Chương 11 Kết Thúc Một Chiến Lược.
Vào giữa tháng Ba điều rõ ràng là Tổng thống Johnson sẽ không chấp thuận việc triển khai thêm 206.000 quân hoặc bất cứ một số quân nào gần tới mức đó. Hoạt động trên bộ đang giảm xuống ở Việt Nam đã cho thấy rõ khó lòng xảy ra một cuộc tấn công ồ ạt nữa. Phản ứng của quần chúng và trong Quốc hội chứng tỏ là một sự gia tăng hoạt động quân sự như thế sẽ dễ gây ra một sự bùng nổ vị chính trị và khó có thể bào chữa được.
Những sự quan tâm về mặt tài chính có nghĩa là bất cứ một sự tăng thêm chi phí to lớn nào về quốc phòng chỉ có thể thực hiện được với điều kiện là những chương trình quan trọng trong nước phải chịu thiệt thòi. Trên cơ sở đó, việc hoạch định mức số quân ở Việt Nam được tiến hành theo hai chiều hướng.
Trước hết, người ta đã cố gắng cải thiện công việc ước tính số quân của Hoa Kỳ như thế nào để bất cứ một sự tăng thêm lực lượng nào ở Việt Nam đã được …. tối thiểu. Thứ hai, những biện pháp nhằm củng cố lực lượng vũ trang Nam Việt Nam đã được nêu nổi bật. Ông William Bundy đã nhớ lại là “Vào lúc đó vấn đề này đã trở thành một mối quan tâm đặc biệt trong suy nghĩ của chúng tôi". (1)
Vào ngày 6 tháng Ba, Hội đôồg tham mưu trưởng liên quân đã cho biết là khoảng 30.000 quân so với 22.000 được đề nghị trước đây có thể nhanh chóng được tuyển mộ và triển khai. Tuy nhiên trong một công điện gửi cho tướng Westmoreland ngày 8 tháng Ba để thông báo về vấn đề này, Tướng Wheeler đã phản ảnh tình hình đang thay đổi ở Washington như sau:
“Tôi không mong muốn trút những điều phiền muộn của tôi cho Đại tướng, tuy nhiên tôi phải thẳng thắn nói với đại tướng là hiện nay đang có một sự chống đối từ mọi phía về vấn đề bố trí thêm những đơn vị, lực lượng lục quân ở Nam Việt Nam... Đại tướng không nên trông mong mọi quyết định chắc chắn và tăng thêm lực lượng” (2).
Ngày 11 tháng Ba, Tướng Westmoreland đã trả lởi bức công điện và yêu cầu được bổ sung trong phạm vi 30.000 quân, 7 tiểu đoàn cơ động và một tiểu đoàn quân cảnh (3).
Đại sứ Bunker cũng tiên liệu rằng mặc dù nội lực trong số này sẽ không đặt thành nhiều vấn đề có thể nhằm đi tới Mỹ hóa cuộc chiến tranh hơn nữa và tạo cho người Việt Nam một lối thoát để trốn tránh nhiệm vụ của họ. Ông đại sứ nói tiếp:
“Chúng ta cần phải duy trì một sự cân bằng thận trọng giữa vấn đề hiện đại hóa quân lực Việt Nam Cộng hòa và việc tăng cường các lực lượng của chúng ta" (4).
Bài báo đăng trên báo New York Times và phản ứng của quốc hội đối với vấn đề nêu ở trên đã cho thấy chiều sâu của sự chống đối nhằm vào một sự gia tăng lực lượng lớn lao. Bức công điện của Tướng Wheeler gửi Tướng Westmoreland để thông báo về buổi họp ngày 11 tháng 3 tại Nhà Trắng và sự chống đối đang tăng lên trong Quốc hội đối với bất cứ một sự triển khai thêm lực lượng nào đến Nam Việt Nam, đã kết thúc bằng lời khuyên cáo như sau:
“Tôi được cấp trên chỉ thị thông báo cho đại tướng rõ về tình trạng các lực lượng của chúng ta ở Hoa Kỳ để trong tương lai đại tướng không bị ở vào thế xin cung cấp cái gì đó mà chúng ta không có hoặc không thể kiểm tra được” (5).
