Lúc cầm túi lên và chầm chậm bước qua không gian thoáng đãng phía trước để tới chỗ bậc tam cấp, tôi vẫn không rời mắt khỏi Boot.
“Chó ngoan.” Tôi nói với Boot. Nó quay mặt đi, nhưng nó khẽ vẫy đuôi với tôi. Rồi tôi bước lên bậc thềm. Ở góc nhà cạnh cửa ra vào có một chiếc ghế cũ đã bạc màu, và khẩu súng ban nãy vẫn dựng ở đó. Tôi thấy trong lòng dâng lên một thôi thúc điên rồ muốn được sờ vào nó, nhưng mẹ tôi sẽ nổi khùng lên ngay nếu tôi làm thế, vậy nên tôi chỉ mở cửa và bước vào nhà.
“Tuyệt!” Tôi nhìn chỗ tạm trú mẹ chọn cho mình và chua chát nói. Căn nhà không hề lớn. Nhưng tôi thấy thế cũng được; một ngọn lửa đang bập bùng trong lò sưởi để xua đi giá lạnh, và chiếc sofa trông thật to và êm ái. Mấy chiếc ghế cũng vậy. Một chiếc bàn ăn nho nhỏ đặt cạnh căn bếp cũng nhỏ không kém, mọi thứ đều ngăn nắp và sạch sẽ.
Căn phòng chính trổ ra ba cánh cửa dẫn tới phòng tắm (một phòng tắm, ôi Chúa ơi) và hai phòng ngủ nhỏ. Tôi quẳng túi lên chiếc giường đầu tiên mình nhìn thấy và nằm úp mặt xuống luôn. Hít một hơi thật sâu.
Giường có mùi như gỗ thông và mùi vải lanh mát lạnh, và tôi ôm chặt lấy chiếc gối, thật chặt. Thế này, ít nhất, là phải rồi. Rất phải.
“Này…” Connor đứng ở ngưỡng cửa nói vọng vào. “Giờ em phải ngủ ở đâu đây?”
“Không quan tâm.” Tôi lầm bầm sau lớp gối. “Ta tuyên bố vùng đất này thuộc về Atlanta.”
“Đừng có ch…”
“Mày mà nói ra cái từ chị đang nghĩ, chị sẽ đá nát mông mày đấy, Connor ạ.”
“Xấu tính thế.” Nó thay luôn bằng từ “xấu tính”, cách chống chế đúng kiểu trẻ con đó làm tôi phá lên cười, nhất là khi nó nói vô cùng trang nghiêm. “Em cần được ngủ ở chỗ nào đó chứ.”
“Cháu ngủ ở phòng kia đi.” Chú Esparza đứng đằng sau thằng bé, nói, và tôi liếc thấy chú ấy còn cười nữa. “Phòng lớn hơn, vì Lanny đã chọn phòng này rồi.”
“Này!” Tôi nhổm dậy rất nhanh, nhưng đã quá muộn; Connor đã xông vào giành lấy căn phòng kia. Tôi liếc nhìn chú Esparza qua rèm tóc đen sì. “Không công bằng!” Chú nhún vai. “Từ từ… thế chú ngủ ở đâu?”
“Sofa.” Chú nói. “Cũng được mà. Chú còn từng ngủ ở chỗ tệ hơn nữa kìa, và cái sofa đó còn xếp được thành một cái giường đàng hoàng nữa cơ.”
Chú ấy suy nghĩ y chang mẹ, mẹ luôn lấy căn phòng gần cửa nhất… chặn mình ở giữa chúng tôi với bất cứ điều gì có thể xảy đến.
“Mong rằng chú không ngáy.” Tôi trả treo.
“Ồ, có đấy…” Chú ấy nói. “Y như kéo bễ luôn. Mong rằng cháu có bông bịt tai.”
