← Quay lại trang sách

CHƯƠNG NĂM TẠI SAO NHỮNG CHIẾN THẮNG LỚN, ĐA SỐ VÀ SỰ ỦY QUYỀN* MẠNH ĐANG TRỞ THÀNH NHỮNG GIỐNG LOÀI BỊ ĐE DỌA?

Sự Suy Tàn Của Quyền Lực Trong Nền Chính Trị Quốc Gia

Sự ủy quyền: Thẩm quyền thực hiện chính sách hoặc tiến trình hành động, được Cử tri trao cho một ứng viên hay một đảng chiến thắng trong cuộc bầu cử.

Bản chất của chính trị là quyền lực, bản chất của quyền lực là chính trị. Và kể từ thời cổ đại, con đường kinh điển dẫn tới quyền lực đã là theo đuổi chính trị. Thật vậy, quyền lực với chính trị gia như là ánh mặt trời với cây cỏ. Các chính trị gia sử dụng quyền lực của mình theo nhiều cách khác nhau, nhưng khát khao quyền lực là đặc điểm chung tối quan trọng của họ. Như Max Weber đã nhận xét gần một thế kỷ trước: “Ai hoạt động chính trị đều khát khao quyền lực, hoặc như một phương tiện để phục vụ các mục đích, lý tưởng hay sự vị kỷ khác, hoặc chỉ vì đó là quyền lực có nghĩa là, để được tận hưởng cảm giác uy quyền mà quyền lực mang lại”. [1]

Nhưng “cảm giác uy quyền” là một cảm xúc mong manh. Và những ngày này, chu kỳ của cảm giác đó ngày càng ngắn hơn. Hãy xem xét thập kỷ vừa qua trong nền chính trị Mỹ, mà nhà phân tích chính trị Ron Brownstein đã gọi là “Thời đại Bay hơi”. Các cử tri trao cho phe Cộng hòa quyền kiểm soát cả Quốc hội và Nhà Trắng năm 2002 và 2004, rồi lấy lại của họ vào năm 2006 và 2008 chỉ để rồi khôi phục quyền kiểm soát Hạ viện cho họ vào năm 2010 và 2012. Trước đó, trong năm cuộc bầu cử từ năm 1996 tới 2004, số ghế giành được từ đảng đối thủ nhiều nhất ở Hạ viện của bất kể đảng nào là 9. Năm 2006, phe Cộng hòa mất 30 ghế. Năm 2008, phe Dân chủ giành 21, và năm 2010, phe Dân chủ mất 63. Số cử tri Mỹ đăng ký như những cử tri độc lập ngày nay thường là cao hơn số những người gắn với phe Cộng hòa và Dân chủ. [2] Năm 2012, tầm quan trọng của các cử tri Latin trở nên rõ ràng.

Đây không chỉ là một hiện tượng ở Mỹ. Khắp mọi nơi, cơ sở của quyền lực chính trị đang trở nên mong manh hơn, giành được đa số phiếu bầu không còn đảm bảo khả năng ra quyết định, bởi vì một loạt các “quyền lực vi mô” có thể phủ quyết, trì hoãn hay làm xói mòn chúng. Quyền lực đang tuột dần ra khỏi tay những kẻ chuyên quyền và các hệ thống độc đảng dù cho họ có tiến hành cải tổ hay không. Nó đang lan ra từ những đảng chính trị lớn và được thành lập lâu đời sang những đảng nhỏ với nghị trình hẹp hay các khu vực bầu cử nhỏ bé. Ngay cả trong nội bộ đảng, những người đứng đầu ra quyết định, lựa chọn ứng cử viên và thiết lập nên nghị trình chính trị đằng sau các cánh cửa đóng đang phải nhường chỗ cho những kẻ nổi loạn và những người ngoài cuộc cho các chính trị gia mới vốn chưa leo cao trong guồng máy của đảng, những người không bao giờ thèm quỵ lụy các lãnh đạo đảng. Những người hoàn toàn ở bên ngoài cấu trúc đảng - các cá nhân đầy sức hút, một số có những người ủng hộ giàu có từ bên ngoài lĩnh vực chính trị, những người khác đơn giản là chớp được một làn sóng ủng hộ nhờ vào những công cụ vận động và truyền tải thông điệp mới mà không cần tới các đảng phái - đang khai mở một con đường mới dẫn tới quyền lực chính trị.

Dù họ theo con đường nào để tới đó, các chính trị gia trong chính phủ đang thấy rằng nhiệm kỳ nắm giữ chức vụ của họ đang trở nên ngắn ngủi hơn và quyền lực của họ để định hình chính sách đang bị xói mòn. Chính trị luôn là nghệ thuật thỏa hiệp, nhưng ngày nay chính trị là một nỗi thất vọng rành rành - đôi khi có cảm giác nó là nghệ thuật của chẳng thứ gì cả. Thế bế tắc ngày càng phổ biến ở mỗi mức độ ra quyết định trong hệ thống chính trị, trong tất cả những lĩnh vực của chính quyền và trong hầu hết các quốc gia. Nhiều liên minh sụp đổ, những cuộc bầu cử diễn ra thường xuyên hơn và “sự ủy quyền” tỏ ra khó nắm giữ hơn bao giờ hết. Sự tản quyền và trao quyền đang tạo ra những cơ quan lập pháp và hành pháp mới. Tới lượt họ, có nhiều chính trị gia hơn và nhiều quan chức hơn - được bầu cử hay bổ nhiệm - nổi lên từ những đô thị tự trị và hội đồng dân biểu vùng đang lớn mạnh hơn này, xâm lấn vào quyền lực của những chính trị gia hàng đầu ở thủ đô. Ngay cả nhánh tư pháp cũng đóng góp vào điều đó: các thẩm phán trở nên năng nổ và thường xuyên điều tra các lãnh đạo chính trị hơn, cản trở hay đảo ngược hành động của họ, lôi họ vào những cuộc điều tra tham nhũng khiến họ phân tâm trong việc thông qua các đạo luật và thiết lập chính sách. Chiến thắng một cuộc bầu cử có thể vẫn là sự phấn khích tuyệt vời trong đời, nhưng hào quang sau đó đang tắt dần. Ngay cả đỉnh cao của một chính phủ toàn trị cũng không còn là ngai vị an toàn và quyền lực như đã từng. Như giáo sư Minxin Pei, một trong những chuyên gia đáng kính nhất thế giới về vấn đề này, từng nói với tôi: “Các thành viên hàng đầu ngày nay nói công khai về những ngày xưa cũ tốt đẹp khi những người tiền nhiệm của họ ở đỉnh cao của quyền lực không phải lo lắng về những kẻ viết blog, những tay hacker, tội phạm xuyên quốc gia, các lãnh đạo tỉnh tồi tệ hay các nhà hoạt động tổ chức 180.000 cuộc biểu tình mỗi năm. Khi những kẻ thách thức xuất hiện, những cựu lãnh đạo có nhiều quyền lực hơn để đối phó với họ. Những nhà lãnh đạo ngày nay vẫn rất quyền lực, nhưng không còn nhiều như một vài thập kỷ trước và quyền lực của họ đang suy giảm liên tục”. [3]

Đó là những tuyên bố thật mạnh mẽ. Xét cho cùng, sự đa dạng của hệ thống chính trị thế giới thật đáng nể. Có những hệ thống tập quyền và liên bang cùng vô số biến thể ở giữa, chưa kể một số nước là một phần của những hệ thống chính trị siêu quốc gia như Liên minh Châu Âu. Những chính thể độc tài có thể là độc đảng, đa đảng trên danh nghĩa hoặc chẳng có đảng phái nào; đó có thể là chính thể quân sự hay cha truyền con nối hoặc có cột trụ là những nhóm sắc tộc hay tôn giáo đa số, và vân vân. Nền dân chủ thậm chí còn đa dạng hơn. Các hệ thống Tổng thống và nghị viện phân mảng thành vô số tiểu thể loại tổ chức bầu cử theo những chương trình khác nhau, dành chỗ cho ít hay nhiều hơn các đảng phái, và có những quy định phức tạp điều chỉnh sự tham gia, đại diện, tài chính cho bầu cử, kiểm soát và cân bằng*, cùng tất cả những thứ còn lại. Các tập tục và truyền thống trong đời sống chính trị thay đổi theo khu vực, ngay cả sự tôn kính dành cho những nhà lãnh đạo và sức hấp dẫn của sự nghiệp chính trị cũng phụ thuộc vào vô số những yếu tố đang thay đổi. Vậy thì làm sao chúng ta có thể tổng quát hóa và tuyên bố rằng chính trị đang phân mảng và rằng ở khắp mọi nơi, quyền lực chính trị đối diện với nhiều sự bó buộc hơn và đang ngày càng trở nên phù du hơn?

