CHƯƠNG SÁU LẦU NĂM GÓC ĐỐI ĐẦU CƯỚP BIỂN
Al Qaeda đã chi khoảng 500.000 đô-la Mỹ để gây ra vụ 11 tháng 9, trong khi tổn thất trực tiếp của sự tàn phá ngày hôm đó cộng thêm chi phí phản ứng của Mỹ đối với cuộc tấn công là 3,3 nghìn tỉ đô-la Mỹ. Nói cách khác, với mỗi đô-la Al Qaeda chi ra lên kế hoạch và thực hiện những vụ tấn công, nước Mỹ đã đáp lại với 7 triệu đô-la. [1] Chi phí của vụ 11 tháng 9 bằng 1/5 nợ quốc gia của Mỹ. Năm 2006, Hezbollah đã bắn một tên lửa hành trình chính xác vào một tàu Israel trong cuộc Chiến tranh Lebanon. Quả tên lửa trúng mục tiêu, suýt làm chìm chiếc tàu Hanit (“Ngọn giáo”), một tàu hộ tống của Hải quân Israel có trang bị hệ thống tên lửa phòng thủ. Chi phí cho chiếc tàu Israel là 260 triệu đô-la Mỹ, giá của quả tên lửa được cho là chỉ 60.000 đô-la Mỹ. [2] Năm 2011, cướp biển Somalia đã gây ra tổn thất từ 6,6 tỉ đô-la Mỹ tới 6,9 tỉ đô-la Mỹ cho thế giới. Họ tiến hành 237 vụ tấn công, một kỷ lục - tăng so với 212 vụ vào năm 2010 - bất chấp những cuộc tuần tra liên tục của một hải đội đa quốc gia bao gồm một số tàu chiến công nghệ hiện đại nhất từng được đóng. [3]
Những kẻ khủng bố, nổi dậy, cướp biển, quân du kích, tay súng chiến đấu vì tự do và bọn tội phạm không có gì mới. Nhưng theo như lời Churchill: chưa bao giờ trong lĩnh vực xung đột con người, một số ít người như thế lại có tiềm năng gây ra thiệt hại lớn như thế cho nhiều người như thế với chi phí thấp như thế. Như vậy, cũng trong lĩnh vực xung đột vũ trang, các quyền lực vi mô, mà hiếm khi chiến thắng, đang khiến cuộc sống khó khăn hơn cho những tay chơi siêu hạng - những nền quốc phòng lớn và đắt đỏ của thế giới.
Một cách mà việc thực thi quyền lực bằng vũ lực thay đổi là khả năng ngày càng tăng của các nhóm chiến đấu nhỏ, lanh lẹ trong việc thúc đẩy lợi ích của họ cùng lúc gây ra thương tổn đáng kể lên những kẻ thù quân sự lớn và được thiết lập tốt hơn nhiều. Một cách khác là sự suy giảm khả năng và sự sẵn sàng của nhiều nhà nước có quân đội truyền thống với việc tận dụng tối đa quyền lực hủy diệt khổng lồ mà họ nắm trong tay. Trong khi rõ ràng là các quyền lực vi mô hiện tại không thể đối đầu trực diện với các cường quốc quân sự thế giới, họ ngày càng có thể “bác bỏ” chiến thắng của những tay chơi lớn, công nghệ hiện đại hơn nhiều trong một cuộc xung đột không cân xứng - và điều đó nói lên một sự thay đổi cơ bản trong cách quyền lực vận hành.
John Arquilla là một trong những nhà tư duy đáng kính nhất trong lĩnh vực chiến tranh hiện đại. Ông tin rằng thế giới đã bước vào “một kỷ nguyên chiến tranh không chính quy liên tục”. Ông viết: “Những vị chỉ huy vĩ đại của hình thức xung đột truyền thống không có gì nhiều để nói với chúng ta. Hay những nguyên tắc kinh điển của chiến tranh cũng chẳng thế giúp gì, đặc biệt trong ý niệm về quyền lực thuần túy của số đông, điều đã tồn tại cho tới tận ngày nay dưới hình thức học thuyết của Colin Powell về “lực lượng áp đảo” và những khái niệm như “sốc và sợ hãi”. Những ý tưởng như thế đã thay đổi vào thời Chiến tranh Việt Nam; ngày nay rõ ràng là nỗ lực nâng cấp chúng để chống lại mạng lưới khủng bố và nổi dậy cũng gặp vấn đề tương tự”. [4]
Khi phô diễn và sử dụng quyền lực, các lực lượng quân đội đại diện cho những phương tiện cuối cùng. Trong khi chính trị tìm kiếm sự thuyết phục, chiến tranh - hay đe dọa chiến tranh - nhắm tới sự ép buộc. Sức mạnh quân sự, được đo bằng quy mô của một quân đội, cùng với trang thiết bị và năng lực kỹ thuật của nó, là kẻ trình diễn đóng thế cho những ý tưởng phức tạp hơn về quyền lực. Các lực lượng vũ trang là thực tế thô bạo còn lại khi bạn lột bỏ sự tinh tế đúng đắn của ngoại giao, ảnh hưởng văn hóa và “quyền lực mềm”. Và khi bị nghi ngờ, theo suy nghĩ thông thường, sự cân bằng quyền lực nghiêng về phía với kho đạn đầy hơn. Như nhà báo Damon Runyon đã nhận xét (trong một bối cảnh khác), “Cuộc đua không phải lúc nào cũng thuộc về những kẻ nhanh, hay chiến trận thuộc về những kẻ mạnh, mà thuộc về những kẻ nào biết đặt cược một cách khôn ngoan”. [5] Hay như Joseph Stalin từng hỏi một câu nổi tiếng khi được khuyên nên giúp đỡ những người Công giáo ở Nga để lôi kéo sự ủng hộ của Giáo hoàng: “Giáo hoàng ư? Ông ta có bao nhiêu sư đoàn?” (Sau khi nghe câu hỏi của Stalin, Giáo hoàng Pius XII đã phản kháng một cách cương quyết, “Quý vị có thể nói với Joseph con ta rằng nó sẽ gặp các sư đoàn của ta trên thiên đường”.) [6]
Mặc dù Chiến tranh Thế giới Thứ hai đã ở sau chúng ta gần bảy thập kỷ và cuộc chạy đua vũ trang của Chiến tranh Lạnh đã là hai thập kỷ trước, những nhà lập kế hoạch quân sự vẫn đánh cược vào học thuyết về hỏa lực ưu việt. Họ tiếp tục giả định rằng một quân đội lớn và trang bị công nghệ hiện đại là tối quan trọng cho an ninh và để phô trương sức mạnh.