Tôi nghĩ chú ấy đùa. Chắc thế. Tôi không muốn hỏi chú ấy có đùa hay không. Tôi chỉ nằm phịch xuống giường như thể vừa bị bắn và ngó lên trần nhà. Trần trống trơn. Căn phòng này thì… hơi khó nói, nhưng sạch sẽ, và thơm tho. Tôi mang theo mấy món đồ cá nhân trong túi. Connor mang rất nhiều sách. Có lẽ tôi có thể chôm của nó mấy cuốn.
Chú Esparza quay ra, và tôi thấy mẹ bước vào phòng chính cùng chú Sam Cade. “Javi này, cậu chắc thế này không sao chứ?” Giọng mẹ đột nhiên có chút hoang mang. Thế không giống mẹ chút nào. “Tôi biết nhờ vả cậu thế này thật lố bịch quá. Tôi đẩy cậu vào thế nguy hiểm và đẩy cậu ra khỏi phòng cùng một lúc…”
“Ổn mà chị.” Chú Esparza nói. “Lâu lâu có khách đến chơi cũng hay mà. Chị nhìn xem, căn nhà này trông có thể giống cái lán gỗ, nhưng đã được gia cố chắc chắn rồi. Tôi gắn cả chuông và đèn báo động. Tôi có Boot, có súng và được đào tạo bài bản. Mấy đứa trẻ sẽ ổn cả thôi. Tôi sẽ chăm lo cho bọn chúng.” Chú ấy dừng lại, và tôi thấy chú ấy đánh mắt sang nhìn chú Sam. Tôi không biết ánh mắt đó nghĩa là sao. “Truy lùng gã chồng cũ là một ý tưởng ngu ngốc đấy, chị Gwen ạ.”
“Phải, đúng là vậy.” Mẹ đáp. “Nhưng tôi trốn chui trốn lủi suốt mấy năm nay rồi, và xem chuyện gì đã xảy ra kìa. Hắn thao túng tôi. Hắn lùa tôi vào đúng chỗ hắn muốn. Nhưng giờ hắn đang chạy trốn và bị săn đuổi, và tôi sẽ không để cho hắn đeo bám các con tôi nữa.”
Đây là lần đầu tiên tôi nghe mẹ nói thẳng điều đó ra như vậy. Ý tôi là, tôi vẫn biết mẹ luôn nghĩ như thế trong đầu; mẹ phải đứng giữa chúng tôi và ông ta. Tôi hiểu. Tôi chỉ lo lắng về những chuyện sẽ xảy ra.
Mẹ bước vào phòng tôi và ngồi xuống giường, bên cạnh tôi. Tôi không muốn nói chuyện tiễn biệt, nên cứ lẳng lặng lấy đồ đạc trong túi ra.
“Lúc nào con cũng dỡ đồ ra trước nhất, ở bất cứ nơi đâu chúng ta đến.” Mẹ nói, làm tôi khựng lại khi đang gấp dở chiếc sơ mi. “Con có biết điều đó không?”
“Sao cũng được ạ.” Tôi nói. Tôi mở ngăn kéo tủ. Ngăn kéo trống trơn, mùi gỗ tuyết tùng thoáng đưa như một làn mây ấm. Tôi sẽ tỏa ra mùi như một cái cây. Tuyệt vời. Tôi cất đồ lót và tất vào ngăn kéo vừa mở, rồi cất áo vào chiếc ngăn kéo thứ hai.
“Connor chẳng bao giờ làm thế.” Mẹ nói. “Nó để nguyên mọi thứ trong túi.”
“Phải rồi, chà, lúc nào nó cũng mang tâm thế sẵn sàng co giò chạy mà. Con thích có cảm giác mình không như thế.” Mặc dù tôi cũng y hệt nó. Mặc dù tôi biết chính xác mọi thứ mình có cất ở đâu, và tôi có thể xếp xong hành lý trong vòng chưa đầy một phút khi nguy cấp.
Tôi lấy nốt chỗ áo còn lại trong túi ra, giũ cho bớt nhăn, rồi đem cất đi.