Kiểm soát và cân bằng (Checks and balances): Hệ thống chính trị trong một nước dân chủ thật sự, gồm ba ngành là lập pháp, hành pháp và tư pháp. Mỗi ngành có nhiệm vụ kiểm soát (checks) quyền lực của hai ngành kia để tạo sự cân bằng (balances) quyền lực của cả ba.

Trước hết, hãy xem xét câu trả lời tù chính các chính trị gia. Mỗi nhà lãnh đạo chính trị hay nguyên thủ nhà nước mà tôi đã trao đổi đều nói về một sự gia tăng liên tục những lực lượng gây trở ngại làm giới hạn khả năng cai trị của họ: không chỉ những phe nhóm trong đảng của họ và liên minh cầm quyền, hay những nghị sĩ không chịu hợp tác và các thẩm phán ngày càng tự do hơn, mà cả những người nắm giữ trái phiếu chính phủ hung hăng và các đại diện khác của thị trường vốn toàn cầu, các nhà điều hành quốc tế, các định chế đa quốc gia, các phóng viên điều tra và những người vận động tranh cử trên mạng xã hội, và một vòng tròn ngày càng mở rộng các nhóm những nhà hoạt động. Như Lena Hjelm-Wallen, cựu phó Thủ tướng, Bộ trưởng ngoại giao, Bộ trưởng giáo dục Thụy Điển, và một trong những chính trị gia hàng đầu ở đất nước bà, trong nhiều năm, đã nói với tôi: “Tôi chưa bao giờ thôi ngạc nhiên về việc quyền lực chính trị đã thay đổi nhiều và nhanh như thế nào. Giờ tôi nhìn lại và lấy làm kinh ngạc bởi nhiều thứ chúng tôi có thể làm được vào những năm 1970 và 1980 mà hiện tại, gần như không thể tưởng tượng được, nhiều nhân tố mới đã làm suy giảm và chậm lại khả năng hành động của các chính phủ cùng những chính trị gia”. [4]

Các chính trị gia lâu năm cũng va phải một loạt nhân vật mới trong hành lang của quyền lực lập pháp. Trong những cuộc bầu cử Quốc hội ở Brazil năm 2010 chẳng hạn, ứng viên giành được nhiều phiếu nhất cả nước (và nghị sĩ giành được nhiều phiếu thứ hai trong lịch sử quốc gia) là một anh hề - một anh hề thật sự đã tranh cử với cái tên Tiririca và mặc trang phục hề trong khi vận động. Bài diễn thuyết chính trị của ông phản chính trị đến tối đa. “Tôi không biết một nghị sĩ ở Quốc hội làm gì”, ông nói với các cử tri trong những đoạn video YouTube thu hút hàng triệu lượt xem, “nhưng nếu quý vị đưa tôi tới đó tôi sẽ nói cho quý vị biết”. Ông cũng giải thích rằng mục tiêu của ông là “giúp đỡ những người cần giúp đỡ ở quốc gia này, nhưng đặc biệt là gia đình tôi”. [5]

Chính trị theo quan điểm đúng mực của Max Weber là một “nghề nghiệp” - một kiểu kỹ năng đòi hỏi kỷ luật mà chính trị gia mong muốn, một bộ các đặc điểm tính cách và sự nỗ lực đáng kể. Nhưng khi “tầng lớp chính trị” tiêu chuẩn ở hết quốc gia này tới quốc gia khác đánh mất sự tín nhiệm từ quần chúng, những kẻ ngoài lề như Tiririca đang tìm thấy nhiều thành công hơn. Ở Ý, diễn viên hài Beppe Grillo, người đã chỉ trích các chính trị gia mọi thể loại, viết trang blog nổi tiếng nhất trong nước và lấp đầy mỗi sân vận động mà ông xuất hiện. “Cứ gọi ông ấy là một diễn viên hài, một gã hề hay một kẻ trình diễn, nhưng Beppe Grillo là phần lý thú nhất của tin tức chính trị ở Ý trong một thời gian dài”, Beppe Severgnini viết trên báo Financial Times năm 2012. Trong các cuộc bầu cử địa phương năm đó, phong trào của Grillo đã giành được khoảng 20% số phiếu trên cả nước và giành chiến thắng trong một số cuộc đua thị trưởng. [6] Ở Canada, Rob Ford - với tiền án đã trở thành tiêu điểm cho các đối thủ của ông tấn công bằng những khẩu hiệu như “hãy bầu tên nát rượu đánh vợ, phân biệt chủng tộc làm thị trưởng” - đắc cử thị trưởng Toronto năm 2010. Ở Tây Ban Nha, Belén Esteban, một ngôi sao truyền hình với chất giọng the thé đã phô bày những bí mật thầm kín nhất của cô trước máy quay, thu hút được một nhóm cốt cán những người theo dõi đầy phấn khích mà nhiều chính trị gia truyền thông hẳn sẽ muốn có.

Ở Mỹ, sự vươn lên của phong trào Đảng Trà - còn xa mới bị coi là vô tổ chức, nhưng cũng rất xa với cách tổ chức chính trị truyền thông - đã tạo động lực cho những ứng viên như Christine O’Donnell, người bị cáo buộc thực hành phép phù thủy và khiến các đối thủ thủ dâm là một phần chủ chốt trong nghị trình của bà. Ngay cả khi O’Donnell và người đồng chí trong phong trào Đảng Trà của bà, nghị sĩ Cộng hòa của bang Nevada, Sharron Angle (người từng gợi ý cách sửa chữa Quốc hội là để cho người Mỹ xử lý thông qua “Giải pháp khắc phục bằng Tu chính án thứ hai” - tức là vũ trang cho mọi người dân [7] ) thất bại trong các cuộc chạy đua, thì chiến thắng của họ ở các vòng bầu cử sơ bộ của Đảng Cộng hòa năm 2010 nhấn mạnh sự suy giảm khả năng của các lãnh đạo đảng truyền thống trong việc kiểm soát quy trình đề cử. Những lãnh đạo truyền thống của Đảng Cộng hòa không chỉ thiếu quyền lực kiểm soát sự cạnh tranh tàn bạo giữa các ứng viên Tổng thống trong vòng đề cử của đảng, mà còn không thể bảo vệ một số nghị sĩ đang tại chức (đáng kể nhất là Richard Lugar, nghị sĩ phục vụ lâu năm của bang Indiana) và những ứng viên nghị sĩ được ấn định (David Dewhurst, Phó Thống đốc bang Texas) trước những thách thức trong vòng bầu cử sơ bộ thành công năm 2012 của những kẻ mới phất thuộc Đảng Trà.

Ngày càng nhiều những người hùng chính trị đang vượt qua không chỉ trong các đảng phái chính trị, mà chính nền chính trị có tổ chức. Họ tập hợp quyền lực và ảnh hưởng không nhất thiết đề tìm kiếm và giữ một vị trí chính trị, mà để thúc đẩy và lôi kéo sự chú ý với mục tiêu của họ. Đó là những người như Alexey Navalny, luật sư và người viết blog người Nga đã trở thành tâm điểm cho phong trào chống Putin; Tawakkol Karman, mẹ của ba đứa con, đã giành giải Nobel Hòa bình vì những nỗ lực của bà thúc đẩy tự do và dân chủ ở Yemen; Wael Ghonim, người nổi lên như một lãnh đạo chủ chốt trong cuộc cách mạng của Ai Cập (và giống như Karman, là một biểu tượng của Mùa xuân A-rập nói chung) từ vị trí một giám đốc cấp trung tại văn phòng địa phương của Google.