Thí dụ nhãn tiền là nước Mỹ. Năm 2012, ngân sách quốc phòng của nước này là hơn 700 tỉ đô-la Mỹ, [7] chiếm gần một nửa chi tiêu quân sự thế giới. Chi tiêu liên quan từ các cơ quan khác của Mỹ nâng tổng số này lên khoảng 1 nghìn tỉ đô-la Mỹ. Những đối thủ quân sự lớn nhất của Mỹ, Trung Quốc và Nga, chỉ chiếm tương ứng 8% và 5% chi tiêu quân sự thế giới - mặc dù chi tiêu của họ (nhất là của Trung Quốc) đang tăng nhanh chóng. Xét theo tương quan tới GDP, chỉ khoảng 25 nước, hầu hết là ở Trung Đông, chi tiêu nhiều hơn thế cho quân sự. Ngay cả với những cắt giảm trong chi tiêu quốc phòng mà Mỹ lên kế hoạch thực hiện trong thập kỷ tới, chi phí vẫn sẽ là rất lớn. Tới năm 2017, khi sự cắt giảm đã lên kế hoạch được thực thi đầy đủ hơn, ngân sách quốc phòng Mỹ vẫn sẽ gấp sáu lần so với những gì Trung Quốc đang chi hiện giờ và nhiều hơn so với 10 nước tiếp theo cộng lại. [8] Lấy ví dụ, theo ngân sách giảm bớt này, Mỹ vẫn sẽ triển khai 11 tàu sân bay và duy trì cả ba chân trong bộ ba hạt nhân của nước này (máy bay ném bom tầm xa, tên lửa liên lục địa và tàu ngầm mang tên lửa). [9]
Bất cứ khi nào nước Mỹ tham gia vào một cuộc chiến tranh chính quy trong hai thập kỷ qua, lực lượng của nước này đều chiến thắng. Nhưng những cuộc chiến chính quy này khá ít ỏi: chỉ Chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ nhất, năm 1991, và có thể là lần thứ hai, dù quân đội Iraq hầu như không kháng cự. Năm 2008, Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Robert Gates nhận xét rằng trong nhiều lần triển khai quân đội Mỹ hơn bốn thập kỷ qua, chỉ một lần - Chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ nhất - là “một cuộc xung đột chính quy ít nhiều mang tính truyền thống”. Những cuộc chiến khác, từ Grenada và Lebanon tới Somalia, Kosovo, Iraq và Afghanistan, liên quan đến việc ngăn chặn phiến quân nổi dậy, chống khủng bố, can thiệp chính trị hay nhân đạo hơn là một cuộc chiến tay đôi kéo dài của các bên quân đội được chỉ huy và kiểm soát. Khuynh hướng này áp dụng với cả thế giới nói chung. Trong những năm 1950, trung bình sáu cuộc xung đột quốc tế nổ ra mỗi năm, so với trung bình không tới một mỗi năm trong thập kỷ đầu của thiên niên kỷ này. [10] Và trong 60 năm qua, đã không có cuộc chiến nào giữa các cường quốc lớn. [11]
Điều đó không có nghĩa là chiến tranh không nổ ra. Mặc dù số các cuộc xung đột vũ trang cấp quốc gia trên toàn thế giới đã giảm 40% từ năm 1992 tới 2003 (số liệu này bao gồm không chỉ các cuộc chiến giữa những quốc gia, mà cả chiến tranh do các quốc gia tiến hành chống lại những nhóm không phải quốc gia), kể từ đó con số này lại tăng lên. [12] Và sau sự suy giảm từ năm 2003, những cuộc xung đột vũ trang không do nhà nước lãnh đạo - được Dự án Báo cáo An ninh Nhân đạo định nghĩa là “việc sử dụng lực lượng vũ trang giữa hai nhóm có tổ chức, mà không nhóm nào là chính quyền của một quốc gia” - đã tăng mạnh trong năm 2008.
Chiến tranh ngày nay đã tiếp nhận những hình thức mới, mà các cường quốc quân sự chính quy đang vật lộn để đối phó. Hãy xem xét nhanh những ví dụ trong thập kỷ qua:
✔ Juz Ghoray, Afghanistan, tháng 10 năm 2011: Một lính thủy đánh bộ Mỹ trong lúc tuần tra tìm thấy một thiết bị nổ tự tạo chôn gần đỉnh một ngọn đồi có tên gọi Ugly Hill. Trong khi tìm cách gỡ ngòi nổ, anh phát hiện một thiết bị khác, di chuyển và giẫm lên một thiết bị thứ ba, đã cắt cụt chân phải của anh - khiến anh trở thành một trong 240 quân nhân Mỹ mất một chi trong năm 2011. [13] Anh vẫn còn may mắn: 250 binh sĩ của liên quân đã mất mạng vì các thiết bị nổ tự tạo trong cùng năm.
✔ Mumbai, Ấn Độ, 26-29 tháng 11 năm 2008: Sau khi bắt cóc một tàu cá Ấn Độ, mười tay súng Pakistan tới bằng đường biển và tiến hành tấn công khủng bố khắp thành phố, giết chết 168 người và làm bị thương hơn 300 người trước khi bị tiêu diệt hay bắt giữ.
✔ Monterrey, Mexico, ngày 25 thảng 8 năm 2011: Các tay súng từ Los Zetas, băng ma túy bạo lực nhất Mexico, tấn công một sòng bạc, bắn nhân viên bảo vệ và phóng hỏa đốt nó. Hơn 50 người thiệt mạng trong cuộc tàn sát.
✔ Đông bắc Đảo Socotra, Yemen, ngày 7 tháng 2 năm 2012: Những cướp biển Somalia tấn công và chiếm một tàu chở hàng mang cờ Liberia, thuộc sở hữu của Hy Lạp, và lái nó trở lại bờ biển Somalia - đây là một trong 37 vụ tấn công và là chiếc tàu thứ 11 bị bắt làm con tin cùng với thủy thủ đoàn, kể từ đầu năm. [14]
✔ Washington, DC, tháng 5 năm 2010: Phòng Thương mại Mỹ phát hiện ra các tin tặc Trung Quốc đã tiếp cận mạng máy tính của họ trong suốt năm trước và ăn cắp thông tin thành viên cùng một số thông tin đăng nhập thư điện tử của nhân viên Phòng Thương mại, thậm chí còn kiểm soát máy điều nhiệt của tòa nhà trụ sở. [15] Đây chỉ là một trong hàng trăm vụ tấn công tương tự vào các mục tiêu chính phủ, quân đội và doanh nghiệp Mỹ do tin tặc từ Trung Quốc và những nơi khác thực hiện, rất nhiều trong số đó có liên hệ với chính phủ.
Như những ví dụ này minh họa, thách thức với các cường quốc quân sự truyền thống như Mỹ không chỉ là một nhóm những kẻ thù mới, mà còn là sự chuyển đổi của chính bản thân chiến tranh, được thúc đẩy một phần không nhỏ bởi mặt tối của những cuộc cách mạng Nhiều Hơn, Di Động và Tinh Thần. Các IED đã trở thành vũ khí được lựa chọn ở Afghanistan, Iraq, Syria và hàng loạt khu vực xung đột khác, dựa vào không chỉ plutonium hay các hợp kim phức tạp, mà hơn thế, vào những nguyên liệu tại gia, nông nghiệp và hàng hóa tiêu dùng được biến đổi và tập hợp thành những quả bom, được thiết kế bởi những kẻ hưởng lợi ích từ việc phát tán sự giáo dục - cả hai đều là thành quả của cuộc cách mạng Nhiều Hơn. Giống như cướp biển sử dụng tàu nhẹ bằng sợi thủy tinh, súng AK-47 rẻ tiền và súng phóng tên lửa để bắt cóc những con tàu lớn trị giá nhiều triệu đô-la, những kẻ khủng bố đã tấn công Mumbai dựa vào sự sẵn có của những công nghệ vũ khí và thông tin liên lạc - những sản phẩm phụ của các cuộc cách mạng Nhiều Hơn và Di động, bao gồm GPS giúp chúng tìm đường qua những vùng biển của Ấn Độ cũng như điện thoại vệ tinh, điện thoại di động và điện thoại BlackBerry chúng sử dụng trong suốt những cuộc tấn công để phối hợp với nhau, theo dõi cảnh sát và chuyển đi thông điệp về hành động tàn ác của chúng ra thế giới bên ngoài. Nhờ vào sự dễ dàng trong đi lại và liên lạc, ngay cả một tên khủng bố đơn độc cũng có thể tiến hành kiểu tấn công gây ảnh hưởng lớn này nhằm vào một mục tiêu ở cách xa mà một thời từng đòi hỏi các máy bay phản lực ném bom hay tên lửa hãy nghĩ tới “kẻ đánh bom giày” Richard Reid và “kẻ đánh bom quần lót” Umar Abdulmutallab, cả hai đều suýt thành công trong việc tấn công những chiếc máy bay. Bằng cách làm tăng các khát vọng và kỳ vọng thường không được thỏa mãn một cách tàn nhẫn hay dễ dàng bị bóp méo, cuộc cách mạng Tinh Thần giúp chiêu mộ những kẻ cuồng tín oán hận, những tên tội phạm và những người muốn làm cách mạng. Và quan trọng không kém là bài học rằng một kẻ tấn công đơn lẻ hay một nhóm nhỏ những tay súng quyết tâm có thể gây ra tổn hại nghiêm trọng cho một cường quốc lớn - đã đi vào tâm trí hàng triệu người và sẽ không thể bị lờ đi.