Lời khuyến cáo nêu trên hẳn là đã đến với Tướng Westmoreland như một chấn động mạnh. Trước đó ông đã bị lúng lúng và bối rối về bài báo đăng trên báo New York Times đưa tin rằng ông đã xin thêm 206.000 quân. Ông nhắc lại câu chuyện đó như sau:
“Khi tôi đọc điều đó đăng trên báo New York Times, mới đầu tôi đã không nhận ra việc ấy. Tôi đã không nhận ra là họ đang đề cập đến chuyện ấy rồi đột nhiên tôi nhận thấy rõ đây là kế hoạch đã được đem vào khung cảnh lời yêu cầu của Tướng Wheeler. Tôi đang bận rộn và nhiều công việc khác và đã không nhận thấy rõ là điều này đã tạo nên một sự vận dụng trí óc lớn đến như thế. Trong bất cứ tình huống nào, tôi không bao giờ chỉ kế hoạch mà Tướng Wheeler và tôi đã triển khai tự nó ắt hẳn là một sự đòi hỏi phải triển khai thêm lực lượng hay là một yêu cầu “khẩn cấp" gửi lực lượng tăng cường cho chiến trường.
Đúng hơn, tôi đã xem đó như một bài tập đặt kế hoạch nhằm mục đích tạo nên một khả năng quân sự để yểm trợ những đường lối hành động lựa chọn về mặt chiến thuật và chiến lược trong tương lai và những lựa chọn này phù hợp với sự xác định chính sách. Tôi dùng thành ngữ "nhu cầu lực lượng" theo nghĩa đã được Hội đồng tham mưu trưởng liên quân định nghĩa, có nghĩa là những lực lượng sẽ cần đến để làm thành những mục tiêu quân sự đã được chấp thuận. Nói một cách khác, nhu cầu này sẽ chỉ trở thành sự thật cụ thể như việc xem xét lại chính sách quốc gia đang được tiến hành ở Washington đưa đến kết quả chấp thuận những mục tiêu chiến lược mới" (6).
Vì đã đáp lại lời yêu cầu của Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân đòi xác đinh rõ những kế hoạch và lực lượng (ẩn cho việc đối phó với trường hợp bất trắc tác hại nhất có thể xay ra" mà lúc này vị Tư lệnh chiến trường đang bị trừng phạt nhức những gì đã xin cung cấp thêm qua thiên không có hoặc là kiệm không ra".
Rõ ràng trong một buổi họp tại Nhà Trắng ngày 13 tháng Ba, Tổng thống cuối cùng đã quyết định cho triển khai thêm 30.000 quân đến Nam Việt Nam. Quyết định này đã được hợp thức hóa bằng một bị vong lục của Trợ lý Bộ trưởng quốc phòng gửi Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân ngày 14-3 (7).
Nhưng việc triển khai này đã không thực hiện theo kế hoạch. Ngày 14-3, Bộ trưởng lục quân đã lưu ý là 30.000 quân sẽ không đủ. Cần phải cộng thêm 13.500 quân vào con số trên để yểm trợ và duy trì 10.500 số quân tăng khẩn cấp đã được gửi cho Tướng Westmoreland trong tháng Hai (8). Vì thế việc triển khai 30.000 quân đã bị hoãn lại trong khi chờ cho các quân chủng tìm cách xác định xem có thể cung cấp nổi số 13.500 quân tăng thêm không.
Tổng thống tiếp tục hội kiến với các nhân vật cầm đầu Quốc hội và với Bộ trưởng tài chính của ông. Ngày 19-1 ông nhận được một công điện của Tướng Westmoreand diễn tả kế hoạch tiến hành một cuộc tiến công quan trọng của ông sẽ được thực hiện ở quân đoàn 1 để khai thông đường số 9 và giải vây cho các lực lượng ở Khe Sanh. Chiến tranh trên bộ có vẻ tiến triển khả quan. Tổng thống đã phát biểu như sau: “Tôi nghĩ rằng nếu Tướng Westmoreland có đủ sự tin cậy để mở một cuộc tấn công thì nên dùng các lực lượng có sẵn ở Việt Nam, điều khôn ngoan là làm sao hạn chế được đưa thêm quân thì hơn” (9).
