Chương 12 Tạm Ngừng Ném Bom.
Vào đầu tháng Ba. Ông Dan Rusk đã cảm thấy rằng một cuộc tạm ngừng ném bom sẽ đem lại lợi ích tốt nhất cho đất nước và cho Tổng thống. Việc này sẽ gây nên ít hoặc không gây nguy hiểm tí nào về mặt quân sự trong mùa mưa và sẽ trở thành một sáng kiến giúp tranh thủ lại sự ủng hộ của quần chúng đối với cuộc chiến tranh. Tổng thống đã nói với ông là "Hãy tiến hành việc soạn thảo và đưa ra một kế hoạch đi".
Nhưng đề nghị của ông Rusk đã bị những quan chức trong Bộ quốc phòng tỏ ra lạnh nhạt, họ cho rằng đề nghị này làm giảm bớt hiệu lực của công thức San Antonio. Phía quân sự gồm các tham mưu trưởng liên quân và cả tư lệnh Thái Bình Dương, dĩ nhiên, đã tán thành việc đẩy mạnh trên quy mô lớn việc ném bom.
Ngay cả Đại sứ Bunker trong các công điện gửi về Mỹ ngày 13 và 14-3 đã thúc ép mãnh liệt việc tăng cường ném bom Bắc Việt Nam vì nhận thấy rằng chính quyền Nam Việt Nam đã bị lung lay do sự việc chúng ta đã không thể phản ứng theo kiểu này đối vối vụ tấn công Tết (1). Những hi vọng đạt được một thỏa hiệp trong chức quyền tán thành việc tạm ngừng ném bom có vẻ khó khăn.
Lúc này, vào giữa tháng Ba trước sự kiện cho thấy sự chống đối việc gửi thêm quân đang gia tăng và tình hình trên bộ ở Việt Nam đang được cải thiện, vấn đề tạm ngừng hoặc ngừng hẳn ném bom lại được nêu trở lại từ một phía khác.
Tối 16 tháng Ba, ông Arthur Goldberg, Đại sứ Mỹ ở Liên hiệp quốc đã gửi cho ông Bộ trưởng Dan Rusk một bị vong lục chi tiết về Việt Nam. Ông Goldberg trước đây đã có một địa vị mà ông rất ưa chuộng ở Tòa án tối cao, song ông đã phải từ chức để nhận chức vụ Đại sứ tại Liên hiệp quốc theo chỉ thị của Tổng thống, điều này đã được thể hiện qua sự trình bày của ông với Tổng thống trong một loạt bị vong lục. Quan điểm của ông đã luôn luôn cho rằng vấn đề Việt Nam không thể được giải quyết bằng một giải pháp quân sự và Hoa Kỳ cần phải tiến tới việc đàm phán (2).
Sau vụ tấn công Tết, ông Goldberg đã thấy rõ như trường hợp của Clifford trước đây điều đơn giản là đất nước không còn có thể tiếp tục theo đuổi con đường hiện nay và cần phải thực hiện một bước mới hướng về giải pháp chính trị để ngăn ngừa một sự xói mòn thêm đối với sự ủng hộ cuộc chiến tranh của quần chúng. Ông đã phát biểu những ý kiến sau đây với Tổng thống:
"Trong một nền dân chủ, Tổng thống cần phải tranh thủ sự biểu đồng tình của người bị trị. Trong khi một Tổng thống không thể hoạt động với một biểu đồ làm ông phát sốt, nếu Tổng thống không còn tranh thủ được sự biểu đồng tình của người bị trị, trong một nền dân chủ, lúc đó tốt hơn Tổng thống nên có biện pháp quyết liệt để đưa Tổng thống và người bị trị đi đến chỗ hài hòa" (3).