Năng lực mới này không yêu cầu hệ thống thứ bậc và sự phối hợp vốn là niềm tự hào của các quân đội lớn trên thế giới. Khi những rào cản với sự tham gia xung đột đã bị gỡ bỏ, lợi thế từng một thời tạo sức mạnh cho các quân đội lớn và đảm bảo khả năng ngăn chặn các cuộc tấn công của họ đã mất đi phần nào công dụng. Sau màn trình diễn ban đầu của “sốc và sợ hãi”, cuộc chiến ở Afghanistan và Iraq bộc lộ chúng không phải là kiểu xung đột được tiến hành với những hàng rào pháo binh, những cuộc tấn công bằng xe tăng, những cuộc hỗn chiến của các máy bay siêu thanh, không hề là thứ logic lạnh lùng và sự leo thang có tính toán của học thuyết hạt nhân. Trong khi đó, các lực lượng NATO cũng phải học cách làm sao để chiến đấu trong một môi trường truyền thông khác - một môi trường mà những kẻ thù của họ có thể lan truyền thông điệp dễ dàng hơn nhiều thông qua mạng xã hội, trong khi đó các phóng viên, người viết blog và nhà hoạt động thống kê lại mọi thương vong cùng thiệt hại không mong muốn của phe đồng minh để trình chiếu cho công chúng đang theo dõi sự kiện mọi nơi và không ngừng nghỉ.
Sự chuyển đổi của xung đột đã thúc đẩy tư duy lại một cách quyết liệt ở các Bộ quốc phòng và trường Đại học Quân sự, đưa tới những nỗ lực thích nghi về tổ chức và học thuyết. Cả Đánh giá Quốc phòng Bốn năm một lần năm 2010, tài liệu hướng dẫn chủ chốt về cách tiếp cận và lập ngân sách quân sự Mỹ, và Hướng dẫn Chiến lược Quốc phòng công bố tháng 1 năm 2012 đều nhấn mạnh tầm quan trọng gia tăng của những cuộc xung đột nhỏ và không cân xứng với nhiều địch thủ cực kỳ đa dạng, [16] tài liệu thứ hai đặt việc “Chống chủ nghĩa khủng bố và Chiến tranh Không chính quy” trên đầu danh sách những sứ mệnh chính của lực lượng vũ trang Mỹ.
Những nhà lập kế hoạch quân sự Mỹ cũng lo lắng rằng nhiều vũ khí định vị hiện đại, có thể bắn rơi các máy bay, đánh đắm những chiếc tàu hay nhắm vào một chiếc xe hơi đơn lẻ đang di chuyển trên đường cao tốc, đang ngày càng trở nên sẵn có không chỉ cho những đối thủ như Trung Quốc và kình địch như Bắc Triều Tiên, mà cả các nhân tố phi nhà nước. Thomas Mahnken, cựu trợ lý Bộ trưởng quốc phòng về hoạch định chính sách và giáo sư ở Đại học Quân sự Hải quân, đã cảnh báo rằng “những kình địch đang trang bị được những vũ khí dẫn đường chuẩn xác, cũng như năng lực hỗ trợ trọng yếu cần thiết để tiến hành chiến tranh định vị với sự đầu tư tối thiểu”. [17] Công nghệ “drone”, hay máy bay không người lái, đã cách mạng hóa việc do thám và việc tiến hành chiến lược chống lại những kẻ nổi dậy và khủng bố của Mỹ, đang được áp dụng và phổ biến rộng rãi, làm tăng khả năng tạo ra hỗn loạn mà không tốn kém cho bất cứ ai sẵn lòng đầu tư tương đối nhỏ - chỉ vài nghìn đô-la.
SỰ VƯƠN LÊN LỚN CỦA NHỮNG LỰC LƯỢNG NHỎ“Một quân vương muốn tiến hành chiến tranh, và tin rằng Chúa ở về phía những tiểu đoàn lớn, ông tăng gấp đôi lực lượng của mình”, Voltaire viết hồi thế kỷ XVIII. Nhưng liên tục trong suốt lịch sử là những ví dụ về các lực lượng vũ trang nhỏ thành công trong việc quấy rối, ngăn cản, và đôi khi, đánh bại những cỗ máy quân sự lớn.
Trận chiến Thermopylae năm 480 trước Công nguyên là một ví dụ lâu đời. Tận dụng địa hình cao và gồ ghề, một lực lượng Hy Lạp ít hơn hẳn về quân số đã kiềm chân quân đội Ba Tư trong ba ngày, gây ra những tổn thất không cân xứng cho kẻ thù của họ trước khi bị tiêu diệt từ từ trong cuộc kháng cự anh hùng cuối cùng. Những người Hy Lạp đã thua trận Thermopylae, nhưng họ đã làm yếu đi lực lượng Ba Tư và rốt cuộc cũng đẩy lùi cuộc xâm lược. Từ David trong Kinh Thánh tới Chiến tranh Việt Nam, lịch sử đầy những đối thủ nhỏ hơn, được trang bị yếu hơn giữ vững trận địa và gây trở ngại, nếu không muốn nói là đánh bại về mặt quân sự, những đối thủ lớn hơn.
Trong số những người tiên phong hiện đại của phương thức chiến tranh này có Che Guevara và Hồ Chí Minh, cũng như Mao Trạch Đông, người mà chiến thuật chiến tranh du kích trong cuộc nội chiến Trung Quốc đã giúp phe Cộng sản chiến thắng. Phân biệt chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, Mao Trạch Đông thấy rằng hai cuộc chiến có những đòi hỏi trái ngược nhau về quy mô và sự phối hợp. “Trong chiến tranh du kích”, Mao Trạch Đông viết, “những đơn vị nhỏ hoạt động độc lập đóng vai trò chủ chốt và không ai được can thiệp thái quá vào hoạt động của họ”. Trong chiến tranh truyền thống, ngược lại, “mệnh lệnh được tập trung hóa... Mọi đơn vị và mọi lực lượng hỗ trợ ở tất cả các lĩnh vực phải phối hợp ở mức độ cao nhất”. Trong chiến tranh du kích, kiểu chỉ huy và kiểm soát đó “không chỉ không cần thiết, mà còn là không thể” [18]
Trong ngôn ngữ quân sự hiện giờ, chiến tranh du kích là “không chính quy” và “không cân xứng”. Chúng không chính quy vì được khởi phát bởi một địch thủ mà, khi được vũ trang, không phải là lực lượng quân sự chính quy. Và chúng không cân xứng vì những đối thủ của chúng bất tương xứng về sức mạnh quân sự thô sơ đo bằng nhân lực và vật lực. Ngày nay, xung đột không chính quy và không cân xứng đang ngày càng trở thành quy chuẩn. Ở Afghanistan chẳng hạn, hơn 430.000 quân liên minh và quân đội Afghanistan đã không thể khuất phục được một lực lượng Taliban chỉ bằng 1/12. Ở Iraq, trong thời kỳ đỉnh điểm của cuộc nổi dậy vào tháng 10 năm 2007, hơn 180.000 binh sĩ liên quân và gần 100.000 binh sĩ an ninh Iraq chiến đấu với chỉ 20.000 tay súng nổi dậy.