“Mẹ tưởng con vứt hết mấy cái đó đi rồi.” Mẹ nói, và tôi nhận ra mẹ đang nói tới cái áo phông in hình Cô Bé Bánh Dâu[6] đã bạc màu mà tôi vừa đem cất. Trông có vẻ kỳ quặc, tôi thừa nhận, khi cái ngăn kéo ảm đạm của tôi chỉ toàn màu đen, đỏ sẫm và xanh sậm. Tôi không còn là đứa trẻ Cô Bé Bánh Dâu ngày nào nữa. Tôi mặc quần thụng may túi hộp, có khóa kéo và đính khoen kim loại, cùng áo sơ mi ngắn tay to đùng màu đen, có thêu đầu lâu hoa đằng sau lưng. Tóc tôi nhuộm màu của đêm tối, để dài và thẳng tưng. Hôm nay tôi không kẻ mắt. Tôi nhớ mấy đường kẻ mắt ấy lắm.
“Vâng, sờ vào cái áo đó có cảm giác thích lắm ạ.” Tôi nói với mẹ, rồi đóng ngăn kéo có cô bé từng là tôi ngày xưa lại.
“Rồi. Đã về đến tổ ấm thân yêu. Mẹ tính vứt bọn con ở đây bao lâu?”
Trong câu nói đó ghim đầy gai nhọn, nhưng mẹ chẳng hề nao núng. “Mẹ không biết nữa. Mẹ biết sẽ rất khó, nhưng mẹ cần con ngừng liên lạc với bạn bè ở Norton. Được không?”
Phải, đúng rồi, làm như bây giờ bạn bè con muốn nói chuyện với con lắm không bằng. Con không chỉ là Con Lập Dị Nhất Làng. Con còn là ác nhân của xã hội nữa. Với lại, giờ bọn nó đi học hết cả rồi. “Còn trường lớp thì tính thế nào đây hả mẹ?”
“Mẹ xin lỗi…” Mẹ nói. “Mẹ biết chuyện này đau đớn đến mức nào. Nhưng chỉ là tạm thời thôi. Chú Javier và cô Kezia sẽ lo chuyện học hành cho con trong khi mẹ đi vắng. Mẹ hy vọng chỉ mất có một tuần, nhiều nhất là hai thôi. Nhưng mẹ cần con…”
“Có trách nhiệm, chăm sóc Connor, vâng, vâng, con biết rồi.” Tôi tròn mắt lên đầy ngao ngán, vì câu chuyện của mẹ con chúng tôi thực sự đã tới phần dặn dò chán ngắt đó rồi. “Mẹ này, có khi bọn con nên đi săn để kiếm đồ ăn. Sẽ vui lắm đấy. Xúp sóc. Ngon tuyệt vời.”
Tôi lục bên trong túi. Thứ nằm trên cùng là ảnh ba mẹ con chúng tôi, đang cười, đứng trước căn nhà gỗ nhỏ bên hồ Stillhouse. Chú Sam đã chụp tấm ảnh ấy. Hôm đó là một ngày đẹp trời. Tôi đặt tấm ảnh lên nóc tủ kê cạnh đầu giường và đứng đó, nghịch chiếc khung ảnh, thử xoay hết góc này sang góc khác. Mẹ tôi không hề mắc câu. Tôi chẳng ngạc nhiên. Cuối cùng, tôi nói: “Mẹ nói với bọn con rằng mẹ sẽ không bắn bố.”
“Mẹ không định lên đường để làm điều đó đâu.” Mẹ nói, có vẻ khá thành thật, mọi việc đều đã được cân nhắc kĩ lưỡng.
“Con mong mẹ sẽ làm thế.” Tôi nói. “Con ước gì ông ta đã chết. Đáng lẽ người ta phải giết chết ông ta hồi ở Kansas rồi. Người ta gọi ông ta là tử tù cơ mà, đúng không?” Tôi cố hết sức để giữ cho giọng mình vẫn đều đặn như bình thường và vai mình không co rúm lại. “Ông ta sẽ lại giết người nữa, đúng không? Và có khi đó là chúng ta, nếu ông ta có cơ hội.”