Tất nhiên, dù ấn tượng như thế nào, những câu chuyện này chỉ là những câu chuyện kể. Để thực sự lập biểu đồ mạng lưới và dòng chảy của quyền lực trong chính trị, và cụ thể là sự suy tàn của nó, chúng ta cần dữ liệu và bằng chứng rõ ràng. Chương này nhắm tới việc cung cấp bằng chứng rằng ở nhiều (và ngày càng nhiều hơn) các quốc gia, những trung tâm quyền lực được định nghĩa rõ ràng của quá khứ giờ không còn tồn tại nữa. Một “đám mây” những tay chơi đã thay thế cho trung tâm đó, mỗi tay chơi có một số quyền lực để định hình những kết quả của chính trị hay của chính phủ, nhưng không tay chơi nào đủ quyền lực để đơn phương định đoạt chúng. Điều đó có thể nghe giống một nền dân chủ lành mạnh với sự kiểm soát và cân bằng đáng thèm muốn, và trên một số phương diện đúng là như thế. Nhưng ở nhiều nước, sự phân mảng của hệ thống chính trị đang tạo ra tình huống mà sự bế tắc và khuynh hướng chỉ thực thi các quyết định tối thiểu vào phút chót, làm xói mòn nghiêm trọng chất lượng của chính sách công và khả năng của chính phủ trong việc đáp ứng kỳ vọng của các cử tri và giải quyết những vấn đề cấp thiết.

TỪ NHỮNG ĐẾ QUỐC TỚI NHỮNG NHÀ NƯỚC: CUỘC CÁCH MẠNG NHIỀU HƠN VÀ SỰ SINH SÔI CỦA CÁC QUỐC GIA

Liệu có một ngày nào đó, một khoảnh khắc nào đó, làm thay đổi lịch sử? Jawaharlal Nehru, Thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ, gọi đó là một “cuộc hẹn hò với định mệnh”. Và thật vậy, khoảnh khắc vào lúc nửa đêm, sắp bước sang ngày 15 tháng 8 năm 1947, không chỉ đánh dấu sự tự do chính trị cho Ấn Độ và Pakistan. Nó bắt đầu cho làn sóng phi thực dân hóa làm thay đổi trật tự thế giới từ chỗ bị thống trị bởi các đế quốc thành một thế giới ngày nay với gần hai trăm quốc gia riêng rẽ có chủ quyền. Và với điều đó, nó đã thiết lập một bối cảnh mới trong đó quyền lực chính trị sẽ vận hành tương ứng - một bối cảnh chưa từng được biết tới kể từ thời đại của những công quốc trung cổ và các nhà nước - thành bang, và chắc chắn trước kia chưa từng được biết tới ở tầm thế giới. Nếu chính trị thế giới ngày nay đang phân mảng, đó là vì có quá nhiều quốc gia ngay từ đầu, mỗi nước nắm một số lượng ít ỏi quyền lực. Sự phân rã các đế quốc thành những quốc gia riêng rẽ, mà giờ chúng ta nghiễm nhiên công nhận sự tồn tại, đại diện cho mức độ đầu tiên của sự phân tầng trong chính trị.

Trước khoảnh khắc năm 1947 đó, thế giới có 67 quốc gia có chủ quyền. [8] Hai năm trước, Liên Hiệp Quốc được thành lập với bảng danh sách ban đầu gồm 51 thành viên (xem Hình 5.1). Sau Ấn Độ, sự phi thực dân hóa lan sang châu Á, tới Myanmar, Indonesia và Malaysia. Rồi nó ập tới châu Phi với toàn bộ sức mạnh. Trong vòng năm năm sau khi Ghana tuyên bố độc lập vào năm 1957, thêm hai tá các nước châu Phi đã giành được tự do khi các đế quốc Anh và Pháp tan rã. Gần như trong mỗi năm cho tới đầu những năm 1980, ít nhất một quốc gia mới ở châu Phi, Caribe hay Thái Bình Dương giành được độc lập.

Những đế quốc thuộc địa biến mất nhưng Liên Xô - cả cấu trúc chính thức Liên bang Xô Viết và liên bang trên thực tế của toàn khối Đông Âu - vẫn còn. Điều này cũng nhanh chóng thay đổi nhờ vào một “cuộc hẹn hò với định mệnh” khác. Ngày 9 tháng 11 năm 1989 đã chứng kiến sự sụp đổ của Bức tường Berlin và bắt đầu cho sự tan rã của Liên Xô, Tiệp Khắc và Nam Tư. Chỉ trong bốn năm, từ 1990 tới 1994, Liên Hiệp Qưốc bổ sung thêm 25 thành viên. Kể từ đó, dòng chảy đã chậm đi nhưng không ngừng lại hoàn toàn. Đông Timor gia nhập Liên Hiệp Quốc năm 2002 còn Montenegro vào năm 2006. Ngày 9 tháng 7 năm 2011, Nam Sudan trở thành quốc gia có chủ quyền mới nhất trên thế giới.

HÌNH 5.1 SỐ QUỐC GIA CÓ CHỦ QUYỀN ĐÃ TĂNG GẤP BỐN LẰN KỂ TỪ NĂM 1954

Với tư duy của thế kỷ XXI, chuỗi sự kiện này có vẻ quen thuộc. Nhưng quy mô của thay đổi chúng ta đã trải qua trong hai hay ba thế hệ là chưa từng có tiền lệ. Cuộc cách mạng Nhiều Hơn mà chúng ta đã tìm hiểu ở chương trước xuất hiện rõ ràng trong sự sinh sôi của các quốc gia độc lập với thủ đô, chính phủ, tiền tệ, quân đội, nghị viện và các thế chế riêng khác của họ. Sự sinh sôi này, tới lượt nó, đã làm giảm khoảng cách chính trị giữa những người bình thường và những kẻ cai trị họ. Người Ấn Độ nhìn vào New Delhi, chứ không phải London, cho những quyết định ảnh hưởng tới họ. Trung tâm quyền lực của Ba Lan là Warsaw, không phải Moscow.

Sự thay đổi này đơn giản nhưng sâu sắc. Các thủ đô giờ ở trong tầm với gần hơn, cuộc cách mạng Di Động khiến việc đi lại dễ dàng hơn, rẻ hơn và sự lan truyền thông tin nhanh hơn đã tạo điều kiện cho việc liên lạc giữa những kẻ bị cai trị và chính phủ của họ. Nhưng cũng có nhiều hơn hẳn các vai trò chính trị cần phải đáp ứng, nhiều hơn hẳn những vị trí quan chức và công chức được bầu cử và những thứ tương tự. Việc tham gia chính trị giờ là một khả năng ít xa vời hơn nhiều, phạm vi nhóm các nhà lãnh đạo giờ là một câu lạc bộ ít đặc quyền hơn nhiều. Với sự tăng gấp bốn lần các quốc gia có chủ quyền chỉ trong hơn nửa thế kỷ, nhiều rào cản với sự tiếp cận quyền lực có ý nghĩa đã trở nên ít đe dọa hơn. Chúng ta không nên tối thiểu hóa những thay đổi gây ra bởi sự phân tầng thứ nhất của quyền lực đơn giản chỉ vì chúng có cảm giác quá quen thuộc. Nhưng sự phân tầng tiếp theo - sự phân mảng và hòa tan đang gia tăng trong chính trị ở tất cả các quốc gia chủ quyền độc lập - chứa đựng nhiều sự ngạc nhiên khác.

TỪ NHỮNG KẺ CHUYÊN QUYỀN TỚI NHỮNG NGƯỜI DÂN CHỦ

Trong sự kiện được biết tới như là cuộc Cách mạng Hoa Cẩm chướng, binh lính đổ ra khắp các đường phố ở Lisbon, Bồ Đào Nha, đặt những bông hoa vào họng súng của họ đế khẳng định với người dân về ý định hòa bình của họ. Và những sĩ quan lật đổ Tổng thống Antonio Salazar vào ngày 25 tháng 4 năm 1974 đã chứng tỏ mình giữ lời. Để kết thúc gần nửa thế kỷ bị cai trị đàn áp, họ tổ chức những cuộc tuyển cử vào năm sau, đưa Bồ Đào Nha tới nền dân chủ mà nước này vẫn còn tận hưởng cho đến ngày nay.