Nga trải qua điều tương tự ở Chechnya: trong giai đoạn 1999-2000, ở Chiến tranh Chechnya lần thứ hai, hơn 80.000 quân Nga được trang bị hiện đại sa lầy mất năm tháng trước khoảng 22.000 tay súng ly khai. Dần dần quân đội Nga chiến thắng và khôi phục sự kiểm soát của chính quyền liên bang với vùng lãnh thổ này, nhưng chỉ khi đã tiến hành một chiến dịch dữ dội dẫn tới thương vong cho hàng chục nghìn thường dân và cái chết của hơn 5.000 binh sĩ Nga. [19]
Khắp châu Phi và Đông Nam Á, có thể thấy hàng chục những phiến quân nổi dậy mới và được vận hành từ lâu - từ Quân Kháng chiến của Chúa Trời ở Uganda tới Mặt trận Giải phóng Hồi giáo Moro ở Philippines. Và những xung đột quân sự không gắn với việc bảo vệ một vùng lãnh thổ cụ thể, mà thay vào đó hướng tới những mục tiêu ý thức hệ, hình sự, tôn giáo hay kinh tế tiềm tàng không có biên giới, đang tăng lên rõ ràng. Trong số các cuộc xung đột quân sự đã nổ ra vào những năm 1950, chỉ có một cuộc xung đột nhỏ giữa các nhà nước và các nhóm vũ trang phi nhà nước. Ngược lại, trong các cuộc xung đột những năm 1990, các nhóm vũ trang như thế chiếm đa số. Năm 2011, Thứ trưởng Quốc phòng khi đó, William Lynn, đã giải thích rằng xung đột đang tiến hóa từ “những giai đoạn ngắn nhưng căng thẳng” thành “những cuộc chiến đấu lâu dài và tốn sức lực hơn”. [20]
Ngày một nhiều những lực lượng nhỏ hơn đang tỏ ra thành công, ít ra là trên khía cạnh thúc đẩy mục tiêu chính trị, trong khi vân sống sót về mặt quân sự. Học giả Harvard, Ivan Arreguin-Toft đã phân tích 197 cuộc chiến tranh không cân xứng diễn ra trên toàn thế giới giai đoạn 1800-1998. Chúng không cân xứng khi tồn tại một khoảng cách rộng lớn giữa những phe tham chiến, đo đạc theo các khía cạnh truyền thống - tức là bởi quy mô quân đội và quy mô dân số. Arregum-Toft thấy rằng các nhân tố được cho là “yếu” giành chiến thắng trong gần 30% các vụ xung đột. Con số đó tự bản thân đã gây ấn tượng, nhưng còn kinh ngạc hơn, nó là khuynh hướng theo thời gian. Trong hai thế kỷ qua, đã có sự gia tăng liên tục trong chiến thắng cho những phe tham chiến được coi là “yếu”. Những phe yếu chỉ giành chiến thắng 11,8% trong các cuộc xung đột từ năm 1800 tới 1849, so với 55% trong các cuộc xung đột từ năm 1950 tới 1998. Điều đó có nghĩa là một chân lý hiển nhiên của chiến tranh đã thay đổi. Ngày xưa, hỏa lực mạnh hơn rốt cuộc sẽ chiến thắng. Giờ điều đó không còn đúng nữa. [21]
Lý do một phần là bởi thực tế rằng, trong thế giới ngày nay, biện pháp bạo lực dã man bởi bên mạnh hơn - ví dụ như việc ném bom và nã pháo không phân biệt thường dân trong Chiến tranh Thế giới Thứ hai, việc sử dụng phương pháp tra tấn của Pháp ở Algeria, hay những vụ ám sát có mục tiêu nhắm vào Việt Cộng trong chương trình Phượng Hoàng ở miền Nam Việt Nam - không còn được chấp nhận về mặt chính trị nữa. Như Arreguín-Toft tranh luận, một số hình thức bạo lực dã man - lấy ví dụ là chương trình Phượng Hoàng - có thể hiệu quả về mặt quân sự ngắn hạn trước những cuộc tấn công không trực diện của chiến thuật chiến tranh du kích. Nhưng thiếu sự hiện diện của mối đe dọa mang tính sinh tồn thực sự đối với một nhà nước mạnh hơn - nhất là một nền dân chủ mà chính sách quân sự có thể bị dư luận soi mới rất kỹ, một chiến thuật như thế không còn khả thi về mặt chính trị. Như tướng về hưu Wesley Clark, một cựu binh trong Chiến tranh Việt Nam và là Tư lệnh Tối cao Lực lượng Đồng minh Châu Âu của NATO, đã nói với tôi: “Ngày nay, một chỉ huy sư đoàn có thể kiểm soát trực tiếp các máy bay trực thăng tấn công 30 tới 40 dặm (48 tới 64 km) phía trước trận chiến, và tận hưởng điều chúng tôi gọi là ‘sự áp đảo toàn diện’ [kiểm soát trên không, trên bộ, trên biển, trong không gian và trên mạng]. Nhưng có những thứ chúng tôi từng làm ở Việt Nam mà chúng tôi không thể làm ngày nay. Chúng tôi có nhiều công nghệ hơn, nhưng các lựa chọn họp pháp hẹp hơn”. “Thành công” của chiến thuật độc đoán bạo lực của Nga ở Chechnya hay sự đàn áp dã man của Sri Lanka với lực lượng Hổ Tamil là ví dụ đẫm máu về việc ngày nay cần tới những gì để một hỏa lực ưu thế hơn chiến thắng một đối thủ cứng đầu, yếu hơn về quân sự.
Tầm quan trọng của các nhân tố chính trị, trong việc định đoạt kết quả các cuộc xung đột không cân xứng, giúp giải thích sự vươn lên liên tục của nhân tố nhỏ tối hậu - những kẻ khủng bố. Chúng ta đã đi một chặng đường dài kể từ khi chủ nghĩa khủng bố bắt nguồn trong nhà nước dưới chế độ “Triều đại Khủng bố” thời cách mạng Pháp từ tháng 9 năm 1793 tới tháng 7 năm 1794 Dù Bộ Ngoại giao Mỹ đã định danh khoảng 50 nhóm Tổ chức Khủng bố Nước ngoài, số các nhóm đang hoạt động có thể nhiều gấp đôi số đó, một vài nhóm với chỉ vài chục thành viên, những nhóm khác lên đến cả ngàn. Hơn thế, khả năng làm thay đổi tiến trình lịch sử chỉ với một hành động bạo lực của những cá nhân đơn độc hay nhóm nhỏ là rõ ràng, ngay cả trước vụ Gavrilo Princip, người Séc gốc Bosnia theo chủ nghĩa dân tộc, ám sát Thái tử Áo Ferdinand ở Sarajevo dẫn tới Chiến tranh Thế giới Thứ nhất.
Điểm nổi bật của chủ nghĩa khủng bố hiện đại - điển hình là vụ 11 tháng 9, các hành động khác của Al Qaeda ở London, Madrid và Bali, những cuộc tấn công của người Chechnya ở Moscow và cuộc tấn công của Lashkar-e-Taiba ở Mumbai - là sự nâng tầm chủ nghĩa khủng bố từ một vấn đề an ninh quốc nội (tức là, mỗi nước tự xử lý theo cách của riêng mình) thành một mối quan ngại chính trị toàn cầu. Những cuộc tấn công khủng bố của Osama bin Laden cùng tổ chức của ông ta thúc đẩy các chính phủ từ hơn 50 nước chi hơn một nghìn tỉ đô-la để bảo vệ người dân của họ khỏi cuộc tấn công tiềm tàng. Một tài liệu chiến lược quốc phòng quan trọng của Pháp năm 1994 bao gồm 20 lần đề cập tới khủng bố. Năm 2008, phiên bản cập nhật của nó nhắc tới vấn đề đó 107 lần, nhiều hơn so với ngay cả chiến tranh – “tới mức mà”, học giả Marc Hecker và Thomas Rid viết, “hình thức xung đột này có vẻ như đã vượt qua chiến tranh về tầm quan trọng”. [22]
KẾT THÚC CỦA SỰ ĐỘC QUYỀN TỐI THƯỢNG: VIỆC SỬ DỤNG BẠO LỰCNhững nhân tố nhỏ và phi nhà nước càng lớn mạnh trong tương quan và hiệu quả trong chiến tranh hiện đại, thì họ càng làm xói mòn một trong những nguyên lý cơ bản đã hướng dẫn nền chính trị và phân bổ quyền lực trong vài thế kỷ qua. “Nhà nước”, Max Weber viết, “là một liên hiệp tuyên bố độc quyền với việc sử dụng bạo lực hợp pháp”. Nói cách khác, một phần định nghĩa và bản chất của nhà nước hiện đại là khả năng tập trung sức mạnh quân sự của nó. Tập hợp một quân đội và lực lượng cảnh sát là đặc quyền tối hậu của nhà nước, và ngăn chặn những phe phái khác sử dụng bạo lực trong lãnh thổ của nó từng là một trong những trách nhiệm, một yếu tố trong khế ước xã hội dựa trên tính chính danh của nó. Độc quyền về bạo lực mới đồng nghĩa với sự kết thúc của những băng nhóm lang thang và lính đánh thuê thời trung cổ, của chế độ các lãnh chúa và hầu quốc phong kiến kiểu búp bê Nga, mỗi người có quân đội riêng, tuần phòng cho lãnh địa riêng của mình. Sự kiểm soát quân đội gắn kết chặt chẽ với chủ quyền quốc gia.