“Chuyện đó sẽ không xảy ra đâu.” Mẹ dịu dàng nói. Tôi biết tỏng mẹ muốn ôm lấy tôi, nhưng mẹ đã là một chuyên gia về ngôn ngữ Lanny, và mẹ vẫn ngồi cách tôi một sải tay. Tôi không muốn ôm. Tôi muốn giao chiến. Mẹ sẽ không cho tôi giao chiến - điều đó quá tệ. “Ông ta sẽ bị bắt, và sẽ bị nhốt lại trong tù. Và khi đến lúc, nhà nước sẽ thi hành án. Đó là cách làm đúng đắn đấy. Nếu không thì chỉ là báo thù mà thôi.”
“Báo thù thì có gì sai ạ? Mẹ không thấy ảnh chụp các thi thể à? Nếu là con bị treo trên cái thòng lọng đó, mẹ, mẹ có muốn báo thù không?”
Mẹ điếng người. Im bặt. Tôi đoán là do mẹ không muốn để tôi biết mẹ muốn trả thù tàn bạo đến mức nào. Rồi mẹ chớp mắt, và mẹ nói: “Connor đã thấy mấy tấm ảnh đó rồi à?”
“Gì cơ ạ? Chưa! Tất nhiên là chưa rồi, con có ngu đâu? Không đời nào con cho nó xem những thứ đó, và đó không phải là vấn đề, mẹ ạ. Vấn đề là, bố không xứng đáng được sống, đúng không?”
“Mẹ có tình cảm cá nhân với ông ta. Con cũng vậy. Đó là lý do tại sao chúng ta không nên là người quyết định điều gì sẽ xảy ra với ông ta.” Mẹ nói chuyện, nhưng tôi đoan chắc mẹ không hề để tâm vào câu chuyện. Mẹ muốn ông ta chết quá đi ấy chứ, tới mức người mẹ run lên kia mà. Nhưng mẹ luôn nỗ lực hết mình để không nuôi dạy tôi theo cách đó. Tôi nghĩ thế là rất phải.
Tôi dốc ngược cái túi, và các thứ bên trong rơi xuống như mưa trên giường. Chủ yếu là đồ trang điểm. Một cuốn sổ lưu niệm có khóa, nhưng là một cái khóa chỉ để trưng, rất phô trương và cực kì dễ mở. Connor nói chỉ cần dùng một cái kẹp giấy, nó cũng mở được. Một cuốn nhật ký, cũng được khóa lại. Tôi thích tự tay viết mọi thứ ra trên giấy. Tôi muốn nghĩ những gì mình viết sẽ luôn tồn tại, còn những thứ trên Internet chỉ là các điểm ảnh có thể biến mất hoàn toàn chỉ trong một giây. Biến mất cứ như chưa từng tồn tại.
“Lanny. Việc của mẹ là đứng giữa bố các con và các con. Đó là lý do tại sao mẹ phải đi. Con có hiểu điều đó không?”
Tôi mân mê một thỏi son môi - màu Crimson Shadow - rồi đặt thỏi son lên nóc tủ. “Và con là người đứng giữa ông ta với Connor…” Tôi nói với mẹ. “Con hiểu mà. Con chỉ ghét điều đó, thế thôi. Con cực ghét khi dù chúng ta có làm gì, chúng ta đã cố gắng thế nào, thì tất cả vẫn luôn luôn là vì ông ta.”
Lần này, mẹ vòng tay quanh người tôi và ôm lấy tôi. Thật chặt. “Không. Cuối cùng, chỉ là để khiến ông ta trở thành vô nghĩa mà thôi. Chúng ta không phải là vật sở hữu của ông ta. Chúng ta thuộc về chúng ta.”