Nhưng ảnh hưởng mở rộng hơn nhiều. Sau cuộc Cách mạng Hoa Cẩm chướng, dân chủ nở rộ ở các quốc gia chủ chốt Địa Trung Hải từng bị kìm giữ bởi chế độ độc tài khỏi những tiến bộ xã hội và kinh tế ở phần còn lại của Tây Âu thời hậu chiến. Ba tháng sau cuộc nổi dậy Lisbon, chính quyền quân đội của các đại tá đang điều hành Hy Lạp sụp đổ. Tháng 11 năm 1975, Francisco Franco qua đời, Tây Ban Nha cũng trở thành một nền dân chủ. Từ 1981 tới 1986, cả ba nước đó sẽ gia nhập Liên minh Châu Âu.

Làn sóng lan rộng. Argentina năm 1983, Brazil năm 1985, Chile năm 1989 - tất cả bước ra khỏi chế độ độc tài quân sự kéo dài và đầy đau buồn. Vào lúc Liên Xô sụp đổ, Hàn Quốc, Philippines, Đài Loan và Nam Phi đang ở giữa những cuộc chuyển giao dân chủ của chính mình. Khắp châu Phi, các quốc gia độc đảng nhường đường cho những cuộc bầu cử đa đảng trong năm 1990 và sau đó. Cuộc Cách mạng Hoa cẩm chướng đã bắt đầu cho điều mà học giả Samuel Huntington đặt tên là Làn sóng Thứ ba của dân chủ hóa. Làn sóng thứ nhất đã tới vào thế kỷ XIX, với sự mở rộng của quyền bỏ phiếu phổ thông và sự xuất hiện của các nền dân chủ hiện đại ở Mỹ và Tây Âu, để rồi hứng chịu sự đảo ngược trong khoảng thời gian dẫn tới Chiến tranh Thế giới Thứ hai với sự nổi lên của các ý thức hệ chuyên chế. Làn sóng thứ hai tới sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai với sự khôi phục dân chủ ở châu Âu, nhưng nó dường như kết thúc khi chủ nghĩa cộng sản và các chế độ một đảng hình thành ở khối Đông Âu và nhiều quốc gia mới độc lập. Làn sóng thứ ba vừa lâu dài vừa lan rộng. Số lượng nền dân chủ trên thế giới là chưa có tiền lệ. Và thật ấn tượng, ngay cả những quốc gia còn tồn tại chế độ toàn trị cũng ít toàn trị hơn so với trước kia, với hệ thống bầu cử ngày càng mạnh mẽ và người dân được trao quyền bởi các hình thức tranh luận mới mà những nhà cai trị chuyên chế chỉ được trang bị một cách nghèo nàn để đàn áp. Những cuộc khủng hoảng và sự thụt lùi ở tầm mức địa phương là có thật, nhưng khuynh hướng toàn cầu thì mạnh mẽ: quyền lực tiếp tục tuôn chảy khỏi những kẻ chuyên quyền và trở nên phù du và phân tán hơn (xem Hình 5.2).

HÌNH 5.2 SỰ SINH SÔI CỦA CÁC NỀN DÂN CHỦ VÀ SỰ SUY GIẢM CỦA CÁC THỂ CHẾ CHUYÊN CHẾ: 1950 - 2011

Dữ liệu này xác nhận sự chuyển đổi: 1977 là điểm mốc cao tột đỉnh của sự cai trị độc đoán, với 90 quốc gia toàn trị. Theo Polity Project, một dự án nghiên cứu khoa học chính trị với dữ liệu được công bố và sử dụng rộng rãi, tới năm 2008, thế giới bao gồm 95 nền dân chủ, chỉ 23 chế độ chuyên chế và 45 trường hợp nằm đâu đó ở giữa. [9] Một nguồn đáng tin cậy khác, Freedom House*, đã đánh giá liệu các quốc gia có phải là nền dân chủ bầu cử, dựa trên việc liệu họ có tổ chức các cuộc bầu cử thường xuyên, đúng lúc, cởi mở và công bằng hay không, ngay cả nếu thiếu một số sự tự do dân sự và chính trị khác (xem Hình 5.3 về các khuynh hướng khu vực). Năm 2011, họ tính được 117 trong 193 nước được thăm dò là các nền dân chủ bầu cử. Hãy so sánh điều đó với năm 1989, khi chỉ 69 trong 167 quốc gia đạt được điều đó. Nói cách khác, tỉ lệ nền dân chủ trên thế giới đã tăng hơn gấp rưỡi chỉ trong hai thập kỷ.

Freedom House: Tổ chức phi chính phủ quốc tế có chức năng theo dõi tiến trình dân chủ hóa toàn cầu, cũng như khảo sát và nghiên cứu về tình trạng thực thi tự do chính trị cũng như các quyền tự do cơ bản của công dân tại các quốc gia trên thế giới.

HÌNH 5.3 NHỮNG KHUYNH HƯỚNG KHU VỰC (FREEDOM HOUSE 2010)

Điều gì đã gây ra sự chuyển đổi toàn cầu này? Rõ ràng những nhân tố địa phương cũng có vai trò, nhưng Huntington cũng ghi nhận một số lực lượng lớn. Nhiều chính phủ toàn trị quản trị kinh tế yếu kém và làm xói mòn vị thế của họ trong dân chúng. Tầng lớp trung lưu đang lên đòi hỏi dịch vụ công tốt hơn, sự tham gia rộng hơn và cuối cùng là nhiều tự do chính trị hơn. Các chính phủ và nhà hoạt động phương Tây khuyến khích sự bất đồng quan điểm và ban phần thưởng cho cải cách, chẳng hạn như tư cách thành viên NATO hay EU hay sự tiếp cận với quỹ từ các định chế tài chính quốc tế. Một Giáo hội Công giáo dưới thời Giáo hoàng John Paul II, đóng vai trò như một nhà hoạt động, đã trao quyền cho phe đối lập ở Ba Lan, El Salvador và Philippines. Trên hết, thành công lại sinh ra thành công, một quá trình đã được tăng tốc bởi tầm vươn ra và tốc độ mới của truyền thông đại chúng. Khi tin tức về những chiến thắng của nền dân chủ lan từ quốc gia này sang quốc gia khác, sự tiếp cận rộng hơn với truyền thông, thông qua dân số biết đọc gia tăng, khuyến khích sự ganh đua. Trong nền văn hóa kỹ thuật số ngày nay, sức mạnh của nhân tố đó bùng nổ. Việc biết đọc và được giáo dục, những thành tựu điển hình cho cuộc cách mạng Nhiều Hơn toàn cầu, đã khiến việc liên lạc chính trị qua các biên giới dễ dàng hơn nhiều và tạo động lực cho khao khát chính trị - cuộc cách mạng Tinh Thần đang hoạt động, được áp dụng cho những giá trị cốt lõi của sự tự do, sự tự bày tỏ và mong muốn về sự đại diện có ý nghĩa.

Tất nhiên, đã có những ngoại lệ - không chỉ ở các nước nơi nền dân chủ chưa lan tới mà cả ở những nước nơi nó đã bị đảo ngược. Larry Diamond, một học giả hàng đầu trong lĩnh vực này, gọi sự bế tắc trong những năm gần đây ở các nước như Nga, Venezuela hay Bangladesh là một “sự thoái trào dân chủ”. Tuy nhiên trái với điều này là bằng chứng ngày càng nhiều rằng thái độ của công chúng đã thay đổi. Ở Mỹ Latin chẳng hạn, bất chấp tình trạng nghèo đói và bất bình đẳng dai dẳng cùng những vụ bê bối tham nhũng liên tiếp, các cuộc thăm dò dư luận cho thấy sự tin tưởng vào một chính quyền dân sự lớn hơn là chính quyền quân đội. [10]

Ngày nay, ngay cả những chế độ chuyên chế cũng ít chuyên chế hơn. Theo một nghiên cứu về hệ thống bầu cử dân chủ trên thế giới, Brunei có thể là quốc gia duy nhất mà “nền chính trị bầu cử đã thất bại trong việc bén rễ theo bất cứ cách nào có ý nghĩa”. [11] Với những chế độ ít áp chế hơn nhiều trên thế giới, người ta có thể kỳ vọng sự phản kháng xuất hiện ở những nơi mà tự do và cạnh tranh chính trị bị tăng cường đàn áp. Nhưng thực ra điều ngược lại mới đúng. Tại sao? Những cuộc bầu cử là trọng tâm của nền dân chủ nhưng không phải là chỉ dấu duy nhất về sự cởi mở chính trị. Tự do báo chí, tự do dân sự, sự kiểm soát và cân bằng giới hạn quyền lực của bất cứ định chế đơn nhất nào (bao gồm cả nguyên thủ quốc gia), và những biện pháp khác đều mang lại cảm giác về sự siết chặt quyền lực của chính phủ lên xã hội. Và dữ liệu cho thấy về trung bình, trong khi số lượng các chế độ toàn trị cũng đã giảm bớt, điểm số cho nền dân chủ ở những nước vốn còn đóng cửa về chính trị đã tăng lên. Sự cải thiện đáng kể nhất xảy ra đầu những năm 1990, cho thấy những sức mạnh, từng thúc đẩy rất nhiều nước tiến vào nền dân chủ lúc đó, cũng đang tác động giải phóng sâu sắc lên các quốc gia phi dân chủ còn lại.