Vào ngày 22 tháng 3, Tổng thống đã quyết định giới hạn việc triển khai thêm quân sang Việt Nam ở con số 13.500 lực lượng yểm trợ cần thiết để duy trì số quân tăng cường khẩn cấp đã được gửi sang đó trong tháng Hai. Việc này sẽ chỉ cần gọi nhập ngũ có 62.000 quân mà thôi (10). Vì vậy việc tăng thêm lực lượng Hoa Kỳ đã chỉ là một biểu hiện thôi. Đối với 206.000 quân mà Tướng Wheeler và Tướng Westmoreland đề nghị tăng cường thêm vào cuối tháng Hai, không một người lính nào đã được triển khai sang Việt Nam. Lần đầu tiên người ta đã ấn định một giới hạn rõ rệt chỉ việc đưa lực lượng trên bộ sang Nam Việt Nam.
Quyết định chỉ gửi 13.500 quân thôi đã không được Tổng thống công bố. Thực vậy, Lầu Năm Góc vẫn tiếp tục soạn thảo kế hoạch triển khai 3.000 người ngoài hộ phận yểm trợ nhỏ nêu trên và con số 30.000 đã đượcc đề cập trên báo chí (11) Tổng thống mong muốn chuẩn bị lập trường cua ông thật cẩn thận và tranh thủ sự ủng hộ của các nhà lãnh đạo quân sự của ông đối với sự cắt giảm mạnh mẽ những nhu cầu mà họ đã nêu ra.
Cải thiện việc hoàn thành nhiệm vụ của phía ngoài Việt Nam thật là cần thiết cho việc hạn chế sự triển khai quân Mỹ sang Nam Việt Nam và lúc đầu chính phủ Nam Việt Nam đã đáp ứng tốt. Washington và phái đoàn Mỹ ở Sài Gòn đã làm bất cứ cái gì có thể làm được để khuyến khích chính quyền Nam Việt Nam.
Trong tháng 10-1967, chính phủ Nam Việt Nam đã thông qua nội các lệnh động viên. Các lệnh này quy định việc giảm bớt rất nhiều những trường hợp hoãn dịch và đưa ra điều khoản hạ tuổi nhập ngũ thi hành quân dịch từ 20 xuống 18 tuổi. Đáng lẽ sắc lệnh này có hiệu lực kể từ 1 tháng Một 1968 nhưng trước cuộc tấn công Tết Mậu Thân cũng vẫn chưa được áp dụng.
Tuy nhiên, ngay trong khi đang gọi nhập ngũ trở lại những quân nhân dự bị trong thời gian có cuộc tấn công tết, chính phủ Nam Việt Nam đã nghĩ đến việc hoãn gọi động viên những thanh niên 18 và 19 tuổi cho đến khi những lứa tuổi đủ điều kiện khác đã được gọi hết. Đại sứ Bunker đã vạch rõ cho Tổng thống Thiệu hiểu là việc này sẽ gây thêm sự chỉ trích của Hoa Kỳ cho rằng chính quyền Nam Việt Nam không chịu chia sẻ gánh nặng.
Để đáp ứng trước sức ép của Mỹ, ông Thiệu đã ra lệnh tăng thêm số quân của quân lực Việt Nam cộng hòa lên khoảng 600.000 quân trong thời gian sáu tháng. Việc này đã đòi hỏi phải gọi nhập ngũ thi hành quân dịch khoảng từ 100.000 đến 120.000 người. Vì vậy việc gọi nhập ngũ những thanh niên 18 tuổi đã khởi sự ngày 1 tháng Ba và những thanh niên đủ 18 tuổi thì sẽ bắt đầu phục vụ kể từ 1 tháng Năm (12)
Ngoài ra, Đại sứ Bunker đã báo cáo là một tháng sau khi xảy ra cuộc tấn công Tết, số người tình nguyện gia nhập các quân chủng của lực lượng vũ trang Nam Việt Nam trong năm lần so với mức đạt được năm ngoái và số thanh niên trình diện nhập ngũ trong tháng Hai 1968 đã tăng hơn số trình diện nhập ngũ tháng Hai 1967 hai lần rưỡi. Điều này đã cho thấy - Đại sứ Bunker nói thêm - quyết tâm cao hơn về phần chính phủ Nam Việt Nam tham gia số quân có thể sử dụng được (13).
Những thành quả trên đã khích lệ Tổng thống. Ông chỉ thị Đại sứ Bunker thúc giục Tổng thống Thiệu hãy sớm đọc một bài diễn văn với mục đích diễn tả cho quần chúng Mỹ hiểu rõ những cố gắng của chính quyền Việt Nam trong vấn đề nêu trên về việc này đã được thực hiện nhân danh chính họ (14).