Ngày nay, sự độc quyền đó bị phân rã ở nhiều mức độ. Các chính phủ từ Mexico và Venezuela tới Pakistan và Philippines đã mất sự kiểm soát những vùng lãnh thổ quốc gia - đang được các nhóm vũ trang sử dụng như là căn cứ cho các hoạt động quân sự thường là ủng hộ những tham vọng hay kế hoạch xuyên biên giới. Ngay cả nền tảng của chiến tranh du kích cũng đã thay đổi. Trong quá khứ, những phong trào du kích thường tìm cách lật đổ một kẻ xâm lược hay mẫu quốc thuộc địa, giành hay khôi phục chủ quyền. Ở nơi họ hoạt động, theo các chuyên gia về chiến tranh du kích, sự ủng hộ của quần chúng là chìa khóa cho tính chính danh của họ. “Chiến tranh du kích cần sự giúp đỡ trọn vẹn từ người dân trong khu vực đó. Đó là một điều kiện tiên quyết”, Che Guevara từng viết. Hiện giờ chiến tranh du kích đang ngày càng trở nên phi biên giới: nó không còn dựa cả vào sự ủng hộ của quần chúng - vì lý do đơn giản là nó không còn gắn chặt với các lãnh thổ địa lý nữa. Chiến đấu với Taliban ở Afghanistan có thể đòi hỏi phải giành được trái tim và tâm trí của người dân Afghanistan, nhưng chiến đấu với Al Qaeda và những kẻ bắt chước lấy cảm hứng từ tổ chức này khi chúng tấn công New York, London hay Madrid có thể đòi hỏi nhiều sự khéo léo của các nhân viên tình báo hơn là những chuyên gia về phát triển kinh tế. Trong khi đó, đối mặt với áp lực ngân sách ngày càng tăng, những quốc gia tìm cách giảm bớt gánh nặng của một quân đội thường trực quá lớn và “thuê ngoài” ngày càng nhiều những công việc từng được coi là trách nhiệm chủ quyền của quốc gia đó.
Sự đồng quy giữa nhà nước hiện đại và quân đội hiện đại không chỉ là một vấn đề ý thức hệ hay triết học chính trị. Nó cũng có tính thực tiễn sâu sắc. Nó phản ánh chi phí và công nghệ chiến tranh. Trong vài thế kỷ, các phương tiện bạo lực tăng quy mô, từ việc hỏa lực gia tăng thông qua trọng pháo, xe tăng, máy bay phản lực chiến đấu và máy tính siêu tốc - tất cả đều làm tăng chi phí và các đòi hỏi hậu cần cho sự hiệu quả quân sự.
Những nhà lý thuyết quân sự đề cập về bốn thế hệ chiến tranh kể từ khi nhà nước hiện đại hình thành. Mỗi thế hệ tương ứng với một giai đoạn trong lịch sử thế giới và cũng phản ánh những tiến bộ công nghệ cùng các sáng tạo chiến thuật đương thời. Lấy ví dụ, cho tới khi súng máy nổi lên, các quân đội tập trung hỏa lực bằng cách tập hợp những tiểu đoàn lính cực lớn xếp thành hàng và cột có khuynh hướng chiến đấu kiểm soát những khu vực nhỏ. Những trận đánh vì thế dẫn tới các cánh đồng tràn ngập xác chết từ những trận xáp lá cà. Kiểu chiến tranh tàn bạo này diễn ra từ thời Chiến tranh Napoleon tới Nội chiến Mỹ, đạt đỉnh cao trong những chiến hào của Chiến tranh Thế giới Thứ nhất. Kiểu chiến trận này tưởng thưởng cho những đội quân lớn nhất và được tổ chức tốt nhất, nhấn mạnh vào quy mô (tức là nhân lực có thể hy sinh) cũng như sự hợp tác. Trong nửa đầu của thế kỷ XX, nó nhường chỗ cho trọng pháo, xe tăng và máy bay, cùng một mô hình chiến tranh, trong đó những vũ khí này dẹp đường cho bộ binh theo sau để chiếm địa thế. Cách làm này hiệu quả hơn - và cũng đắt đỏ hơn. Chi phí cho hình thức vũ trang mới này càng khiến việc tăng quy mô các quân đội trở nên cần thiết. Xem xét bối cảnh đầu thế kỷ XX, Max Weber nhận xét rằng không có lý do cố hữu nào mà các doanh nghiệp tư nhân, tư bản không thể tiến hành chiến tranh, nhưng một cấu trúc mạnh, tập trung là không thể tránh khỏi. Những đòi hỏi về quy mô, kỹ năng và công nghệ khiến quân đội trở thành biểu tượng cho sự tổ chức thứ bậc tập trung hóa hiện đại. Một quân đội thiếu sự tập trung hóa, theo Weber, hẳn sẽ thất bại.
Sự đồng thuận bắt đầu đổ vỡ trong Chiến tranh Thế giới Thứ hai, sau những đòn choáng váng của Chiến tranh Chớp nhoáng từ Đức và thất bại ở những hệ thống phòng thủ quá tĩnh như Phòng tuyến Maginot của Pháp. Việc sử dụng những đợt tấn công bất ngờ vào sườn địch và không quân đòi hỏi hành động nhanh và khéo léo hơn, kiểu hành động mà các sĩ quan trên mặt trận sẽ phải triển khai mà không có thời gian chờ đợi chỉ thị từ chỉ huy cấp cao. Sự tập trung hóa quá nhiều có thể là một bất lợi. Cuối thế kỷ XX, những cuộc xung đột mới đem tới thế hệ chiến tranh thứ ba một cách quyết liệt hơn bao giờ hết. Sự nhanh nhẹn và cơ động trở nên ngày càng giá trị. Thiết bị tinh vi như tên lửa đất đối không ngày càng nhỏ gọn, cho phép tư lệnh địa phương đưa ra quyết định một cách hợp lý hơn. Dẫu vậy, sự phân cực của Chiến tranh Lạnh, cuộc chạy đua vũ trang mà nó tạo ra, và mối đe dọa lơ lửng về cuộc xung đột liên quốc gia kinh điển đồng nghĩa với việc các quân đội chính trên thế giới tiếp tục nhấn mạnh vào quy mô hơn những ưu tiên khác - như nhà lý thuyết quân sự John Arquilla trình bày, “dựa vào một vài đơn vị lớn tốt hơn là vào nhiều đơn vị nhỏ”. Trong trường hợp quân đội Mỹ, Arquilla ghi nhận, cấu trúc của nó đã thay đổi một chút từ thời Chiến tranh Việt Nam cho tới ngày nay. Quân đội Mỹ, ông nói thêm, gặp phải vấn đề quy mô kinh niên, có nghĩa là sự bất lực trong việc theo đuổi những mục tiêu nhỏ hơn với lực lượng quân số ít hơn. Thêm vào đó là tư duy quân sự truyền thống, thứ bậc, cho rằng nhiều hơn luôn là tốt hơn - lòng tin hệ luận rằng chỉ quân đội chỉ có thể làm tệ hơn với ít hơn”. [23]
Rất nhiều tay súng ngày nay sẽ chứng tỏ họ có thể làm khác. Một tay súng nổi dậy Taliban lắp đặt IED, một phiến quân FARC (Lực lượng Vũ trang Cách mạng Colombia), một chỉ huy Hamas (Phong trào Kháng chiến Hồi giáo), một người jihad (thánh chiến Hồi giáo) viết blog ngồi trước máy tính đều đang làm “tốt hơn với ít hơn”. Họ không phải là những binh sĩ đi nghĩa vụ hay sĩ quan tốt nghiệp các học viện quốc phòng truyền thống, nhưng họ gắn bó mật thiết với các vấn đề quân sự ngày nay. Và không chỉ những “kẻ xấu” - những tên khủng bố, phiến loạn, cướp biển và tội phạm - đang tăng lên về số lượng và chất lượng. Bên cạnh quân đội quốc gia của những nền dân chủ phương Tây, một nhóm ngày càng đa dạng các công ty quân sự tư nhân tiến hành các công việc liên quan tới quân sự và an ninh, vốn từng chỉ dành cho quân đội và cảnh sát.