Tôi cũng ôm lại mẹ, nhưng rất nhanh, rồi sau đó, tôi buông mẹ ra ngay. Tôi nằm phịch xuống giường và đeo tai nghe vào cổ. “Khi nào con được lấy lại laptop vậy ạ, thưa quý bà cai ngục?”
“Khi nào xong việc.”
“Con biết mình không nên làm những gì mà. Thậm chí, mẹ cài luôn chế độ kiểm soát dành cho phụ huynh trong máy cũng được.”
Mẹ cười. “Và con là một đứa thông minh, có thể bẻ khóa phần mềm đó chỉ hai giây sau khi mẹ bước ra khỏi cửa, vậy nên: không đâu. Mẹ xin lỗi, nhưng phải chờ đến khi mọi chuyện kết thúc cái đã.”
Tôi “tặng” mẹ Ánh Nhìn Đó. Nó bật ra mà chẳng được kết quả gì.
“Tối nay mẹ sẽ gọi.” Mẹ nói với tôi, và tôi nhún vai, làm như mẹ không gọi thì không có chuyện gì lớn vậy. Trừ phi đúng là thế. Cả hai chúng tôi đều biết điều đó.
Khi tôi đã hài lòng với lớp trang điểm của mình, tôi thấy mẹ đã ở ngoài phòng chính và đang ngồi ở bàn bếp. Mẹ đang ngồi đối diện Connor. Chú Javier đặt một cốc nước trước mặt em trai tôi, nhưng thằng bé chẳng để ý gì đến nó. Nó dồn hết mọi chú ý vào trang giấy đang đọc. Mẹ lấy cốc nước của nó và uống một ngụm, nhưng nó cũng phớt lờ. “Hẳn đây phải là một truyện rất hay.” Mẹ nói. Tôi ngồi xuống một chiếc ghế bành kê gần cửa sổ. Đúng như tôi nghĩ. Rất êm ái. Tôi gác một chân lên một tay ghế và thưởng thức màn kịch, trong đó mẹ tôi thì cố gắng nhẹ nhàng vòng ra đằng sau bức tường của Connor, còn Connor giả vờ như mẹ thậm chí còn không có mặt ở đó.
Cuối cùng, nó cũng chịu nhượng bộ mà lên tiếng. “Vâng ạ.” Nó cẩn thận chèn cái đánh dấu trang đã cũ mèm vào giữa trang sách, gấp sách lại và đặt xuống bàn. “Mẹ. Mẹ có định quay trở lại không?” Tôi nhìn thấy đôi mắt của thằng bé. Tôi lo lắng trước ánh mắt của nó. Tôi thực sự không còn biết em trai mình đang nghĩ gì nữa rồi. Kể từ lúc Lancel Graham bắt chị em chúng tôi, thằng bé không còn thấy an toàn nữa; tôi biết điều đó. Nó đã tin mẹ sẽ giữ cho chúng tôi an toàn tuyệt đối, hoàn toàn tránh xa thế giới ngoài kia đến như thế, và đối với nó, thất bại đó thật quá kinh điển. Không phải lỗi của mẹ, và mẹ đã đến tìm chúng tôi như tôi vẫn hằng đinh ninh mẹ sẽ làm như vậy.
Nhưng tôi không biết phải chữa lành cho em mình như thế nào.
Mẹ đã nói tất cả những điều đúng đắn, dĩ nhiên, và mẹ ôm nó. Nó vội đẩy ra luôn, nó vẫn luôn làm như thế… Connor không thích ôm ấp cho lắm, nhất là khi có những người khác xung quanh. Nhưng còn hơn thế nữa.