Trong một bài diễn văn có thực chất đáng kể đọc đêm ngày 26 tháng Ba, ông Thiệu đã báo cáo những cố gắng của chính phủ của ông trong vấn đề động viên những tài nguyên nhân lực và vấn đề chia sẻ gánh nặng. Ông còn công bố một kế hoạch gia tăng thêm 98.000 quân trong lực lượng vũ trang và cho biết là chính phủ của ông "phải thực hiện những cố gắng hơn nữa và chấp nhận nhiều hi sinh hơn nữa", để chứng minh cho các đồng minh là "chúng ta xứng đáng được họ ủng hộ" (15).
Với quyết định hạn chế việc triển khai thêm lực lượng Hoa Kỳ tới con số đã được đề cập tới và với sự biểu lộ là quân Nam Việt Nam sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm lớn hơn nữa đối với chiến tranh trên bộ, Tổng thống đã công bố trong một cuộc họp báo được tổ chức vào ngày 22 tháng Ba những thay đổi về nhân sự dường như báo hiệu một sự thay đổi về chiến lược trên bộ ở Việt Nam. Nhiệm kỳ của tướng Wheeler trong chức vụ Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân được gia hạn thêm một năm. Tướng Westmoreland đã rời chức vụ của ông ở Việt Nam vào giữa mùa hè và sẽ giữ chức Tham mưu trưởng lục quân (16).
Mặc dù người kế vị Tướng Westmoreland chưa được bổ nhiệm, nhưng dư luận rộng rãi cho rằng tướng Abrams, người tư lệnh phó sẽ lên thay ông. Kể từ khi đến Việt Nam, Tướng Abrams đã được Tướng Westmoreland giao cho việc chú trọng đặc biệt đến việc cải tiến quân lực Việt Nam cộng hòa. Vì vai trò của quân đội này sẽ mở rộng trong tương lai, đương nhiên Tướng Abrams sẽ nắm quyền chỉ huy.
Tướng Westmoreland đã phục vụ Tổng thống rất tốt và Tổng thống Johnson tỏ ra biết ơn ông ta. Mặc dù vấn đề quan hệ với quân chúng trên mặt trận trong nước không phải là những công việc bình thường có thể giao cho một tư lệnh chiến trường, thế mà chỉ trong năm 1967 thôi, Tổng thống đã ba lần dùng Tướng Westmoreland vào vai trò này (17). Mỗi lần Tướng Westmoreland nói lên sự khích lệ của ông trước những sự việc đang diễn ra ở Việt Nam, ông đã cẩn thận cố tránh không dự đoán về tương lai, trừ trong bài diễn văn của ông đọc trong tháng mười Một tại câu lạc bộ báo chí quốc gia
Sau cuộc tấn công Tết, Tướng Westmoreland bắt đầu phải chịu đựng mũi dùi của sự chỉ trích trong Quốc hội và trên báo chí về sự bế tắc ở Việt Nam, chủ yếu vì những lời phát biểu công khai đầy lạc quan của ông. Trong tâm trí của dân chúng Mỹ ông đã được hình dung như một tướng lãnh đã dự đoán sự chiến thắng, rồi đã bị địch quân tấn công bất ngờ và đã phải xin tăng viện thêm 206.000 quân (18).
Tổng thống đã tỏ ra bực bội về sự chỉ trích như thế. "Tướng Westy đã làm đủ mọi việc. Ông nghĩ rằng ông phải hơn thế nữa", Tổng thống Johnson nói, và ông nói tiếp: "Tôi sẽ không bắt ông ta phải đứng mũi chịu sào đâu". Tổng thống đã bày tỏ công khai hoặc riêng rẽ sự tín nhiệm của ông đối với Tướng Westmoreland trong suốt thời gian này và đã biểu lộ trong cuộc họp báo ngày 18 tháng Hai là đối với ông, nếu có cách nào đó Tướng Westmoreland có thể rời chức vụ thì việc này coi như đã xong.