Điều này cũng không hẳn hoàn toàn mới. Trong thời trung cổ và Phục hưng, việc tiến hành chiến tranh và giữ gìn an ninh thường diễn ra qua việc thuê mướn. Nhưng thị trường quân sự tư nhân ngày nay, được ước tính có giá trị 100 tỉ đô-la Mỹ mỗi năm, gần như không tồn tại một thế hệ trước. Và nó đã tăng trưởng vượt ra lĩnh vực tiếp vận và hậu cần - những chức năng quan trọng của bất cứ chiến dịch quân sự nào, chỉ sau các tiền tuyến. Những công ty quân sự tư nhân đảm nhận một số trong những nhiệm vụ nhạy cảm nhất, bao gồm thẩm vấn tù nhân. Năm 2011, ít nhất 430 nhân viên của các nhà thầu quân đội Mỹ được cho là đã thiệt mạng ở Afghanistan - còn nhiều hơn số thương vong của quân đội. Nếu L-3 Communications, một trong các nhà thầu quân đội, là một quốc gia, nó sẽ có số thương vong về người cao thứ ba ở Iraq và Afghanistan, sau Mỹ và Anh. [24] “Chưa bao giờ trong hai thế kỷ qua”, học giả Peter Singer, một chuyên gia trong đề tài này, viết, “có sự phụ thuộc như thế vào binh lính tư nhân để tiến hành những nhiệm vụ ảnh hưởng trực tiếp tới thành công về mặt chiến thuật và chiến lược của cuộc tham chiến”. [25] Thường khởi đầu là những công ty nhỏ ở khu văn phòng vô danh tại vùng ven London hay ngoại ô Virginia, các công ty như Blackwater (giờ đổi tên là Academi), MPRI, Executive Outcomes, Custer Battles, Titan và Aegis đóng vai trò then chốt trong các chiến dịch quân sự khác nhau. Một số được mua lại bởi các công ty lớn hơn, một số rời khỏi ngành và một số vẫn hoạt động độc lập. Trong số những cơ hội gần đây, các công ty quân sự tư nhân đã tìm thấy một thị trường cho dịch vụ của họ - bảo vệ các tàu thương mại khỏi cướp biển Somalia. Lính đánh thuê, với tất cả những mối liên hệ xa xưa của từ này, đã trở thành một ngành kinh doanh bùng nổ và đa dạng.
Những nhà tư duy quân sự Mỹ nghĩ ra khái niệm Chiến tranh thế hệ thứ tư (4W) để mô tả cuộc xung đột có đặc điểm là lằn ranh mờ nhạt giữa chiến tranh và chính trị, binh lính và thường dân. [26] Đây là một cuộc xung đột mà một nhân tố phi nhà nước bạo lực (VNSA) chiến đấu chống lại một nhà nước, ở đó việc tác chiến quân sự không chỉ bó hẹp trong chiến đấu vũ trang mà mở rộng trên lĩnh vực truyền thông và ý kiến dư luận, mỗi bên tìm cách hạ bệ nền móng và tính chính danh của bên kia cũng quyết liệt không kém việc đánh bại nhau trên mặt trận. Chủ nghĩa khủng bố, chiến tranh mạng và sự tuyên truyền đang được sử dụng ngày càng phổ biến trong Chiến tranh thế hệ thứ tư. [27] Ý tưởng về Chiến tranh thế hệ thứ tư ban đầu được chính thức hóa ngay từ năm 1989, khi Chiến tranh Lạnh sắp kết thúc. Xem xét vấn đề đó, sự thành công ngày càng tăng từ những địch thủ thế hệ thứ tư của Mỹ, ít giàu có và được trang bị kém hơn nhiều so với các lực lượng vũ trang Mỹ, lại càng ấn tượng.
MỘT CƠN SÓNG THẦN VŨ KHÍTrong hàng thập kỷ, những công cụ chiến tranh ngày càng trở nên phức tạp, đắt đỏ, và kết quả là, khó có được. Nhưng dù Mỹ và các nước khác vẫn có phần chia trong những kỳ quan dát vàng, máy bay quân sự phù hợp nhất với chiến tranh ngày nay không phải là một chiếc phản lực chiến đấu mà là một thứ rẻ tiền và cơ động hơn nhiều: các thiết bị không người lái trên không, hay máy bay không người lái.
Thiết bị bay không người lái ngày nay đa dạng về chủng loại, được dùng làm mồi nhử, thực hiện các nhiệm vụ thám báo hay phóng tên lửa tấn công, phục vụ cho ngày càng nhiều quốc gia. Chi phí của chúng trải rộng, từ mức thấp chỉ vài ngàn đô-la cho một thiết bị bay đơn giản, tầm ngắn, không dùng trong chiến đấu, tới khoảng 15 triệu đô la Mỹ cho một chiếc máy bay không người lái tìm và diệt Reaper. Thiết bị bay không người lái không phải là một khái niệm mới, nhưng tiến bộ công nghệ trong những thập kỷ trở lại đây đã khiến chúng trở nên mạnh mẽ hơn nhiều, và chi phí thấp cùng khả năng bay không người lái khiến chúng hấp dẫn hơn trong nhiệm vụ chiến đấu. [28] Và chúng có cả những cách sử dụng phi quân sự nữa - lấy ví dụ, các hãng bất động sản chụp ảnh những căn nhà từ trên cao, các nhà sinh thái học theo dõi rừng nhiệt đới, những chủ nông trại theo dấu đàn gia súc khi chúng lang thang trên các đồng cỏ lớn. Hơn 30 quốc gia giờ có những phi đội máy bay không người lái. Hàng chục công ty tư nhân đang chào mời để sử dụng chúng đại diện cho các quốc gia thiếu hạ tầng hỗ trợ để tự làm điều đó. [29] Đáng lo ngại hơn, còn có đầy rẫy những chủ sở hữu tư nhân và các tay ham thích thiết bị bay không người lái thông thường: ở Mỹ trong năm 2012, một nhóm tên là DIY Drones (Máy bay không người lái tự chế) có đến 20.000 thành viên. Năm 2004, Hezbollah điều khiển một thiết bị máy bay không người lái bay vào không phận Israel, quân đội Israel đã bắn hạ nó, nhưng tác động tâm lý của sự xâm phạm này và thông điệp nó gửi đi về năng lực của Hezbollah vẫn còn đó. [30] Điều gì xảy ra nếu một cá nhân bất mãn, hoang tưởng hay bị gạt ra lề xã hội có khả năng gây ra tổn hại từ trên bầu trời? Như Francis Fukuyama của Đại học Stanford, người đã tự làm thiết bị bay không người lái của mình để chụp các bức ảnh thiên nhiên đẹp hơn, nhận xét: “Vì công nghệ trở nên rẻ và sẵn có hơn về mặt thương mại, hơn thế nữa, những thiết bị bay không người lái có thể khó theo dõi hơn; nếu không biết nguồn gốc của chúng, sự răn đe* không còn hiệu quả. Một thế giới mà trong đó mọi người có thể thường xuyên bị lọt vào tầm ngắm nặc danh của những kẻ thù giấu mặt là một dự đoán cực kỳ khó chịu”. [31]
Chiến lược răn đe: Chiến lược được sử dụng từ thời Chiến tranh Lạnh, loại bỏ các mối nguy hiểm bằng cách đe dọa sử dụng bạo lực (thậm chí cả vũ khí hạt nhân) với đối phương.
Máy bay không người lái cực kỳ tinh vi khi so sánh với thứ vũ khí gây tàn phá lớn nhất trong những cuộc xung đột quân sự vài năm qua - thiết bị nổ tự tạo. IED có nhiều loại với nhiều sự kết hợp từ những hệ thống chất nổ và ngòi nổ. Chúng không theo một tiêu chuẩn cụ thể nào và thường có thể được lắp ghép với những nguyên liệu sẵn có: các chất dùng trong nông nghiệp hay các hóa chất từ một nhà máy, hiệu thuốc hoặc bệnh viện. Chúng có thể đối lập hoàn toàn với sự tinh vi và những đòi hỏi kỹ thuật của những thiết bị trong các kho đạn dược của quân đội lớn, nhưng IED đặc biệt phù hợp với các cuộc chiến phi tập trung hóa ngày nay. Chúng không đòi hỏi chuỗi cung ứng phức tạp và việc triển khai tiêu tốn thời gian. Những chỉ dẫn chế tạo các thiết bị này có thể khá đơn giản và được phát tán trên Internet. Sự phát tán của những loại thuốc nổ và đạn pháo từ những nơi như Iraq, các nước thuộc Liên Xô cũ và Libya tiếp tục làm giảm chi phí và sự phức tạp của việc chế tạo. Chúng nhỏ bé, dễ ngụy trang và không đòi hỏi tay súng phải lộ mình. Xung lực thô của chúng, sát hại hay làm thương tật kẻ thù, thật mạnh mẽ và đáng sợ. Thật vậy, sự đối lập tuyệt đối - giữa chất lượng làm tại nhà của những vũ khí này và ưu thế công nghệ của các lực lượng chính quy mà chúng tấn công - có thể là một kịch bản David chống tên khổng lồ Goliath rất phù hợp, ghi điểm trong việc quảng bá hình ảnh cho những kẻ nổi dậy.
