Vĩ thanh. Hòa giải các đối lập Đạo giáo và cặp đôi Âm-Dương
Sau chuyến viễn du trong phong cảnh của vũ trụ học hiện đại, chúng ta đã đi đến kết luận rằng cái Không là tràn đầy. Chúng ta đã được dẫn dắt để dung hòa các khái niệm có vẻ trái ngược nhau để phản ánh sự phong phú của thực tại. Đạo giáo khuyến khích chúng ta nắm lấy sự lộng lẫy của các mặt đối lập. Nó dạy chúng ta rằng việc đặt cạnh nhau các khái niệm mà thoạt nhìn dường như tương phản để mô tả thế giới là rất có hiệu quả. Nó nói với chúng ta rằng sự thống nhất và tương liên của thế giới là kết quả của sự đối lập động và bổ sung lẫn nhau của hai cực, Âm và Dương. Khi các Đạo sĩ nói với chúng ta về một thế giới toàn thể và sự thống nhất của thực tại, ý của họ không phải là tất cả các hiện tượng đều giống nhau. Không phải là để xóa bỏ mọi sự khác biệt, mà ngược lại họ nhận ra tính cá thể của vạn vật. Nhưng đồng thời, họ cũng nhận thức được sự thống nhất của các hiện tượng mà thoạt nhìn dường như hoàn toàn mâu thuẫn.
Kinh văn của Đạo giáo thường ghép nối các khái niệm trái ngược trong cùng một câu. Chẳng hạn như trong chương 2 của Đạo Đức Kinh:
Thiên hạ đều biết tốt đẹp là tốt đẹp,
Thì đã sinh ra quan niệm về ác xấu rồi.
Đều biết thiện là thiện,
Thì đã sinh ra quan niệm bất thiện rồi.
Có và không cùng sinh cho nhau.
Khó và dễ cùng tạo cho nhau để thành,
Dài và ngắn cùng tạo hình cho nhau,
Cao và thấp cùng lấp đầy cho nhau ( 114 ) .
Chính việc tâm trí chúng ta tập trung vào một khái niệm sẽ tạo ra cái đối lập của nó. Chắc chắn, ngay khi một khái niệm trừu tượng phát sinh, nó tự khẳng định mình như là một điểm quy chiếu. Nhưng mọi khẳng định đều hàm ý khả năng phủ định của nó. Theo Isabelle Robinet, “Lão Tử không chỉ làm sáng tỏ khía cạnh nghịch lý của tư tưởng và diễn ngôn của con người, cũng như hình thức cơ bản là nhị nguyên của chúng; mà còn trong từng trường hợp, kết hợp mặt trái và mặt phải của một đồng xu, hoặc đảo ngược trật tự quen thuộc và thông thường, nhằm nắm bắt cái nền tảng mà toàn bộ khẳng định dựa trên đó”; như vậy, tư tưởng Đạo giáo dựa trên một “logic hai chiều (...) mà ở đó một thuật ngữ tham chiếu tới cái đối lập của nó, luận đề và phản đề phải được nhìn nhận theo khía cạnh đối lập động đồng thời lại bổ sung cho nhau tạo thành một tổng thể ( 115 ) ”.
Như vậy, những hiện tượng dường như trái ngược nhau – ánh sáng và bóng tối, thất bại và chiến thắng, sự sống và cái chết, niềm vui và đau khổ, tốt hay xấu, hay, điều mà chúng ta quan tâm ở đây, cái Không và tràn đầy – phải được coi là biểu hiện của hai thái cực thuộc một và cùng một thực tại. Trên quan điểm này, theo Đạo giáo, đạo đức không phải là cố gắng tiêu diệt tất cả cái xấu chỉ để lại cái tốt, một nhiệm vụ bất khả thi, mà là nỗ lực nhằm duy trì sự cân bằng động giữa cái tốt và cái xấu, một mục tiêu dễ tiếp cận hơn nhiều.