Vào lúc đó ông Goldberg đã không hay biết gì về đề nghị tạm ngừng ném bom của ông Rusk và cảm thấy như nhiều người khác trong nước là Tổng thống đang xét nghiêm chỉnh việc tăng thêm số quân quy mô lớn ở Việt Nam. Đề nghị của ông với Tổng thống nhằm đưa đất nước tiến theo hướng đàm phán và tranh thủ trở lại sự ủng hộ của quần chúng đã được thể hiện như sau:
"Theo ngôn từ rõ ràng, đề xuất của tôi căn cứ vào công thức San Antonio có nghĩa là - không công bố bất cứ một điều kiện nào hoặc một thời hạn nào - chúng ta sẽ ngừng bắn phá Bắc Việt Nam bằng không quân và hải quân trong một thời gian hạn định đủ để xác định xem liệu Hà Nội có sẽ thương lượng hẳn hoi không, theo quan điểm gì thật sự xảy ra trong cuộc đàm phán hơn là bất cứ một sự ràng buộc nào trước bằng lời nói thách kiểu chúng ta đã tìm kiếm trước đây" (4).
Một số báo cáo cho thấy là trong khi thảo luận đề nghị của ông Goldberg với các cố vấn của ông tại Nhà Trắng ngày 16 tháng Ba. Tổng thống đã nổi giận giơ bản đề nghị lên và đã đưa ra những lời lẽ văn vẻ bóng bẩy để chỉ trích (5). Ông Rostow lúc đó có mặt đã coi nhẹ câu chuyện này. Ông nhớ lại việc xảy ra đã diễn tiến như sau:
"Tổng thống đã không tỏ ra quá giận dữ và la lối về một vấn đề đã quá rõ ràng, nhưng ông đã phát biểu ý kiến một cách mạnh mẽ và ông đã không đồng ý về đề nghị của ông Goldberg. Ông rất lo lắng về khu vực gần như phi quân sự. Trong hoàn cảnh này ông cảm thấy là một cuộc ngừng ném bom toàn bộ sẽ là một điều vô trách nhiệm về mặt quân sự" (6).
Ông Rusk cũng vẫn chống đối việc ngừng ném bom toàn diện. Ông vẫn chủ trương ngưng ném bom trên thực tế khu vực phía Bắc vĩ tuyến 20 để xem “liệu chúng ta có thể tranh thủ phản ứng trên thực tế của Hà Nội không những ông nghĩ rằng đề nghị của ông Goldberg có thể được sử dụng như một cái cớ để đưa người Mỹ và người Việt Nam ở Sài Gòn chịu tán thành một cuộc tạm ngừng ném bom, coi đó như một sự dung hòa ý kiến có thể chấp nhận được”. Ông Rusk đã thuyết phục Tổng thống nếu nghe những cố vấn của ông ở Việt Nam phát biểu thẳng thắn về kế hoạch của ông ta và đề nghị của Đại sứ Goldberg.
Do đó, đêm hôm ấy, 16 tháng Ba, một điện tín đã được đánh đi cho Đại sứ Bunker phác họa những nét chính của hai kế hoạch coi đó như "những đề nghị của Bộ tham mưu” và không cho biết ai là tác giả hoặc do ai đề xướng. Thứ nhất là của ông Goldberg, trên thực tế đã được bao gồm trong một đoạn duy nhất và nói rõ là kế hoạch này sẽ được xem như chấp nhận những lời phát biểu của Hà Nội gần đây và coi đó như ngụ ý là Hà Nội đã hiểu rõ và đã tuân theo công thức San Antonio, vì thế chúng ta sẽ ngừng hẳn ném bom Bắc Việt Nam.
Trong khi phác họa kế hoạch do chính ông thảo ra mà ông nói là "khiêm tốn hơn", ông Rusk đã đưa vào bức điện tín toàn thể nội dung bị vong lục mà ông đã trình Tổng thống ngày 5 tháng Ba trong đó ông đã giải thích chi tiết vì sao việc tạm ngừng ném bom sẽ không gây tai hại trong mùa mưa.