Điều này có thể chỉ là sự an ủi muộn mằn cho một nhà hoạt động hay một nhân vật bất đồng bị bắt giam. Và từ Cairo tới Moscow, từ Caracas tới Tunis, với mỗi bước tiến về phía trước, có thể tìm thấy những câu chuyện đầy tính cảnh giác hay các ví dụ phản bác có thể kiềm chế bớt bất cứ sự bùng nổ nào của quả bom dân chủ. Phản ứng dữ dội của các chính phủ đầy quyền lực chống lại những công cụ và kỹ thuật dân chủ mới là một chủ đề thường hiện diện trên tin tức, không có gì ngạc nhiên khi các quyền lực siêu hạng đang phản kháng lại những khuynh hướng làm suy giảm sức mạnh của họ. Tuy nhiên, cho tới giờ, điều có thể nói chắc chắn là nền dân chủ đang lan ra, do đó những khuynh hướng ở các nền dân chủ đang ngày càng trở thành dấu hiệu báo trước cho những khuynh hướng ở các nước vốn chưa hoàn toàn dân chủ. Hơn thế, những con số và thực tế cho thấy rằng trong nền dân chủ - trong những cơ chế rối rắm của các kiểu bỏ phiếu, những thỏa thuận ở nghị viện, những liên minh chính phủ, sự tản quyền và các cơ quan dân biểu vùng của chúng - sự suy tàn của quyền lực đã tìm thấy một động lực lớn.

TỪ ĐA SỐ TỚI THIỂU SỐ

Chúng ta đang bỏ phiếu thường xuyên hơn. Thường xuyên hơn rất nhiều. Đây là một khuynh hướng lớn của đời sống dân sự trong nửa thế kỷ vừa qua, ít nhất là với những ai sống trong các nền dân chủ đã được định hình ở phương Tây. Trong một nhóm 18 nước đã là nền dân chủ ổn định từ năm 1960, bao gồm Mỹ, Canada, Nhật Bản, Úc, New Zealand và hầu hết Tây Âu, tần suất mà công dân được kêu gọi tới các hòm phiếu đã tăng trong đa số lớn các trường hợp vào giai đoạn 1960 tới 2000. Do đó các công dân những nước này có nhiều cơ hội thường xuyên hơn để lựa chọn hay từ chối những người đại diện cho họ cũng như lên tiếng thông qua các cuộc trưng cầu ý dân về những ưu tiên của họ trong các vấn đề chính sách công hay vấn đề ưu tiên của quốc gia. Các cuộc bầu cử tổ chức thường xuyên không có nghĩa là cử tri có nhiều khả năng tham gia hơn: ở nhiều nước phương Tây, tỉ lệ không đi bỏ phiếu đã tăng trong những năm gần đây. Nhưng những ai lựa chọn bỏ phiếu có nhiều cơ hội hơn để tham gia bầu cử - và điều đó có nghĩa là các chính trị gia phải giành lại sự đồng thuận của công chúng nhiều lần hơn hẳn. Sự soi xét và gánh nặng của các cuộc bầu cử diễn ra liên tục không chỉ rút ngắn khung thời gian - dùng để ra quyết định hay lựa chọn những gợi ý chính sách để đầu tư thời gian và vốn liếng chính trị của các quan chức được bầu, mà còn giới hạn rất lớn quyền tự trị của họ.

Chúng ta đã bỏ phiếu nhiều hơn bao nhiêu? Một nghiên cứu của Russell Dalton và Mark Gray đã tìm hiểu câu hỏi này. Trong giai đoạn năm năm từ 1960 tới 1964, những nước họ tìm hiểu đã tổ chức 62 cuộc bầu cử toàn quốc (Hình 5.4). Trong giai đoạn năm năm từ 1995 tới 1999, họ đã tổ chức 81 cuộc bầu cử như thế. Tại sao có sự tăng lên này? Nguyên nhân có thể liên quan tới những thay đổi trong quy định bầu cử, việc sử dụng trưng cầu dân ý gia tăng, hay sự xuất hiện của những cuộc bầu cử hội đồng dân biểu vùng mới mà một số quốc gia đã tạo ra. Các thành viên của EU đã tổ chức bầu cử thường xuyên vào Nghị viện Châu Âu (EP). Những nhà nghiên cứu chỉ ra rằng dữ liệu chỉ bao gồm những ngày các cuộc bầu cử được tổ chức, không phải là số lượng các cuộc bỏ phiếu riêng rẽ được tổ chức vào mỗi ngày bầu cử. Thực ra, khuynh hướng này thậm chí có thể còn mạnh mẽ hơn những gì con số của họ thể hiện, vì một số nước đã sáp nhập nhiều cuộc bầu cử (chẳng hạn, Tổng thống với cơ quan lập pháp hay cơ quan lập pháp với chính quyền địa phương) trong một ngày bầu cử duy nhất. Mỹ, với truyền thông tuyển cử toàn quốc cố định mạnh mẽ vào những ngày tháng 11 mỗi hai năm, là một ngoại lệ với khuynh hướng này nhưng không phải vì người Mỹ đang bỏ phiếu ít thường xuyên hơn. Thực ra, chu kỳ bầu cử mới mỗi hai năm của Hạ viện Mỹ là ngắn nhất trong tất cả các nền dân chủ đã định hình, khiến người Mỹ thuộc vào nhóm những cử tri được kêu gọi đi bầu cử nhiều nhất thế giới. [12]

HÌNH 5.4 TỔNG SỐ CUỘC BẦU CỬ THEO NĂM TRONG MẪU CÁC QUỐC GIA TRÊN TOÀN THẾ GIỚI: 1960 - 2001

Thế giới nói chung đang theo xu thế hướng tới những cuộc bầu cử thường xuyên hơn ở mọi cấp độ chính quyền. Matt Golder, một giáo sư Đại học Pennsylvania, đã theo dõi các cuộc bầu cử tổng thống và lập pháp dân chủ ở 199 nước từ năm 1946 (hay năm các nước đó độc lập) cho tới năm 2000. [13] Ông thấy rằng trong giai đoạn đó, 199 nước đã tổ chức 867 cuộc bầu cử cơ quan lập pháp và 294 cuộc bầu cử tổng thống. Nói cách khác, trong giai đoạn năm mươi bốn năm (bao gồm hơn một thập kỷ trong đó các nền dân chủ không phổ biến như chúng trở nên sau này), ở đâu đó trên thế giới, trung bình có hai cuộc bầu cử quan trọng mỗi tháng.