Khái niệm “đối lập động” là chìa khóa ở đây. Nó đóng vai trò cơ bản trong triết học Đạo giáo. Do sự vô thường của vũ trụ, không gì có thể là tĩnh trong vũ trụ: tất cả đều chuyển động, đều biến đổi và tiến hóa. Tương tác động và tương hỗ của cặp đôi Âm-Dương làm cho vũ trụ và mọi thứ chứa trong đó đều tuân theo sự vận động tuần hoàn vĩnh cửu, vô thủy vô chung. Hai thái cực này liên quan chặt chẽ với nhau, trong Dương chứa Âm. Dương cực thì Âm sinh nhưng trong Âm lại có Dương và Âm cực thì Dương sinh và cứ tiếp tục như thế. Sự chuyển động của Đạo giống như một con lắc. Theo Lão Tử, “vận động của Đạo bắt nguồn từ chỗ phản, và đi xa lại trở về.” Sự luân phiên này đem lại hy vọng, lòng can đảm và sự kiên trì trong những khoảnh khắc khó khăn của cuộc sống, vì chúng chỉ có thể chuyển biến tốt đẹp hơn, nhưng nó cũng gợi ý sự thận trọng, khiêm tốn và kiềm chế trong những thời điểm tốt đẹp, bởi vì sự chuyển biến sang xấu không bao giờ ở quá xa.
Phật giáo và Trung đạoViệc dung hòa các mặt đối lập không phải chỉ riêng có trong tư tưởng Đạo giáo, nó cũng là một phần không thể tách rời của triết học Phật giáo. Phật giáo nói với chúng ta rằng có hai thực tại, chân lý thông thường hay chân lý tương đối, tức cái mà con người nhận thức bằng giác quan của mình, và chân lý tối hậu, tức cái mô tả bản chất thực sự của thế giới. Ví dụ minh họa tốt nhất cho sự phân đôi này là mối tương liên của các sự vật. Chẳng hạn, trong cuộc sống hằng ngày, các sự vật dường như có một thực tại khách quan độc lập với chúng ta, như thể chúng tự tồn tại và có bản chất độc lập. Chúng ta thấy một quả cam ở đây, một cái cây ở kia. Mỗi vật dường như có một bản sắc riêng biệt, do đó thế giới không trình hiện trước chúng ta như một tập hợp các sự vật có liên kết với nhau. Tuy nhiên, Phật giáo cho rằng kiểu nhận thức các hiện tượng như thế chỉ là một sản phẩm của tâm trí chúng ta và phương thức này không còn đứng vững khi phân tích. Thực vậy, khi nhìn vào quả cam, chúng ta chú ý đến kích thước, trọng lượng màu vỏ, hình dạng hoặc vị trí của nó. Tổng thể các thuộc tính này tạo nên trong tâm trí ta khái niệm “quả cam”. Nhưng Phật giáo vẫn cho rằng đây chỉ là một kết cấu của tâm trí, gán cho quả cam một thực tại độc lập một cách sai lầm. Khi chúng ta phân tích quả cam một cách chi tiết hơn, chúng ta thấy rằng nó được tạo ra từ một loạt các nguyên nhân và rất nhiều điều kiện: cây cam sinh ra nó, ánh sáng mặt trời và mưa cho phép cây lớn lên, người nông dân đã trồng cây này, người làm bánh và người bán thịt làm ra bánh mì và thịt nuôi người nông dân... Các kết nối như thế là vô tận, và không thể xác định được bản sắc độc lập của quả cam. Theo Phật giáo, chỉ trong mối liên quan và phụ thuộc vào các yếu tố khác, một sự kiện mới có thể xảy ra. Sự phụ thuộc lẫn nhau là điều kiện căn bản đối với sự biểu hiện của các hiện tượng: cái này nảy sinh là do cái kia. Khi dung hòa hai quan điểm về thế giới dường như hoàn toàn trái ngược nhau, vượt qua các đối lập, Phật giáo đã đưa ra cái được gọi là “Trung đạo”: một hiện tượng không phải là không tồn tại, nhưng nó không tồn tại độc lập, điều này cho phép nó tương tác và hoạt động theo luật nhân quả.