Số tiền mà những tên khổng lồ Goliath ném vào vấn đề này trong khi số thương vong nhiều hơn càng làm gia tăng tác động đó. Mỹ đã chi hơn 20 tỉ đô-la Mỹ từ năm 2003 để chống lại IED. Một nhóm đa dạng các tổ chức và cơ quan trong hệ thống quốc phòng Mỹ được trao nhiệm vụ đối phó với thách thức này, dẫn tới những vấn đề quan liêu kinh điển như sự hợp tác không ăn ý, sự kình địch, sự kết nối kém và tất nhiên, sự lãng phí. Ngay cả tên viết tắt cho cơ quan dẫn đầu chương trình, Tổ chức Đánh bại IED (JIEDDO), cũng cho thấy tính chất nặng nề của nó. [32] Những sáng tạo như các phương tiện bọc giáp đặc biệt, robot dò mìn và áo bảo vệ đặc biệt đã cứu sinh mạng của vô số binh sĩ và thường dân. Nhưng rất khó khăn để chấm dứt làn sóng IED. Lấy ví dụ, năm 2011, số thiết bị nổ tự tạo được dò ra hoặc cho phát nổ ở riêng Afghanistan tăng tù 15.225 lên 16.554, mức tăng 9%. Số người Afghanistan thiệt mạng hay bị thương vì IED tăng 10% trong năm 2010-2011, riêng IED chiếm 60% tất cả thương vong dân sự. [33]
Gây thiệt hại và thích nghi với chiến tranh tàng hình hơn cả IED là vũ khí tối thượng của các chiến dịch du kích và khủng bố ngày nay: các cá nhân được thúc đẩy động cơ và sẵn sàng từ bỏ mạng sống của mình để thực hiện nhiệm vụ. Tổng cộng, những kẻ đánh bom liều chết chịu trách nhiệm cho 22 trong số 30 vụ tấn công khủng bố gây thương vong lớn nhất trên toàn thế giới từ năm 1990 tới 2006. Tử vì đạo là một động cơ cổ xưa và những chiến binh tuẫn giáo luôn xuất hiện trong bất cứ thời đại nào của chiến tranh. Nhưng kể từ những năm 1980, những vụ tấn công liều chết đã tăng mạnh. Các vụ tấn công thường xuyên và được lên chiến thuật tỉ mỉ là chưa từng có tiền lệ. Sự kết hợp của những động cơ tiền hiện đại và những năng lực hậu hiện đại đã tạo ra sức hủy diệt. Một lần nữa, ba cuộc cách mạng khuếch đại ảnh hường của những kẻ đánh bom liều chết. Họ lợi dụng việc đi lại dễ dàng chưa từng có ngày nay, trong khi văn hóa từ đạo công nhận giá trị những kẻ tiến hành, đưa tới những kẻ mới được chiêu mộ, làm sâu sắc thêm tác động của nỗi sợ không chỉ của nhóm người mục tiêu mà còn, nhờ vào sự khuếch đại qua truyền thông, ra xa hơn thế nhiều. Hơn nữa, văn hóa tử đạo hiệu quả một cách tàn nhẫn, gần như là không thể phòng thủ hoàn toàn trước một tay đánh bom liều chết mà mục đích duy nhất là tiếp cận mục tiêu mà không có ý định rút chạy.
Tất nhiên, chiến tranh phân tán và tàng hình cũng sử dụng các phương tiện cực kỳ hiện đại. Internet đã trở nên thiết yếu, như IED hay các cuộc tấn công liều chết, trong bối cảnh chiến tranh phi tập trung hóa. Ở tiền tuyến cuộc chiến tranh trên mạng là những đòn tấn công tin tặc vào cơ sở hạ tầng dân sự và quân sự, cũng như những đòn tấn công từ chối dịch vụ (DDOS) và gây gián đoạn với các trang web và nền tảng hệ thống mà chính phủ hay nhóm người mục tiêu dựa vào. Nhưng tiếp cận đơn giản hơn cả là tập hợp tiếng nói khuếch đại những thông điệp thù hận, lan truyền các tài liệu và tuyên truyền đe dọa của các tay phiến quân trên mạng, cũng như thu hút thêm người mới tham gia vào mục đích của chúng. Trong khi ở Mỹ và châu Âu, một số tiếng nói lớn tiếng với dư luận về cuộc chiến chống khủng bố bị mỉa mai vì sự thiếu kinh nghiệm quân sự của họ, kẻ đánh bom liều chết đã tiến hành thành công cuộc tấn công một căn cứ CIA ở Afghanistan vào tháng 12 năm 2009 là một “chuyên gia về jihad” chuyển sang cầm súng. Internet không chỉ là một phương tiện khuếch đại cho mục đích đó, nó cũng có thể là một công cụ cho sự cực đoan hóa. [34]
Điểm chung của tất cả những công cụ và kỹ thuật đó là sự tiếp cận cực kỳ dễ dàng với chúng. Như người đứng đầu ngành tình báo quân đội của Israel, tướng Amos Yadlin, chỉ ra trong một bài phát biểu cuối năm 2009, những kẻ thù của Israel vẫn còn kém xa Israel về năng lực quân sự, nhưng họ đang bắt kịp “bằng các tên lửa hành trình chính xác, sự vi tính hóa, vũ khí đối không, GPS và máy bay không người lái”. Ông nói thêm rằng các sản phẩm máy tính, vốn không bán đại trà trên kệ hàng nhưng giờ vẫn có thể mua được dễ dàng, trao cho kẻ thù của Israel những khả năng quan trọng trong việc mã hóa liên lạc của chúng và tấn công các nguồn lực của Israel. “Quyền lực trên mạng trao cho những kẻ nhỏ bé kiểu năng lực từng chỉ thuộc về các siêu cường”, ông nói. “Giống như máy bay không người lái, đó là việc sử dụng một lực lượng để tấn công mà không cần tính tới khoảng cách hay khoảng thời gian, và không gây nguy hiểm cho tính mạng của kẻ chiến đấu”. [35]
Nhận xét của tướng Yadlin tổng kết thế lưỡng nan các quân đội - và những chính phủ triển khai các quân đội đó, những công dân mà các quân đội đó phải bảo vệ - đang phải đối mặt. Lực ly tâm từng phân tán quyền lực trong chính trị, kinh doanh hay tôn giáo đã không ngừng lại trước lĩnh vực quân sự, như thể nó là không thể đụng đến. Sự suy tàn của quyền lực đã thay đổi những hạn định và khả năng của xung đột, làm tăng ảnh hưởng của các tay chơi nhỏ, phi nhà nước và phi truyền thống trong khi nhiều công cụ đã được phổ quát hóa và chi phí đã giảm. Truyền thông và thông tin liên lạc phân tán bài học về điều gì đang vận hành hiệu quả và giúp cho các hiệu ứng này tự lớn dần lên.
Khi những quyền lực quân sự mới và nhỏ này thành công, các quyền lực khác còn đang đứng đợi sau cánh gà, hoặc chưa ra đời, tìm cách vượt qua chúng. Kịch bản này không có nghĩa là xung đột quy mô nhỏ tiếp diễn vô tận là không thể tránh khỏi - nhưng nó có ý nghĩa sâu sắc với bất cứ ai coi việc duy trì hòa bình như một ưu tiên đạo đức hay thực tế.
Nó cũng có tác động to lớn lên cách mà quyền lực được giành lấy, nắm giữ và đánh mất trong thời đại của chúng ta.