Như Bill Sweeney, Chủ tịch Tổ chức Quốc tế về Các hệ thống Bầu cử (IFES), một tổ chức phi lợi nhuận vốn là nhà cung cấp quan trọng nhất thế giới trong hỗ trợ kỹ thuật cho các quan chức phụ trách bầu cử, đã nói với tôi: “Nhu cầu cho dịch vụ của chúng tôi đang bùng nổ. Gần như ở mọi nơi, các cuộc bầu cử trở nên thường xuyên hơn và chúng tôi có thể thấy sự khát khao những hệ thống và kỹ thuật đảm bảo cho các cuộc bầu cử không gian lận và minh bạch hơn”. [14]

Những cuộc bỏ phiếu thường xuyên hơn chỉ là một phương diện mà trong đó, những lãnh đạo chính trị đang phải trải nghiệm các giới hạn lớn hơn trong phạm vi hành động của mÌnh. Một phương diện khác là sự suy giảm đáng kinh ngạc của nhóm đa số trong bầu cử. Ngày nay, những nhóm thiểu số thống trị. Năm 2012, trong số 34 thành viên của “câu lạc bộ các nước giàu”, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế, chỉ 4 nước là có một chính phủ với đa số tuyệt đối ở Quốc hội. [15] Ở Ấn Độ, 35 đảng phái chia sẻ ghế trong cuộc bầu cử năm 2009, không đảng nào giành được đa số tuyệt đối kể từ năm 1984. Thật ra, đa số tuyệt đối đang suy giảm trên toàn cầu. Trong nền dân chủ bầu cử, các đảng thiểu số đã thắng trung bình nhiều hơn 50% số ghế ở Quốc hội trong suốt giai đoạn hậu chiến và đến năm 2008, các đảng thiểu số kiểm soát trung bình 55% số ghế. Nhưng ngay cả ở những nước không được coi là nền dân chủ, các đảng thiểu số đang gia tăng sức mạnh của họ. Ở những nước này, các đảng thiểu số vốn nắm giữ không tới 10% số ghế trong ba thập kỷ trước, giờ phần chia trung bình của họ đã tăng lên gần đạt 30%. [16]

Vì vậy khi các chính trị gia yêu cầu một “sự ủy quyền” những ngày này, họ thường chỉ là đang mong ước thiếu thực tế. Kiểu chiến thắng áp đảo trong bầu cử có thể xác nhận cho thuật ngữ “sự ủy quyền” đơn giản là quá hiếm hoi. Các nhà khoa học chính trị chỉ ra rằng ngay cả ở Mỹ, nơi hệ thống hai đảng có vẻ sản sinh ra những kẻ chiến thắng và thất bại rõ ràng, chỉ một cuộc bầu cử tổng thống gần đây - Ronald Reagan tái đắc cử vào năm 1984, đánh bại Walter Mondale - được coi là một chiến thắng áp đảo. Reagan không chỉ thắng ở gần như tất cả các bang, chỉ trừ một bang, và Đặc khu Columbia với các phiếu đại cử tri, mà còn thắng lớn về tỉ lệ các lá phiếu thực sự, với 59% - một khoảng cách không ứng viên Mỹ nào đạt được kể từ đó. [17] Chiến thắng kiểu này thậm chí càng khó có khả năng hơn ở những hệ thống ba, bốn, năm hay nhiều hơn các đảng lớn và rất nhiều đảng nhỏ cùng chia sẻ lòng tin của các cử tri.

Như thế, nghệ thuật cai trị cao quý giờ phụ thuộc lớn hơn nhiều vào một kỹ năng cụ thể và dơ bẩn: hình thành và duy trì một liên minh. Và những vụ trao đổi mà các liên minh đòi hỏi trao cho các đảng nhỏ nhiều quyền lực hơn để yêu cầu sự nhượng bộ chính sách và các ghế Bộ trưởng cụ thể. Trong bối cảnh bầu cử phân tán, thật tốt khi là một đảng nhỏ. Thật ra, những đảng bên lề - với các quan điểm cực đoan hoặc chỉ tập trung vào một vấn đề, hay có cơ sở vùng - có thể thu được nhiều quyền lực hơn mà không cần làm nhẹ đi lập trường của minh để thu hút thêm những cử tri trung dung. Những người tự do theo chủ nghĩa sô-vanh Liên minh Miền Bắc ở Ý, đảng cực hữu của Bộ trưởng ngoại giao Israel Avigdor Lieberman, những người theo chủ nghĩa ly khai Đảng Nhân dân Flemish ở Bỉ, và rất nhiều đảng Cộng sản ở các nghị viện quốc gia và hội đồng dân biểu vùng ở Ấn Độ đều đang tận hưởng ảnh hưởng ngoại cỡ trong những liên minh, với các đối tác phản đối thông điệp của họ - nhưng không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đưa họ vào liên minh. Tháng 12 năm 2011 chẳng hạn, sự phản đối quyết liệt từ hai đảng trong liên minh do Đảng Quốc đại Ấn Độ dẫn đầu đã buộc Thủ tướng Manmohan Singh phải gác lại kế hoạch để các siêu thị nước ngoài sở hữu 51% doanh nghiệp của họ - một sự nhượng bộ mất mặt.

Các cuộc cãi vã ầm ĩ về những liên minh tiết lộ các nhượng bộ mà một “kẻ thắng cuộc” trong cuộc bầu cử phải đối mặt ngay từ đầu. Vào tháng 5 năm 2010, những cuộc bầu cử ở Anh tạo ra một Quốc hội treo*, dẫn tới việc thành lập liên minh giữa Đảng Bảo thủ của David Cameron và Đảng Dân chủ Tự do của Nicholas Clegg - hai đảng với những khác biệt sâu sắc trong vấn đề nhập cư và hội nhập với châu Âu, trong số nhiều vấn đề khác. Hệ quả là cả hai đảng đã phải nhượng bộ đáng kể. Nhưng đôi khi việc xây dựng liên minh tỏ ra là một mục tiêu khó nắm bắt. Hà Lan mất bốn tháng mà không có một chính phủ nào vào năm 2010. Bỉ còn tệ hơn. Năm 1988, những chính trị gia nước này đã lập kỷ lục quốc gia khi mất tới 150 ngày để thành lập một liên minh. Như thế nghe đã tệ, nhưng vào năm 2007-2008, bị bao vây bởi sự căng thẳng ngày càng leo thang giữa vùng Flemish nói tiếng Hà Lan và vùng Walloon nói tiếng Pháp, quốc gia này phải trải qua chín tháng rưỡi không có chính phủ, trong khi những phe nhóm cực đoan kích động việc chia tách hoàn toàn vùng Flemish. Chính phủ đã từ chức vào tháng 4 năm 2010, kéo theo đó là một giai đoạn bế tắc kéo dài. Tháng 2 năm 2011, Bỉ vượt qua Campuchia để thiết lập kỷ lục thế giới về thời gian một quốc gia vận hành mà không có chính quyền. Cuối cùng, ngày 6 tháng 12 năm 2011, sau 541 ngày đình trệ, một Thủ tướng đã tuyên thệ nhậm chức. Thật đáng chú ý khi nói đến quyền lực suy giảm của các chính trị gia, bất chấp cuộc khủng hoảng chính phủ lố bịch và lẽ ra phải tai hại này, nền kinh tế và xã hội vẫn tiếp tục vận hành ngon lành giống như các láng giềng châu Âu khác. Thật ra, chỉ sau khi Standard & Poor’s, một trong ba cơ quan xếp hạng tín dụng lớn và uy tín nhất thế giới, hạ thấp tín nhiệm tín dụng của Bỉ, các đảng đối lập mới cảm thấy áp lực phải tiến tới một giải pháp. [18]

Quốc hội treo: Tình trạng Quốc hội không có đảng nào trong số các đảng dẫn đầu sau cuộc bầu cử giành được số ghế đa sổ và thành lập chính phủ mới.

Nghiên cứu gần đây về các khía cạnh khác của việc hình thành, thời gian tồn tại và sự giải tán của chính phủ mang tới thêm bằng chứng liên quan đến sự suy tàn của quyền lực. Một nguồn thú vị được cung cấp bởi các nhà nghiên cứu Scandinavia, đã thu thập thông tin chi tiết về các chính phủ ở 17 nền dân chủ châu Âu, trải dài từ cuối Chiến tranh Thế giới Thứ hai, hay trong một số trường hợp, từ lúc mà các quốc gia trong cuộc thăm dò (lấy ví dụ, Hy Lạp, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha) cuối cùng cũng trở thành những nền dân chủ. Dữ liệu bao gồm Đức, Pháp, Anh và các nước lớn ở châu Âu khác. Dù những phát hiện trong nghiên cứu này không thể được tổng quát hóa cho, lấy ví dụ, Ấn Độ hay Brazil hay Nam Phi, chúng vẫn đưa ra những đề mục hấp dẫn về việc ngày nay chính trị ở các nền dân chủ đang đứt gãy ra sao. Một số ví dụ theo sau đây.