Niels Bohr và nguyên lý bổ sung
Vật lý lượng tử cũng đã bị buộc phải làm hài hòa các hiện tượng dường như không thể dung hòa được. Một trong những khám phá đáng kinh ngạc nhất của cơ học lượng tử chính là cũng như vật chất, và tương tự Janus, ánh sáng sở hữu một bản chất hai mặt: photon, electron, proton, hay bất kỳ hạt nào khác đều có lưỡng tính sóng hạt. Kỳ lạ hơn nữa: biểu hiện của một hạt phụ thuộc vào sự hiện diện của người quan sát. Nếu tôi kích hoạt thiết bị để đo các thuộc tính của photon, nó sẽ xuất hiện như một hạt. Nhưng chừng nào không bị quan sát, thì nó lại có dạng của một sóng. Là một sóng, nó có thể lan rộng và chiếm toàn bộ không gian, như là những sóng tròn tạo ra khi ném một hòn đá xuống ao lan tỏa và chiếm toàn bộ bề mặt của ao. Sóng này, được tính toán vào năm 1926 bởi nhà vật lý người Áo Erwin Schrödinger (hình bên), có thể được coi là sóng xác suất. Cơ học lượng tử nói rằng nếu không quan sát, tôi sẽ không bao giờ có thể dự đoán được vị trí của photon tại một thời điểm nhất định. Tôi chỉ có thể tính được xác suất tìm thấy nó ở nơi này hoặc nơi kia mà thôi. Sóng của photon, giống như sóng biển, có biên độ rất lớn ở đỉnh và biên độ nhỏ hơn nhiều ở nút sóng. Điều này có nghĩa là, ở đỉnh sóng, tôi có cơ hội bắt gặp photon cao hơn so với ở các nút sóng, nhưng ngay cả ở những đỉnh sóng tôi cũng sẽ không bao giờ biết chắc chắn rằng mình sẽ gặp được nó. Sự chắc chắn bị cấm ở thế giới lượng tử.
Einstein, một người theo thuyết tất định cố hữu, không thể chấp nhận việc giải thích thực tại bằng xác suất của cơ học lượng tử. “Chúa không chơi trò xúc xắc”, ông nói. Đối với ông, các hạt vật chất và ánh sáng luôn phải được đặc trưng bởi một vị trí và tốc độ xác định, dù được quan sát hay không. Werner Heisenberg miêu tả chủ nghĩa hiện thực duy vật của Einstein như sau: “Nhà vật lý phải đưa ra giả thuyết rằng anh ta đang nghiên cứu một thế giới không phải do chính anh ta tạo ra và nó sẽ hiện diện, bất biến, ngay cả khi anh ta không có mặt”. Nhưng các thí nghiệm cho thấy Einstein đã nhầm: người quan sát đóng vai trò quyết định trong việc định hình thực tại mà anh ta quán chiếu, và các tiên đoán của cơ học lượng tử, chấp nhận vai trò quan trọng của ngẫu nhiên trong việc giải thích thực tại theo xác suất, chưa bao giờ bị các kết quả đo trong phòng thí nghiệm chứng tỏ là sai.
Nhưng nếu chúng ta chối bỏ chủ nghĩa hiện thực giáo điều của Einstein, thì làm thế nào có thể giải thích được thực tế photon hay electron đồng thời vừa là sóng vừa là hạt? Bản chất kép của ánh sáng và vật chất đã buộc vật lý lượng tử, giống như Đạo giáo và Phật giáo, phải vượt qua các khái niệm dường như đối lập để kết hợp chúng trong một mối quan hệ động thành một thể thống nhất. Cách giải thích phổ biến nhất của cơ học lượng tử là thuộc trường phái Copenhagen, do Niels Bohr lãnh đạo (hình). Theo Bohr, lưỡng tính sóng-hạt không tách biệt, mà bổ sung cho nhau – chính là cái mà ông gọi là “nguyên lý bổ sung”. Đối với nhà vật lý Đan Mạch này, đây là hệ quả không thể tránh khỏi của sự tương tác giữa hiện tượng và thiết bị đo nó. Thực tại không phải là kép, mà chính kết quả của các tương tác thực nghiệm là kép. Theo Bohr, khi chúng ta nói về các nguyên tử hoặc electron, ta không nên tưởng tượng đó là các thực thể thực sự tồn tại độc lập, với những thuộc tính đã được xác định rõ ràng như vị trí hay vận tốc khi vẽ nên các quỹ đạo cũng hoàn toàn xác định. Khái niệm nguyên tử chỉ là một cách thuận tiện để kết nối thành một sơ đồ hợp lý và mạch lạc các quan sát khác nhau: “Sự mô tả tự nhiên của chúng ta không nhằm phát lộ bản chất thực sự của hiện tượng, mà đơn giản chỉ để khám phá nhiều nhất có thể các mối quan hệ giữa các khía cạnh của sự tồn tại của chúng ta ( 116 ) .” Heisenberg viết theo cùng hướng đó: “Yêu cầu ‘mô tả điều gì xảy ra’ trong quá trình lượng tử giữa hai quan sát liên tiếp là một contradictio in adjecto (mâu thuẫn tự thân), bởi vì từ mô tả dùng để chỉ các khái niệm cổ điển không thể được áp dụng trong khoảng thời gian giữa hai quan sát. (...) Bản thể học của chủ nghĩa duy vật dựa trên ảo tưởng rằng (...) ‘thực tại’ trực tiếp của thế giới xung quanh chúng ta có thể được ngoại suy tới cả thang nguyên tử. Sự ngoại suy này là bất khả ( 117 ) .”