Ngày 23 tháng Ba, Tổng thống Johnson phái Tướng Wheeler kín đáo đến căn cứ không quân Clark ở Philippin để gặp Tướng Westmoreland và thông báo cho ông ta biết tình hình mà Tổng thống đang phải đương đầu ở trong nước và đồng thời tranh thủ được sự thỏa thuận của ông và số quân tăng thêm ít ỏi sẽ được gửi sang cho ông. Hai cấp chỉ huy đã gặp nhau ngày 24 tháng Ba. Như Tướng Westmoreland đã nhớ lại cuộc gặp gỡ này:
"Tướng Wheeler đã nói với tôi rằng một sự thay đổi quan trọng đối với chiến lược quân sự của chúng ta trong chiến tranh Việt Nam rất xa vời và chính quyền đã quyết định không tán thành việc gọi nhập ngũ một số lớn quân dự bị. Bởi thế, vì không thể thực hiện được những lựa chọn chiến lược mà Tướng Wheeler và tôi đã thảo luận trong tháng Hai, vấn đề triển khai thêm lực lượng quan trọng đến Nam Việt Nam đã trở thành một vấn đề im hơi lặng tiếng" (19). kéo dài thêm chiến tranh", Tướng Westmoreland đã phát biểu như thế và ông nói thêm: "Thực thế, nó có tác dụng ép buộc tiến hành chiến lược Việt Nam hóa mà tôi đã đề nghị trước đây, coi đó như lựa chọn chiến thuật duy nhất” (20).
Tướng Wheeler trở về Washington với lời yêu cầu của Tướng Westmoreland xin gửi thêm 13.500 quân. Vị Tổng tư lệnh đã nói rõ cho hai tướng lãnh rõ là điều trở thành hiển nhiên đối với ông là đã đến lúc cần phải gây ảnh hưởng nhiều hơn với người Việt Nam trong khi họ đang có tinh thần đầy tin tưởng mới chớm nở (21). Nhưng quân lính được triển khai thêm đã trở thành những người lính cuối cùng, phần tăng quân cuối cùng của lực lượng quân sự Mỹ được đưa vào chiến tranh Việt Nam.
Orr Kelly: “Tướng Westmoreland nắm quyền chỉ huy lục quân "ông tỏ ra tiếc phải rời Việt Nam trước khi cuộc chiến tranh chấm dứt", "Việc đề cử Tướng Westmoreland nắm quyền chỉ huy lục quân báo trước một sự thay đổi trong chính sách Việt Nam của Mỹ", "Việc thuyên chuyển Tướng Westmoreland giữ nhiệm vụ khác có thể không bao hàm việc thay đổi chiến lược". Neil Sheehan "Những cuộc xung đột về châu Á", "Thay đổi quyền chỉ huy". David Lawrence "Cuộc chiến tranh Việt Nam đang trải qua một cuộc xem xét lại sâu sắc "Một chính sách mới cho Việt Nam".
Để có thể đánh giá chiến lược của Tướng Westmoreland và việc hoàn thành nhiệm vụ của ông ta ở Việt Nam, hãy đọc Robert G.K.Thompson "Không có lối thoát ra khỏi Việt Nam" tr.122-124. Sir Robert Robert Thompson "Điều chỉnh lại sự sai lầm" tr.442-453. Blair Clark "Đánh giá Tướng Westmoreland: Câu hỏi và trả lời". Mark M.Boather "Lịch sử chống nổi dậy không ai chú ý đến". Nalbersts "Người giỏi nhất và sáng chói hơn” tr.442-453. Blair Clark "Đánh giá Tướng Westmoreland: Câu hỏi và trả lời". Mark M.Boather "Lịch sử chống nổi dậy không ai chú ý đến". Nalbersts người giỏi nhất và sáng chói hơn cả" tr.349. Thượng Tướng Richard Stilwell "Sự thay đổi trong chiến thuật - Bài học kinh nghiệm ở Việt Nam". Frances Pitzgarald "Ngọn lửa trong hồ: Người Việt Nam và người Mỹ ở Việt Nam". tr. 342-343. Jefrrey Race "Trận chiến tranh lan đến Long An". tr.226-227. Meyarson “Vĩnh Long" tr.158-154. Charles K.Fair. "Từ những sự ba hoa về chiến thắng" tr.369-416. Beverly Deep “Khe Sanh, di sản của Tướng Westmoreland". Rard Just "Sổ ghi chép về Việt Nam". Dam Yarmolinsky "Săn nhặt những mẩu tin: Hậu quả của vấn đề Việt Nam đối với tổ chức quân sự của Mỹ".