Lợi Thế Của Những Kẻ Nắm Quyền Đang Biến Mất

Nói chung, dù những đảng và liên minh đang nắm quyền có lợi thế nội tại như khả năng phân phát lợi lộc và tầm nhìn, họ có khả năng sẽ mất một số phiếu, nếu chẳng may những người ủng hộ họ đánh mất sự nhiệt tình trong khi các đối thủ thì có cả một hồ sơ để chỉ trích. Trong những năm gần đây, tác động của hiện tượng này đã tăng lên: một phân tích với 17 nền dân chủ ổn định ở châu Âu cho thấy trong mỗi thập kỷ kể từ những năm 1940, số phiếu mất đi trung bình của những kẻ nắm quyền mỗi lần tái bầu cử đã tăng lên. Trong những năm 1950, những kẻ nắm quyền đã mất trung bình 1,08% số phiếu. Tới những năm 1980, tỉ lệ mất phiếu trung bình là 3,44% và trong những năm 1990, con số gần gấp đôi lần nữa, lên 6,28%. Trong những năm 1950, 35 nội các ở các nước được thăm dò chiến thắng ở cuộc tái bầu cử trong khi 37 thất cử. Trong những năm 1990, chỉ 11 nội các tái cử thành công trong khi 46 thất cử. Hanne Marthe Narud và Henry Valen, hai nhà khoa học chính trị đã thực hiện phân tích, chỉ ra khuynh hướng này mạnh mẽ ở các nền dân chủ ổn định như Anh hay Hà Lan cũng như các nền dân chủ mới như Hy Lạp hay Bồ Đào Nha. Nói cách khác, khuynh hướng này là không thay đổi bất kể bề dày truyền thông và kinh nghiệm của nền dân chủ. [19]

Các Chính Phủ Đang Sụp Đổ Nhanh Chóng Hơn

Cũng có bằng chứng rằng từ Chiến tranh Thế giới Thứ hai, các liên minh hay nội các nắm quyền ngày càng có khuynh hướng chấm dứt vì đấu đá chính trị nội bộ trước khi nhiệm kỳ của họ kết thúc. Các nhà khoa học chính trị phân biệt hai loại nội các bị hủy bỏ. Một là về mặt chuyên môn - có nghĩa là gắn liền với lý do mang tính hiến pháp cụ thể ở quốc gia được nghiên cứu, hay tình huống trong đó những cuộc bầu cử phải diễn ra theo luật, hoặc một Thủ tướng qua đời và phải được thay thế. Loại chấm dứt nội các kia là nhiệm ý - nói cách khác, vì sự biến động chính trị, chẳng hạn khi một nội các từ chức vì bất đồng chính trị hay thua trong một cuộc bỏ phiếu tín nhiệm ở quốc hội. Theo nghiên cứu dựa trên cùng bộ dữ liệu của 17 nền dân chủ nghị viện ở châu Âu từ năm 1945, có nhiều sự kết thúc nội các nhiệm ý hơn sự kết thúc nội các chuyên môn trong những năm 1970 và 1980 (72,9% và 64,7%, tương ứng) so với những thập kỷ trước đó. Tuy nhiên, vào những năm 1990, tỉ lệ này cân bằng hơn, với số lượng sự kết thúc chuyên môn và nhiệm ý tương đương nhau. [20]

Không có gì ngạc nhiên, trong thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, khuynh hướng kết thúc nhiệm ý gia tăng. Kể từ khi cuộc khủng hoảng tài chính bùng nổ năm 2008, các chính phủ sụp đổ, các nội các tan tành, các liên minh rã đám, các Bộ trưởng bị cách chức và các lãnh đạo đảng phái từng một thời không thể đụng đến bị buộc phải từ chức. Khi những vấn đề kinh tế lan rộng khắp châu Âu, sự bất lực của những kẻ quyền lực nhằm đối phó với cuộc khủng hoảng đã trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết.

Ngay cả bên ngoài những hệ thống nghị viện, nhan nhản bằng chứng cho thấy những hạn chế giờ đã làm xói mòn sự ủy quyền bên ngoài của một thắng lợi bầu cử. Ở Mỹ, một nguồn thất vọng ngày càng gia tăng của mỗi chính quyền Tổng thống là thời gian cho những vị trí được đề cử được Thượng viện xác nhận. Như học giả của Đại học New York Paul Light đã nhận xét, “Một quy trình đề cử và xác nhận kéo dài hơn sáu tháng là chưa từng nghe thấy trong giai đoạn từ 1964 tới 1984”. Trong cùng giai đoạn đó, chỉ 5% những người được bổ nhiệm phải đợi nhiều hơn sáu tháng, từ lúc được liên lạc để đề cừ cho tới lúc được xác nhận thực sự. Theo tiêu chuẩn lãnh đạm ngày nay, cách tiến hành trong quá khứ có tốc độ khó tin. Từ 1984 tới 1999, Light thấy rằng 30% những người được bổ nhiệm cần nhiều hơn sáu tháng để được xác nhận. Mặt khác, những sự xác nhận nhanh - những người chỉ mất một hay hai tháng - diễn ra trong 50% các trường hợp từ 1964 tới 1984, nhưng chỉ 15% các trường hợp từ 1984 tới 1999. Trong thập kỷ tiếp theo, khi sự phân cực chính trị trở nên kịch liệt hơn, khuynh hướng này chỉ có thể tệ hơn.

TỪ ĐẢNG PHÁI TỚI PHE PHÁI

Các lãnh đạo đảng phái phì phèo những điếu xì-gà và đổi chác những lợi ích bảo trợ khi họ thiết lập các nghị trình chính trị cùng các chính sách và các ứng cử viên - một hình ảnh đầy đe dọa trong các cầu chuyện chính trị, nhưng nó ngày càng trượt ra khỏi thực tế. Ví dụ ngay trước mắt là sự thay đổi vận mệnh của Đảng Cộng hòa ở Mỹ. Cách đây chưa lâu, Đảng Cộng hòa tiêu biểu cho sự bảo thủ trong giới doanh nghiệp truyền thống và kỷ luật đi cùng với điều đó - những đặc điểm mà đảng đã duy trì thành công khi đối mặt với sự khuấy động có dự tính, và đôi khi thành công, của các nhóm bảo thủ trong những vấn đề xã hội. Sự nổi lên của Đảng Trà đã chứng tỏ họ còn hơn là một thách thức về mặt tổ chức. Đáng nói, Đảng Trà không hề là một đảng phái mà chỉ là một hỗn hợp những tổ chức phe phái và nhóm giống nhau về cấu trúc cùng nhiều cá nhân, được thúc đẩy bởi các ý tưởng (mà chính những ý tưởng này cũng hay thay đổi) mà họ gắn với khái niệm và thương hiệu "Đảng Trà". Một số ứng cử viên và nhóm trong Đảng Trà đã gom góp được tiền tài trợ từ các nhóm lợi ích kinh doanh hùng mạnh có kinh nghiệm đáng kể trong việc tạo ảnh hưởng lên nền chính trị Mỹ (ví dụ, David và Charles Koch, những tỉ phú điều hành Koch Industries, công ty tư nhân lớn thứ hai ở Mỹ). Những thành phần khác của Đảng Trà không giống gì hơn là các nhóm những nhà hoạt động dân chủ trực tiếp cơ bản đang tham gia vào nền chính trị truyền thống lâu đời ở Mỹ. Những thành phần tạp nham này kết hợp lại với nhau theo một cách không đảng chính trị truyền thống nào, với những ủy ban cùng điều lệ và nhóm nhỏ những kẻ môi giới quyền lực tinh hoa của nó, có thể hy vọng dung nạp. Chỉ mất vài tháng sau sự nổi lên của Đảng Trà vào năm 2009 để phong trào này định hình lại phe Cộng hòa, và cùng với nó, nền chính trị Mỹ, đưa tới chiến thắng ở các vòng bầu cử sơ bộ cho những người bên ngoài giới lãnh đạo chóp bu của đảng và những người vốn không được các nhân vật quyền lực trong đảng ưa thích. Thật vậy, trong cuộc bầu cử năm 2008, Đảng Trà không tồn tại. Bốn năm sau đó, những ứng cử viên Tổng thống của phe Cộng hòa năm 2012 đều háo hức tìm kiếm sự ủng hộ của nó.