SỰ SUY TÀN CỦA QUYỀN LỰC VÀ NHỮNG LUẬT LỆ MỚI CỦA CHIẾN TRANH“Không bao giờ nữa” là khẩu hiệu chung cho tất cả những ai sống sót qua các cuộc chiến. Nhưng không ngày nào không trôi qua với một lời nhắc nhở rằng bạo lực, khủng bố và sự đàn áp vẫn là những thế lực đang định hình cuộc sống và cộng đồng con người. “Cổ tức hòa bình”* của Chiến tranh Lạnh đã nhanh chóng bị phân chia vào các cuộc Chiến tranh Vùng Vịnh, cuộc tấn công tòa nhà Trung tâm Thương mại Thế giới lần thứ nhất, cuộc xung đột ở Balkan, cuộc diệt chủng ở Rwanda, các cuộc nội chiến ở Tây Phi và nhiều hơn nữa. Tác giả Robert Kaplan đã cảnh báo về “thời đại hỗn loạn sắp đến” khi các quốc gia tham gia Chiến tranh Lạnh phân rã và căng thẳng sắc tộc lẫn tôn giáo gia tăng. [36] Cú sốc 11 tháng 9, sự nổi lên của Al Qaeda và những tổ chức ăn theo, việc tiến hành một “cuộc chiến tranh toàn cầu chống khủng bố” dưới danh nghĩa này hay danh nghĩa khác kể từ đó đã hợp thành cảm giác về một thế giới bị vây hãm bởi những hình thức bạo lực mới với mức độ thấp nhưng ảnh hưởng cao. Dù có quan điểm khác nhau, các nhà phân tích như Kaplan và Amy Chua, tác giả cuốn World on Fire (tạm dịch: Thế Giới Trong Cơn Nguy Cấp), đã tranh luận rằng tốc độ toàn cầu hóa quá nhanh và sự suy yếu của các nhà nước đã khiến xung đột bạo lực dễ xảy ra hơn, và nỗ lực để kiến tạo nền dân chủ kiểu phương Tây ở những nơi chúng chưa tồn tại nhiều khi phản tác dụng và biến thành bạo lực. [37] Trong khi đó, chủ nghĩa khủng bố, chiến tranh mạng và buôn lậu ma túy diễn ra ở những chiến tuyến mơ hồ, hay thay đổi, không có đường biên giới rõ ràng. Chúng có thể gây ra sự hủy diệt ở bất cứ đâu trên thế giới vào bất cứ lúc nào.
Cổ tức hòa bình (Peace pidend): Thuật ngữ chỉ số tiền tiết kiệm được bằng cách cắt giảm chi phí quốc phòng của một quốc gia khi ở trạng thái hòa bình ổn định, thường là sau khi kết thúc chiến tranh hay loại bỏ được một nguy cơ an ninh tầm cỡ quốc gia.
Hãy gọi chúng là xung đột cường độ thấp, chiến tranh quy mô nhỏ, chiến tranh không chính quy, hay như các học giả Marc Hecker và Thomas Rid gọi, “ ‘Chiến tranh 2.0’ – dưới bất cứ cái tên nào, xung đột bạo lực ngày nay khác xa những hình thức đã định hình nên thế kỷ XIX và XX và đã được phát trong các phim tài liệu trên Kênh Lịch Sử... và trong các hình mẫu chi tiêu quốc phòng của hầu hết các nước”. [38] Điều ít rõ ràng hơn là làm sao để giải thích bối cảnh mới này. Cuộc tranh luận đòi cắt giảm cực đoan và cải cách những quân đội lớn trên thế giới chìm trong những lợi ích nhóm, ấn tượng rằng chúng đầy điểm yếu, nỗi lo lớn hơn về sự xói mòn sức mạnh răn đe thông thường. Những mối đe dọa liên nhà nước truyền thống không hề mất đi, dù chúng là các tranh chấp biên giới chưa được giải quyết từ vùng Caucasus tới Nam Mỹ, sự tập trung quân đội ở các nước như Iran và Bắc Triều Tiên, hay sự nghi ngờ sâu sắc lẫn nhau giữa Mỹ và Trung Quốc. Trong khi đó, những quy tắc xử lý tình trạng lan tràn bạo lực của các nhân tố phi nhà nước phụ thuộc vào những ý kiến tranh luận với nhau về nguyên nhân cội rễ của nó, mà các nhà phân tích gắn với các lý do đa dạng về bất bình đằng kinh tế, đứt gãy văn hóa, sự lan rộng của chủ nghĩa đế quốc do các tập đoàn đứng sau lưng, chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan, sự xách động do nhà nước tài trợ và một loạt các yếu tố khác.
Nhìn vào chiến tranh ngày nay thông qua lăng kính của sự suy tàn quyền lực sẽ không giải quyết được cuộc tranh luận đó. Nhưng nó có thể làm sáng tỏ về những hình thức xung đột nào sẽ tiếp diễn, và những thực tế mới nào mà bất cứ chiến lược quân sự nào - dù là của một nền dân chủ phương Tây, một siêu cường đang lên, một nước đang phát triển hay một nhóm quân đội hay quân nổi dậy - phải tính tới nếu muốn thành công.
Siêu Cạnh Tranh Quân Sự Là ĐâyNhững vũ khí dễ có được sự mơ hồ trong lằn ranh giữa binh sĩ và thường dân, giữa công nghệ quân sự và tiêu dùng; sự gia tăng số lượng các cuộc xung đột - tranh giành lãnh thổ ngày càng ít, mà tiền bạc, hàng hóa và các ý tưởng ngày càng nhiều, đã thiết lập sân khấu cho sự siêu cạnh tranh trong lĩnh vực chiến tranh và an ninh. Giống như các đảng phái chính trị lớn hay những gã khổng lồ trong các ngành kinh doanh và ngân hàng, những định chế quân sự cực lớn đang đối mặt với những kẻ cạnh tranh mới, không còn bị kiềm chế bởi rào cản truyền thống nữa. Một bộ quốc phòng lớn như Lầu năm góc không còn giữ chiếc ổ khóa hãm chặt các công cụ và nguồn lực cần thiết để tiến hành một cuộc xung đột. Những kỹ năng đáng giá trong xung đột giờ có thể được thu lượm không chỉ từ việc huấn luyện cơ bản, các học viện đào tạo sĩ quan và trường đại học quốc phòng, mà cả trong các trại huấn luyện quân nổi dậy ở tây bắc Pakistan, một trường dòng Hồi giáo ở Leicester, Anh hay một máy tính trong trường học ở Quảng Châu, Trung Quốc.
Trong bối cảnh phân tán đó, bộ máy quân sự truyền thống tiếp tục giữ vị trí quan trọng và gây ấn tượng mạnh. Nó sở hữu nhiều lợi thế của nguồn lực công và khả năng biến chính mình thành ưu tiên hàng đầu trong ngân sách chính phủ. Chủ quyền quốc gia trao cho nó sức mạnh chính nghĩa giúp thu hút những người đăng lính và sự chính danh chính trị để tham gia các liên minh, giúp nó khẳng định tính đúng đắn của việc đầu tư và chi tiêu. Truyền thống đứng về nó. Nhưng điều nó đánh mất chính là sự độc quyền. Hai sự độc quyền quan trọng - một là trên triết lý, một là trong thực tế - đã biến mất và bộc lộ những điểm dễ tổn thương của nó. Đầu tiên là sự độc quyền trên triết lý của nhà nước trong việc sử dụng bạo lực hợp pháp. Thứ hai là sự độc quyền trong thực tế được ban cho quân đội bởi sự cạnh tranh địa chính trị giữa các quốc gia chủ quyền và nhu cầu không ngừng về công nghệ phức tạp để thắng cuộc cạnh tranh đó. Sự nổi lên của những nhân tố phi nhà nước hùng mạnh và sự phân tán công nghệ ra ngoài lãnh địa của các chuyên gia với tốc độ chóng mặt đã hủy hoại lợi thế cơ bản đó.
Ngày nay, các quân đội quốc gia đang nỗ lực để thích nghi - với tốc độ và kết quả khác nhau - với chiến tranh “toàn diện” trong đó vũ khí kỹ thuật số cũng nhiều như vũ khí vật chất, các