Ông bộ trưởng đã hỏi ý kiến Đại sứ Bunker liệu đề nghị này có thể được sự tán thành của ông Thiệu không; đi đôi với việc tăng thêm có giới hạn lực lượng của Hoa Kỳ và đề nghị cải tiến đồ thiết bị quân lực Việt Nam cộng hòa. Ông Rusk nêu nổi bật là theo sự suy xét ký lưỡng của ông thì “Bắc Việt Nam sẽ không đáp lại bằng một bước tiến thật sự hướng về hòa bình và họ có thể sẽ tiếp tục bám vị trí ở Khe Sanh và chung quanh các thành phố một thời gian" (7).
Trong công điện phúc đáp Bộ ngoại giao, Đại sứ Bunker đã xác nhận rằng một cuộc ngừng ném bom toàn bộ sẽ gây rất nhiều bối rối cho chính phủ Nam Việt Nam. Ngay cả một sự giảm ném bom ở một điểm phía nam Vinh theo lời Đại sứ Bunker cũng sẽ có những hậu quả gây bối rối, nhưng ông cảm thấy công việc sẽ dễ dàng hơn nếu tranh thủ được sự đồng ý của chính quyền Nam Việt Nam đối với một cuộc tạm ngừng ném bom cục bộ như thế, đặc biệt là nếu một quyết định như thế được tiếp nối bởi một sự gia tăng yểm trợ quân sự cho chính phủ Sài Gòn (8).
Sự đánh giá của ông Đại sứ được giới hạn trong phạm vi những hiệu quả chính trị của sáng kiến hòa bình ở Việt Nam. Vị tư lệnh quân sự đã không được ông Bunker tham khảo ý kiến và những quan điềm của ông cũng không được phản ánh trong bác công điện phúc đáp của Đại sứ Bunker (9)
Như vậy ông Bộ trưởng Rusk đã có bằng chứng từ chiến trường gửi về là chính phủ Nam Việt Nam sẽ không sẵn sàng chấp nhận một cuộc ngừng ném bom toàn bộ "vào giữa tháng ba", như ông Rusk nhớ lại "Tôi đã biết chắc trong tâm trí của tôi là Tổng thống sắp công bố một cuộc ngừng ném bom cục bộ như tôi đã đề xuất” (10).
Lời giải thích của Tổng thống Johnson về việc bổ nhiệm ông Goldberg giữ chức vụ ở Liên hợp quốc có thể tìm thấy trong “Vị trí ưu thế". tr.543-544.
Về lối giải thích này, ông Goldberg nói: "Tổng thống đã không phản ánh sự thật. Tôi đã không hề tìm đến ông mà chính Tổng thống đã kêu tôi. Tôi không bao giờ mơ ước tìm đến Tổng thống vì tôi rất thỏa mãn với công việc của tôi ở Tòa án và Tổng thống hiểu rõ điều đó. Vì thế ông đã không muốn nói lên sự thật. Tôi đã nhận chức vụ mới vì thật sự là đất nước chúng ta đang lâm vào tình trạng rất rắc rối về vấn đề Việt Nam mà tôi không thể đặt ý thích riêng của tôi ở lại chức vụ ở Tòa án đấy là hoài bão lớn nhất của tôi”.
Xin đọc Arnold Beichman, Bộ ngoại giao: “Phái đoàn Hoa Kỳ tại Liên hợp quốc - Vai trò của nó trong việc hình thành chính sách đối ngoại” tr.174-172.
Ngày 18 tháng Ba, ông Chester Rewles, Đại sứ Mỹ ở Ấn Độ đã đệ trình một đề nghị ngưng ném bom tương tự như đề nghị của ông Goldberg mặc dù ông muốn để những chính phủ khác lãnh trách nhiệm thúc ép Bắc Việt Nam đi vào cuộc đàm phán có ý nghĩa.
Như trên, tr.40-409.