Đảng Trà là một hiện tượng rất Mỹ, dù như là hình ảnh phản ánh sự mê đắm kiểu Mỹ với nền dân chủ trực tiếp, hoặc như một phương tiện để bơm tiền vào chính trị, hay như bình chứa mới nhất cho chủ nghĩa dân túy chính phủ nhỏ. Nhưng sự nổi lên nhanh chóng của nó từ hư không cũng tạo ra những hệ quả. Ở châu Âu, phong trào Đảng Cướp biến, dựa trên tư tưởng của một tay tin tặc về thông tin tự do và quyền tự do dân sự rộng lớn hơn, đã mở rộng từ quê hương của nó tại Thụy Điển vào năm 2006 sang Áo, Đan Mạch, Phần Lan, Đức, Ireland, Hà Lan, Ba Lan và Tây Ban Nha. Nghị trình của nó, cái gọi là Tuyên bố Uppsala được công bố năm 2009, tập trung vào tự do hóa tác quyền và luật bản quyền, thúc đẩy sự minh bạch và tự do ngôn luận và vận động các cử tri trẻ. Nó không chỉ giành được 7,1% số phiếu ở cuộc bầu cử Nghị viện Châu Âu của Thụy Điển và 2 ghế nghị sĩ châu Âu của Thụy Điển, mà vào tháng 9 năm 2011, nó đã có đại diện ở một quốc hội tầm quốc gia với việc giành được 9% số phiếu tại Berlin. Trong số những đảng bị nó giành mất phiếu có một đối tác chủ chốt trong liên minh cầm quyền của Angela Merkel, Đảng Dân chủ Tự do đã được hình thành lâu đời - vốn thậm chí không vượt được ngưỡng 5% số phiếu cần thiết để có đại diện ở quốc hội quốc gia. [21] Năm 2012, Đảng Cướp biển đạt được một cột mốc khác khi một thành viên trong chi nhánh Thụy Sĩ của nó giành thắng lợi tại cuộc bầu cử thị trưởng thành phố Eichberg. [22]

Một kiểu chiến dịch nối dậy khác được Ségolène Royal tiến hành trong cuộc bầu cử tổng thống Pháp 2007. Chạy đua để lãnh đạo Đảng Xã hội chống lại Nicolas Sarkozy, Royal phản đối mọi "cây đa cây đề" truyền thống của đảng với mạng lưới ủng hộ sâu rộng của họ trong những đảng viên trụ cột và quan chức đắc cử cấp cao.

Vậy thì làm thế nào Royal trở thành một ứng viên được? Thông qua một phong trào kiểu Đảng Trà - và giống như ở Mỹ, thông qua việc sử dụng các vòng bầu cử sơ bộ để xác định ứng viên. Vòng sơ bộ là một công cụ mới xuất hiện gần đây ở các nền dân chủ: tại Mỹ, nơi chúng phổ biến nhất, chúng chỉ thật sự trở nên phổ quát vào cuối những năm 1960, và ở những nơi khác, chúng còn mới hơn thế. Chúng cũng đang ngày càng trở nên quen thuộc. Trong cuộc bầu cử năm 2007 ở Pháp, Đảng Xã hội tổ chức một vòng sơ bộ mở cho tất cả các đảng viên - và bộ phận tranh cử của Royal đã mở một chiến dịch lớn để đăng ký các thành viên mới, vừa kịp lúc để tham gia. Thông qua công cụ này, cùng với một trang web và thông điệp chính trị - tách biệt Royal với bộ máy của đảng, bà đã giành được tỉ lệ phiếu áp đảo 61% trong vòng sơ bộ - dù trong cuộc tổng tuyển cừ bà đã thua.

Những Đảng viên Xã hội Pháp, không hài lòng với sự sáng tạo này, đã quyết định tiến một bước xa hơn vào năm 2011 khi họ chuẩn bị cho cuộc bầu cử năm 2012. Lần này họ quyết định tổ chức các cuộc bầu cử sơ bộ cho tất cả các cử tri có thể ra ứng cử, chứ không chỉ cho các đảng viên của họ. Để tham gia, cử tri chỉ cần ký tên của mình vào tuyên bố chấp nhận một thỏa thuận cơ bản với những giá trị của cánh tả - không hề là một thỏa thuận sắp xếp ràng buộc hay mang tính ép buộc. Và có ít nhất một ứng viên không phải là đảng viên đã đăng ký. Nói cách khác, cách đảng phái này lựa chọn ứng viên để đối đầu với Tổng thống đương nhiệm không còn gì nhiều giống với hoạt động của một đảng phái nữa. Frangois Hollande, đã sống chung với Ségolène Royal từ những năm 1970 và có với nhau bốn mặt con, giành chiến thắng trong kỳ đề cử của Đảng Xã hội và đánh bại Nicolas Sarkozy trong cuộc bầu cử tổng thống. Tới khi đó, Hollande và Royal đã ly thân và tân Tổng thống chuyển tới Điện Élysée với nhân tình của ông, nhà báo Valérie Trierweiler.

Đảng Trà ở một thái cực chính trị và những Đảng viên Xã hội Pháp ở thái cực kia chỉ là hai ví dụ về một khuynh hướng quốc tế: khắp các nền dân chủ tiên tiến, những đảng phái lớn đang cảm thấy khoảng cách giữa những nhà lãnh đạo được lựa chọn đằng sau cánh cửa đóng kín và những người có thể vận động cử tri. Với các đảng thiểu số đang lên, nhu cầu thích nghi đã trở nên khẩn thiết. Ở nhiều nước, các đảng phái - trong nhiều thập kỷ chờ đợi có một phần chia hay tới lượt được nắm quyền - đã cởi mở hơn trong cách lựa chọn những người mang tiêu chuẩn của họ. Sử dụng phương pháp này hay phương pháp khác, họ đang mở rộng “biên độ lựa chọn” – từ dùng để chỉ phạm vi những người có thể có tiếng nói trong việc lựa chọn lãnh đạo đảng. [23]

Sự lan rộng của những vòng bầu cử sơ bộ là một dấu hiệu đáng kể về sự thay đổi. Kiểm đếm 50 đảng lớn từ 18 nền dân chủ nghị viện, Ofer Kenig, đứng đầu nhóm nghiên cứu về các đảng phái chính trị ở Viện Dân chủ Israel, đã ghi nhận trong năm 2009 rằng 24 trong số đó trao cho các đảng viên bình thường “một vai trò quan trọng” trong việc lựa chọn người lãnh đạo. Những đảng khác phân chia giữa việc lựa chọn bởi các nghị sĩ thành viên và lựa chọn bởi một ủy ban được chỉ định nào đó. [24]

Như được ghi nhận, các vòng bầu cử sơ bộ cũng lan rộng ra những nơi khác. [25] Ở Mỹ Latin, ước tính 40% các cuộc bầu cử tổng thống, kể từ sự chuyển đối chính trị ra khỏi nền cai trị quân sự trong những năm 1980, bao gồm ít nhất một ứng viên lớn được lựa chọn thông qua kỳ bầu cử sơ bộ. Một cuộc điều tra các đảng chính trị ở Mỹ Latin cho thấy rằng vào năm 2000, hơn một nửa đã sử dụng kiểu bầu cử sơ bộ hay kiểu bầu cử nội bộ giống như sơ bộ. Một nghiên cứu khác chỉ ra mức độ tín nhiệm thấp nhất đối với các đảng chính trị ở Mỹ Latin là ở những nước, chẳng hạn như Bolivia và Ecuador, nơi các ứng viên chưa bao giờ được lựa chọn qua các vòng sơ bộ. Nhìn chung, các nhà khoa học chính trị thấy rằng dù các kỳ bầu cử sơ bộ mở - kiểu mang lại “biên độ lựa chọn” lớn nhất - chỉ xuất hiện ở một số hạn chế các nước, nó vẫn là một khuynh hướng quốc tế mà các đảng chính trị đi theo. Và California, từ lâu đã là bang đầu đàn cho những khuynh hướng quốc gia ở Mỹ, ngả về phía ưu ái cử tri thay vì đảng phái: bang này nhất trí thông qua trưng cầu dân ý vào năm 2011, yêu cầu tất cả các ứng viên sơ bộ xuất hiện trong một kỳ bỏ phiếu duy nhất, với hai người nhận được nhiều phiếu nhất sẽ bước vào vòng tổng tuyển cử bất chấp đảng phái của họ.

Như thể các lãnh đạo đảng phái ?