Mẹ hôn lên trán tôi, và tôi ôm lấy mẹ, một cái ôm thật sự, nhưng tôi không nói gì. Chú Sam, từ bấy đến giờ vẫn im lặng đứng tựa vai vào cửa, bước đến bên tôi và nói: “Này. Chăm sóc cho em cháu, được chứ?” Chú Sam là một người tốt. Tôi đã rất cảnh giác trong một thời gian dài, rất, rất dài, nhưng tôi chứng kiến chú ấy lặng lẽ làm những điều hết sức tuyệt vời cho chúng tôi, kể cả chiến đấu để cứu chị em tôi thoát chết trong gang tấc. Tôi tin chú khi chú nói chú quan tâm.
Tôi cũng tin đối với chú ấy cũng chẳng dễ dàng gì, rất khó nữa là đằng khác, bởi vì ông bố khốn nạn của chúng tôi đã giết người em gái vô tội của chú ấy, và khi chú ấy nhìn chúng tôi, có lẽ chú không thể nào không trông thấy một phần nào đó của Melvin Royal trong tôi và Connor. Thỉnh thoảng, tôi soi mình thật kĩ hàng giờ liền trong gương, tìm những nét giống bố mình.
Mái tóc của tôi giống mẹ. Nhưng tôi thấy dáng mũi của mình giống bố hơn. Cả cằm nữa. Tôi đã tìm kiếm thông tin xem bao nhiêu tuổi thì đi phẫu thuật thẩm mỹ được, chỉ để vứt bỏ mọi vết tích của ông ta.
Connor đôi khi còn giống hệt bố chúng tôi hồi nhỏ. Tôi biết điều đó khiến thằng bé rất buồn lòng. Tôi biết gần như suốt ngày nó bị ám ảnh bởi ý nghĩ: liệu mình có trở nên… xấu xa.
Mẹ cần phải giúp nó. Sớm. Và nếu mẹ không làm, tôi sẽ làm.
“Cháu sẽ chăm sóc nó.” Tôi nói với chú Sam, sau đó nhún vai, tỏ vẻ như chuyện đó không có vấn đề gì lớn. Nhưng chú Sam hiểu hết.
“Và cả chính bản thân cháu nữa, cô bạn mạnh mẽ ạ.”
“Chú gọi ai là cô bạn đấy ạ?” Tôi hỏi và cười toe toét. Chúng tôi không ôm nhau nữa. Chúng tôi cụng tay nhau và chú ấy cũng làm thế với Connor.
Sau đó, chú Sam và mẹ tôi đi, ra hẳn ngoài cửa, và chúng tôi bước ra ngoài hiên cùng chú Javier Esparza và chó Boot để vẫy tay chào tạm biệt. Chà, Boot không vẫy tay. Trông nó vẫn không có gì là vui vẻ khi chưa gặm được vào mặt tôi. Tôi thận trọng vỗ nhẹ một cái vào đầu nó. Nó lại khịt mũi, nhưng rồi nó quay sang phía Connor, và không một chút sợ hãi, thằng em tôi ngồi xuống cạnh con chó, gãi vào tai nó. Boot nhắm mắt lại, dựa vào người thằng bé.
Đúng là bọn con trai, tôi nghĩ, và tròn mắt lên ngao ngán.
Tôi nhìn theo mẹ và chú Sam lên xe. Tôi nhìn họ lái xe đi. Mắt tôi vẫn trong và khô, và tôi thấy tự hào về điều đó.
Chú Esparza bảo với chúng tôi chú sẽ làm bánh mì kẹp xúc xích rưới xốt ớt để ăn trưa. Chú đẩy Connor vào bếp thái hành.
Tôi về phòng, đóng kín cửa lại, úp mặt vào gối và khóc, vì tôi sợ như chưa từng được sợ rằng mình sẽ không bao giờ gặp lại mẹ nữa.
Và sợ bố sẽ tới tìm chúng tôi.
Chú thích:
[3] Hay donut - một loại bánh ngọt có dạng vòng khá phổ biến ở các nước Âu Mỹ.
[4] Nguyên tác: big-box store - cửa hàng bán lẻ quy mô lớn, thường bán sản phẩm với số lượng lớn, giá rẻ.
[5] Nguyên tác: Drone.