Một quan điểm phong phú hơn về thế giớiỞ cấp độ nguyên tử và hạ nguyên tử, vật lý lượng tử đã biết vượt qua các khái niệm đối lập để thống nhất chúng trong một mối quan hệ động của một tổng thể thống nhất. Điều này không chỉ áp dụng đối với lưỡng tính sóng-hạt của ánh và vật chất, mà còn, như chúng ta đã thấy, đối với cái Không tràn đầy. Bằng cách dung hòa các mặt đối lập theo kiểu Đạo giáo và Phật giáo, vật lý lượng tử đưa ra một cái nhìn chính xác và phong phú hơn về thế giới nguyên tử và hạ nguyên tử. Những người sáng lập cơ học lượng tử đã nhận thức được sự tương đồng có thể tồn tại giữa quan điểm về thực tại của cơ học lượng tử và các truyền thống tâm linh phương Đông. Trong một chuyến đi đến Trung Quốc năm 1937, sau khi đưa ra nguyên lý bổ sung, Bohr đã rất ấn tượng với khái niệm hai cực đối lập – Âm và Dương – của Đạo giáo, chính hai cực này đã tạo nên thực tại. Mười năm sau, khi nhà vật lý này được vua Đan Mạch phong tước hiệp sĩ cho những đóng góp khoa học của mình, ông đã chọn gia huy của mình là biểu tượng cặp đôi Âm-Dương, kèm theo câu cách ngôn: Contraria sunt complementa (đối nghịch là bổ sung) (hình trang sau).
Gia huy của Bohr với biểu tượng cặp đôi Âm-Dương và câu cách ngôn tiếng Latin Contraria sunt complementa (đối nghịch là bổ sung) phản ánh công trình của ông trong vật lý về “nguyên lý bổ sung”, theo đó vật chất và ánh sáng có bản chất kép, khía cạnh sóng bổ sung cho khía cạnh hạt.
Do khía cạnh sóng bổ sung cho khía cạnh hạt, và khái niệm tràn đầy bổ sung cho khái niệm chân không, thế giới quan từ tâm linh (ở đây là tâm linh phương Đông) bổ sung cho sự phát triển của khoa học. Chắc chắn đó không phải là để tạo cho khoa học thêm tính thần bí, hay để hỗ trợ Đạo giáo hay Phật giáo bằng những khám phá khoa học. Khoa học và tâm linh là những lĩnh vực khác nhau, như nhà sinh học người Mỹ Stephen Jay Gould ( 118 ) đã chỉ ra một cách chính xác, và không cần phải tổng hợp hay hòa giải chúng. Khoa học hoạt động hoàn hảo và đạt được mục đích nó đặt ra – nghiên cứu và giải thích các hiện tượng – mà không cần sự hỗ trợ của một truyền thống tâm linh hay tôn giáo nào. Còn về tôn giáo, nó nhằm mục đích tạo ra cho chúng ta một sự chuyển đổi sâu sắc bên trong thông qua nhận thức về thế giới và tác động lên nó, để giúp chúng ta suy nghĩ và hành động đúng đắn. Dù Trái Đất có xoay quanh Mặt Trời hay ngược lại, hoặc Big Bang là nguồn gốc của vũ trụ hay do một nguyên nhân nào khác thì cũng không thay đổi điều gì. Nhưng vì khoa học và tâm linh, cả hai đều đại diện cho một sự tìm kiếm chân lý, với tiêu chí là tính xác thực và chặt chẽ, nên cách thức xem xét thực tại của mỗi thứ không nên dẫn đến một sự đối lập không thể khắc phục, mà nên là một sự bổ sung hài hòa ( 119 ) . Sự dung hòa giữa các đối lập là sáng tạo và sinh ra chân lý.